Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn thạc sĩ Kiểm soát chi vốn chương trình mục tiêu quốc gia qua kho bạc nhà nước Huyện Krông Bông Tỉnh Đăk Lắk (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 94 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


HUỲNH NGỌC KỲ


K
K
I
I


M
M


S
S
O
O
Á
Á
T
T



C
C
H
H
I
I


V
V


N
N


C
C
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G



T
T
R
R
Ì
Ì
N
N
H
H




M
M


C
C


T
T
I
I
Ê
Ê
U
U



Q
Q
U
U


C
C


G
G
I
I
A
A


Q
Q
U
U
A
A


K
K

H
H
O
O


B
B


C
C


N
N
H
H
À
À


N
N
Ư
Ư


C
C



H
H
U
U
Y
Y


N
N


K
K
R
R
Ô
Ô
N
N
G
G


B
B
Ô
Ô

N
N
G
G


T
T


N
N
H
H


Đ
Đ
A
A
K
K


L
L
A
A
K
K







Chuyên ngành: Kinh tế - Phát triển
Mã số: 60.31.05


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đoàn Gia Dũng



Đà Nẵng, Năm 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Người làm đơn

Huỳnh Ngọc Kỳ














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 1
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu luận văn 2
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI
VỐN CTMTQG 7

1.1. CHI CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA 7
1.1.1. Tổng quan về chi NSNN 7
1.1.2. Chi vốn chƣơng trình mục tiêu quốc gia 14
1.2. KIỂM SOÁT CHI VỐN CTMTQG QUA KBNN 22
1.2.1. Khái niệm và vai trò của Kiểm soát chi vốn CTMTQG qua

KBNN…………………………………………………………………….….22
1.2.2. Nội dung công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG 24
1.2.3. Tiêu chí đánh giá kết quả kiểm soát chi vốn CTMTQG 34
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG 36
1.3.1. Nhân tố bên ngoài 36
1.3.2. Nhân tố bên trong 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 40

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI VỐN
CTMTQG QUA KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAK LAK 41

2.1. KHÁI QUÁT VỀ KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG 41
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông 41


2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kho bạc Nhà nƣớc Krông
Bông 41
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI VỐN CTMTQG QUA
KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAK LAK 45
2.2.1. Những vấn đề chung 45
2.2.2. Thực trạng công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua Kho bạc
Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak. 49
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 64

2.3.1. Kết quả đạt đƣợc 64
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 71

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT
CHI VỐN CTMTQG QUA KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH

ĐAK LAK 72

3.1. ĐỊNH HƢỚNG, MỤC TIÊU VỀ KIỂM SOÁT CHI VỐN CTMTQG
QUA KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAK LAK 72

3.1.1. Định hƣớng, mục tiêu chung của Hệ thống KBNN 72

3.1.2. Định hƣớng và quan điểm hoàn thiện công tác Kiểm soát chi vốn
CTMTQG qua Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak 75
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI VỐN
CTMTQG QUA KBNN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAK LAK 77

3.2.1. Nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ
công chức đƣợc giao nhiệm vụ kiểm soát chi tại qua Kho bạc Nhà nƣớc
Krông Bông, tỉnh Đak Lak. 77
3.2.2. Hoàn thiện nghiệp vụ kiểm soát chi nguồn vốn CTMTQG tại Kho
bạc Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak. 78




3.2.3. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành
chính 79
3.2.4. Nâng cao sự minh bạch của quy trình: 80
3.2.5. Giải pháp hỗ trợ 80
3.3. KIẾN NGHỊ 80

3.3.1. Kiến nghị với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan 80
3.3.2. Kiến nghị với Kho bạc Nhà nƣớc 81
3.3.3. Kiến nghị với chính quyền địa phƣơng 82

3.3.4. Kiến nghị với chủ dự án 82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 83

KẾT LUẬN 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO) 87



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Ký hiệu
Ý nghĩa
CTMTQG
Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia
ĐTKB-LAN
Chƣơng trình đầu tƣ Kho bạc chạy trên mạng LAN
KBNN
Kho bạc Nhà nƣớc
KSC
Kiểm soát chi
MLNS
Mục lục ngân sách
NSNN
Ngân sách Nhà nƣớc
TABMIS
Treasury And Budget Management Information

System (Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và
kho bạc)
XDCB
Xây dựng cơ bản
KTNN
Kế toán nhà nƣớc
SDNS
Sử dụng ngân sách
VĐT
Vốn đầu tƣ
KLHT
Khối lƣợng hoàn thành
CBKSC
Cán bộ kiểm soát chi
GĐNTT
Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tƣ
GRVĐT
Giấy rút vốn đầu tƣ
GRDT
Giấy rút dự toán




DANH MỤC CÁC BẢNG

Số bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1

Kết quả giải quyết hồ sơ về mặt thời gian
59
Bảng 2.2
Kết quả từ chối thanh toán vốn CTMTQG
60
Bảng 2.3
Tổng KH, dự toán nguồn vốn CTMTQG
61
Bảng 2.4
Tỷ lệ giải ngân so với KH nguồn vốn
CTMTQG
62















1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, cơ chế kiểm soát chi (bao gồm cả kiểm soát chi
đầu tƣ và kiểm soát chi thƣờng xuyên) qua Hệ thống Kho bạc Nhà nƣớc đã có
nhiều thay đổi, từng bƣớc đƣợc hoàn thiện. Cơ chế kiểm soát chi thay đổi
theo hƣớng đơn giản thủ tục hành chính, phân cấp cho chủ đầu tƣ và đơn vị sử
dụng ngân sách, qua đó tạo điều kiện thuận lợi hơn chủ đầu tƣ và đơn vị sử
dụng ngân sách trong việc giải ngân các nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc đƣợc
giao quản lý, trong đó có nguồn vốn Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia
(CTMTQG).
Tuy nhiên qua thực tế công tác kiểm soát chi nguồn vốn CTMTQG tại
KBNN huyện Krông Bông cho thấy còn bộc lộ nhiều tồn tại liên quan đến
nguồn vốn này, cụ thể nhƣ: Việc đầu tƣ các công trình, dự án thuộc vốn các
CTMTQG vẫn còn dàn trải, chồng chéo; tỷ lệ giải ngân nguồn vốn CTMTQG
còn thấp; cơ chế, chính sách liên quan đến việc quản lý nguồn vốn CTMTQG
chƣa ổn định, có nhiều thay đổi, dẫn đến các chủ đầu tƣ còn bị động trong
việc triển khai các CTMTQG, đồng thời dẫn tới việc kiểm soát chi nguồn vốn
này có nhiều rủi ro, sai sót;…
Xuất phát từ thực tế trên, nhằm nâng cao công tác kiểm soát chi vốn
CTMTQG, hạn chế rủi ro, sai sót trong công tác kiểm soát chi, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách đầu tƣ cho các CTMTQG, học
viên chọn đề tài: “kiểm soát chi vốn chương trình mục tiêu quốc gia qua
Kho bạc Nhà nước Krông Bông, tỉnh Đak Lak”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa lý luận về công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG. Phân
tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua Kho bạc
Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp



2
nhằm nâng cao công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua Kho bạc Nhà nƣớc

Krông Bông, tỉnh Đak Lak.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tƣợng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG
qua Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu về kiểm soát chi vốn
CTMTQG qua Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông theo phân cấp.
- Phần thực trạng công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua Kho bạc
Nhà nƣớc Krông Bông chỉ lấy số liệu và thực tế công tác kiểm soát chi tại
Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm
2013.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận: Phƣơng pháp duy vật biện chứng; Phƣơng pháp duy
vật lịch sử.
- Phƣơng pháp cụ thể: Các phƣơng pháp suy luận lôgíc phổ biến; quy
nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, các phƣơng pháp thống kê, khảo sát.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, thì luận văn đƣợc kết cấu gồm 3
chƣơng với nội dung cụ thể sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG.
Chƣơng 2. Thực trạng công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua Kho
bạc Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak.
Chƣơng 3. Giải pháp nâng cao công tác kiểm soát chi vốn CTMTQG qua
Kho bạc Nhà nƣớc Krông Bông, tỉnh Đak Lak.




3

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Bài viết của TS. Nguyễn Đức Thanh về “Quản lý, thanh toán vốn đầu tƣ
công theo hợp đồng và vai trò của KBNN” đăng trên tạp chí Quản lý ngân
quỹ Quốc gia số 1+2/2012, đã có những đánh giá, phân tích các quy định về
kiểm soát, thanh toán liên quan đến hợp đồng xây dựng và đƣa ra đƣợc 4
nhóm giải pháp theo hƣớng gợi mở, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung để hoàn
thiện việc kiểm soát chi theo hợp đồng trong thời gian tới, đặc biệt là khi triển
khai việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kho bạc Nhà nƣớc theo
Nghị định 192/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
Bài viết của Nguyễn Văn Hoan về “Một số trao đổi về quy trình kiểm
soát chi một cửa qua KBNN” đăng trên tạp chí Quản lý ngân quỹ Quốc gia số
5/2012, nêu lên: Thực trạng thực hiện quy trình kiểm soát chi NSNN “một
cửa” qua KBNN, qua đó đã đề xuất sửa đổi quy trình theo hƣớng “Giao dịch
một cửa trong kiểm soát chi NSNN qua KBNN là việc giải quyết công việc từ
khâu hƣớng dẫn, tiếp nhận hồ sơ giấy tờ và trả kết quả tại một đầu mối là cán
bộ KBNN đƣợc phân công nhiệm vụ quản lý đơn vị (khách hàng) đó. Có thể
nói đây là một giải pháp tình thế, phù hợp với giai đoạn hiện nay, tuy nhiên về
lâu về dài cần thay đổi, cho đúng với quy định về giao dịch một cửa.
Bài viết của Phạm Bình về “Mở và sử dụng tài khoản chi chƣơng trình
mục tiêu quốc gia khi vận hành Hệ thống Tabmis – Những kiến nghị từ thực
tế” đăng trên tạp chí Quản lý ngân quỹ Quốc gia số 12/2012, nêu lên: Những
tồn tại, hạn chế liên quan đến việc mở tài khoản chi CTMTQG, đồng thời tác
giả cũng có nhiều đề xuất mang tính gợi mở, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn
thiện trong thời gian tới.
Bài viết của Trần Mạnh Hà về “Một số điểm mới về cơ chế kiểm soát chi
thƣờng xuyên của NSNN qua KBNN theo quy định tại Thông tƣ
161/2012/TT-BTC” đăng trên tạp chí Quản lý ngân quỹ Quốc gia số 12/2012,




4
nêu lên đƣợc những điểm mới của cơ chế kiểm soát chi thƣờng xuyên theo
Thông tƣ số 161/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính, những nội dung cần quan
tâm trong công tác kiểm soát chi thƣờng xuyên, góp phần giúp công chức
đƣợc giao nhiệm vụ kiểm soát chi thực hiện đúng quy định. Tuy nhiên tác giả
chƣa chỉ ra đƣợc những tồn tại liên quan đến việc thực hiện Thông tƣ này.
Bài viết của ThS. Phạm Bình về “Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm
soát chi chƣơng trình mục tiêu quốc gia” đăng trên tạp chí Quản lý ngân quỹ
Quốc gia số 10/2013, tác giả đã phân tích và đánh giá khá chi tiết về các tồn
tại, đồng thời đề ra đƣợc 03 nhóm giải pháp để hoàn thiện công tác kiểm soát
chi CTMTQG, tuy nhiên hiện cơ chế chính sách đã có nhiều thay đổi so với
trƣớc, nên một số tồn tại và giải pháp đã không còn phù hợp, thay vào đó lại
phát sinh những tồn tại mới mà cần phải có giải pháp để hoàn thiện trong thời
gian tới.
Bài viết của Nguyễn Thị Lai về “Quản lý, kiểm soát cam kết chi tại
KBNN Đăk Lăk, những hạn chế phát sinh và kiến nghị giải pháp hoàn thiện”
đăng trên tạp chí Quản lý ngân quỹ Quốc gia số 11/2013, nêu lên: Những tồn
tại, vƣớng mắc trong việc thực hiện quy trình mới này, những tồn tại này đã
làm ảnh hƣởng đến việc giải ngân các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn đầu
tƣ, trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất một số giải pháp cần tiếp tục nghiên cứu
để hoàn chỉnh trong thời gian tới.
Luận văn Thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng của Đoàn Kim Khuyên, Trƣờng
Đại học Đà Nẵng về “Hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư
xây dựng cơ bản tại KBNN Đà Nẵng”, Luận văn đã nghiên cứu sâu phần cơ
sở lý luận, có những đánh giá sát về công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tƣ
ở thời điểm năm 2012 và đã đề ra đƣợc 6 giải pháp để hoàn thiện công tác
kiểm soát thanh toán vốn đầu tƣ, tuy nhiên hiện cơ chế kiểm soát thanh toán





5
vốn đầu tƣ đã có nhiều thay đổi nên cần nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện trong
thời gian tới.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Lƣơng Ngọc Tuyền, Trƣờng Đại học kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh về “Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường
xuyên của ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước”, Luận văn đã có
những nghiên cứu về công tác kiểm soát chi thƣờng xuyên qua KBNN; tuy
nhiên tác giả mới chỉ đi sâu vào phần cơ sở lý luận, phần thực trạng mới chỉ
nêu chung chung công tác kiểm soát chi trƣớc khi có luật ngân sách nhà nƣớc
và sau khi có luật ngân sách nhà nƣớc và một số nội dung đã không còn phù
hợp với các quy định về kiểm soát chi thƣờng xuyên hiện nay, nên cần nghiên
cứu, bổ sung cho hoàn thiện.
Luận văn Thạc sĩ tài chính ngân hàng của Nguyễn Xuân Quảng, Trƣờng
Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội về “Hoàn thiện công tác kiểm soát
chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước”, Luận văn đã nghiên cứu
một cách tổng thể về công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nƣớc (bao gồm cả
chi đầu tƣ và chi thƣờng xuyên) qua Kho bạc Nhà nƣớc. Luận văn đã khái
quát đƣợc cơ sở lý luận, phân tích đánh giá đƣợc tồn tại, nguyên nhân tồn tại
và đề ra đƣợc các giải pháp để hoàn thiện công tác kiểm soát chi, tuy nhiên
hiện cơ chế chính sách liên quan đến kiểm soát chi thƣờng xuyên và chi đầu
tƣ đã có nhiều thay đổi so với trƣớc, nên một số tồn tại và giải pháp đã không
còn phù hợp, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện trong thời gian tới.
Về lý luận và thực tiễn các tác giả đã đƣa ra nhiều vấn đề quan trọng liên
quan đến công tác kiểm soát chi NSNN nói chung và công tác kiểm soát chi
CTMTQG nói riêng. Đánh giá kết quả đạt đƣợc, nêu lên những hạn chế, từ đó
tìm ra những giải pháp hữu hiệu, đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện công
tác kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nƣớc.




6
Tác giả thấy rằng tất cả các công trình nghiên cứu và các bài viết trên tạp
chí đã công bố nói trên là những tài liệu hết sức quý giá của về lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên những nghiên cứu trên lại ở những thời điểm khác nhau, có
những đề tài nghiên cứu đến nay đã khá lâu nên không còn phù hợp với thực
tiễn, các văn bản chế độ về công tác kiểm soát chi CTMTQG đã có nhiều thay
đổi. Do vậy đề tài mà tác giả lựa chọn hiện nay không trùng với bất cứ công
trình khoa học hay luận văn nào đã công bố. Các công trình nghiên cứu, các
bài báo, tạp chí, tài liệu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài đƣợc
tác giả tiếp thu, chọn lọc trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp chuyên
ngành Kinh tế - Phát triển.




7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI VỐN
CTMTQG
1.1. CHI CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
1.1.1. Tổng quan về chi NSNN
a. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nƣớc (NSNN) là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự phát triển của kinh tế
hàng hóa - tiền tệ trong các phƣơng thức sản xuất của các cộng đồng và Nhà
nƣớc của từng thời kỳ. Hay nói cách khác, sự ra đời của Nhà nƣớc, sự tồn tại
của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát
triển của NSNN.
NSNN luôn gắn liền với Nhà nƣớc, nó đƣợc dùng để chỉ các khoản thu

nhập và các khoản chi tiêu của Nhà nƣớc đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật.
Cho đến nay, các Nhà nƣớc khác nhau đều tạo lập và sử dụng NSNN.
Tuy còn có nhiều ý kiến khác nhau nhƣng nội dung khái niệm NSNN thể
hiện ở các điểm chủ yếu sau:
- NSNN là bản dự toán thu, chi tài chính của Nhà nƣớc trong một
khoảng thời gian nhất định, thƣờng là một năm.
- NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc, là kế hoạch tài chính cơ
bản của Nhà nƣớc.
- NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nƣớc
huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau.
Các ý kiến trên xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề khác nhau và có yếu
hợp lý song chƣa đầy đủ. Khái niệm NSNN là khái niệm trừu tƣợng, NSNN là
một hoạt động tài chính cụ thể của Nhà nƣớc, vì vậy nó phải thể hiện đƣợc



8
nội dung kinh tế - xã hội của NSNN, phải đƣợc xem xét trên các mặt hình
thức, thực thể và quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN.
Theo Luật ngân sách Nhà nƣớc (Luật số 01/2002/QH11 đƣợc thông qua
tại kỳ họp thứ 2 Quốc Hội khóa 11, ngày 16/12/2002) có định nghĩa “Ngân
sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
b. Chu trình quản lý chi NSNN
Chu trình quản lý chi NSNN đƣợc hiểu là một vòng tròn khép kín lặp đi
lặp lại từ khâu lập dự toán chi NSNN, chấp hành dự toán, đến quyết toán chi
NSNN, cụ thể nhƣ sau:
- Lập dự toán chi NSNN
Lập dự toán chi NSNN địa phƣơng là việc các cơ quan, đơn vị có trách

nhiệm chi NSNN phải tổ chức lập dự toán chi Ngân sách trong nhiệm vụ
đƣợc giao và gửi cơ quan tài chính cùng cấp, cơ quan tài chính xem xét tổng
hợp, lập dự toán trình UBND cùng cấp. Trên cơ sở dự án toán do cơ quan tài
chính trình, UBND có trách nhiệm kiểm tra, xem xét dự toán Ngân sách của
cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết định và trên cơ sở Nghị quyết của
HĐND, UBND giao dự toán của các đơn vị trực thuộc.
Dự toán chi NSNN đã đƣợc phê chuẩn trở thành các chỉ tiêu pháp lệnh,
các cơ quan Nhà nƣớc, các đơn vị dự toán ngân sách các cấp có trách nhiệm
giao nhiệm vụ cho các đơn vị dự toán trực thuộc bảo đảm đúng với dự toán
ngân sách đƣợc phê duyệt, không một tổ chức, cá nhân nào đƣợc thay đổi
nhiệm vụ chi ngân sách đã đƣợc phân bổ khi chƣa có sự đồng ý của cơ quan
có thẩm quyền.
Lập dự toán là công việc ban đầu cho quá trình thực hiện của cả năm
ngân sách, do đó việc xây dựng dự toán mang ý nghĩa rất quan trọng, quyết




9
định đến chất lƣợng, hiệu quả của toàn bộ các khâu trong chu trình quản lý
NSNN. Một dự toán NSNN đúng đắn, có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn sẽ
có tác dụng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế- xã hội, đối với việc bảo
đảm cân đối về tài chính, ngân sách, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận cho
các khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành dự toán chi NSNN.
- Chấp hành dự toán chi NSNN
Sau khi dự toán chi NSNN đƣợc phê chuẩn, các cơ quan nhà nƣớc ở
trung ƣơng và địa phƣơng có trách nhiệm phân bổ dự toán chi NSNN cho các
đơn vị sử dụng ngân sách đúng với dự toán đƣợc phê chuẩn về tổng số và chi
tiết theo đúng tính chất của nguồn kinh phí ngân sách đã đƣợc duyệt, đồng
thời thông báo cho cơ quan tài chính cùng cấp và Kho bạc Nhà nƣớc (KBNN)

nơi giao dịch để theo dõi, cấp phát và quản lý.
Căn cứ vào dự toán chi NSNN đƣợc giao, các đơn vị sử dụng ngân sách
tiến hành chi tiêu, hoàn chỉnh hồ sơ, chứng từ gửi đến KBNN nơi mở tài
khoản để tạm ứng, thanh toán cho các đối tƣợng liên quan. KBNN có trách
nhiệm kiểm tra hồ sơ và lệnh chuẩn chi của chủ tài khoản, thực hiện chi trả
trong phạm vi dự toán và theo đúng chế độ Nhà nƣớc quy định.
- Quyết toán chi NSNN
Là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi NSNN. Nó bao gồm các
công việc lập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các khoản chi NSNN đã đƣợc
thực hiện trong năm ngân sách. Quyết toán chi NSNN đƣợc thực hiện theo
phƣơng pháp từ cơ sở, tổng hợp từ dƣới lên trên và phải đƣợc Hội đồng nhân
dân các cấp phê chuẩn. Quyết toán chi NSNN là sự tổng kết tình hình thực
hiện các khoản chi ngân sách của năm trƣớc, thông qua đó chúng ta có thể
thấy đƣợc hoạt động phát triển KT-XH của Nhà nƣớc trong năm ngân sách,
thấy đƣợc hoạt động NSNN với tƣ cách là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà



10
nƣớc, từ đó rút ra đƣợc những kinh nghiệm cần thiết cho việc điều hành chi
NSNN những năm tiếp theo.
c. Sự cần thiết của việc kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Đối với nƣớc ta hiện nay, kiểm soát chi NSNN có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, do yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nƣớc, trong quá trình
đổi mới cơ chế quản lý tài chính nói chung và cơ chế quản lý NSNN phải đảm
bảo tính tiết kiệm và có hiệu quả.
Điều này là một tất yếu khách quan, bởi vì nguồn lực của NSNN bao
giờ cũng có hạn, nó là nguồn lực của đất nƣớc, trong đó chủ yếu là tiền của và
công sức lao động của nhân dân đóng góp, do đó không thể chi tiêu một cách

lãng phí. Vì vậy, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN thực sự trở thành
mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nƣớc, các cấp lãnh đạo, các ngành của
toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác này sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc thực
hành tiết kiệm, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội,
chống các hiện tƣợng tiêu cực, chi tiêu lãng phí, góp phần lành mạnh hoá nền
tài chính quốc gia, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế.
Thứ hai, do hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi NSNN:
Cơ chế quản lý, cấp phát thanh toán NSNN tuy đã đƣợc thƣờng xuyên
sửa đổi và từng bƣớc hoàn thiện, nhƣng cũng chỉ có thể quy định đƣợc những
vấn đề chung nhất, mang tính nguyên tắc. Vì vậy, nó không thể bao quát đƣợc
hết tất cả những hiện tƣợng nảy sinh trong quá trình thực hiện chi NSNN.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế xã hội, công tác chi
NSNN cũng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Điều này cũng làm cho cơ
chế quản lý chi NSNN nhiều khi không theo kịp với các biến động và phát
triển của hoạt động chi NSNN; trong đó, một số nhân tố quan trọng nhƣ hệ




11
thống tiêu chuẩn định mức chi tiêu còn xa rời thực tế, thiếu đồng bộ, thiếu căn
cứ để có thể thẩm định; chƣa có một cơ chế quản lý chi phù hợp và chặt chẽ
đối với một số lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực chi đầu tƣ XDCB, một lĩnh
vực phức tạp, không chỉ tốn nhiều tiền mà còn liên quan đến yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội, tạo ra những kẻ hở cơ chế quản lý; từ đó, một số không ít
đơn vị và cá nhân đã lợi dụng, khai thác để tham ô, trục lợi, gây lãng phí tài
sản và công quỹ của Nhà nƣớc. Từ thực tế trên, đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền thực hiện việc kiểm tra giám sát chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp
thời những hiện tƣợng tiêu cực của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN cấp;
đồng thời phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý để từ đó có những giải

pháp và kiến nghị nhằm sửa đổi bổ sung kịp thời những cơ chế, chính sách
hiện hành, tạo nên một cơ chế quản lý và kiểm soát chi NSNN ngày càng chặt
chẽ và hoàn thiện hơn.
Thứ ba, do ý thức của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN:
Một thực tế khá phổ biến là các đơn vị sử dụng kinh phí đƣợc NSNN
cấp thƣờng có chung một tƣ tƣởng là tìm mọi cách sử dụng hết số kinh phí
đƣợc cấp mà không quan tâm đến việc chấp hành đúng mục đích, đối tƣợng
và dự toán đã đƣợc duyệt. Các đơn vị này thƣờng lập hồ sơ, chứng từ thanh
toán khống, sai chế độ quy định, không có trong dự toán chi NSNN đã đƣợc
phê duyệt, không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu, thiếu các hồ sơ,
chứng từ pháp lý có liên quan Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có một cơ
quan chức năng có thẩm quyền, độc lập và khách quan, có kỹ năng nghề
nghiệp, có vị trí pháp lý và uy tín cao để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và
hƣớng dẫn các đơn vị chấp hành đúng các quy định, tránh sai sót dẫn đến lãng
phí, thất thoát kinh phí NSNN.
Thứ tư, do tính đặc thù của các khoản chi NSNN các khoản chi của
NSNN đều mang tính chất không hoàn trả trực tiếp.



12
Tính chất cấp phát trực tiếp không hoàn lại của các khoản chi NSNN là
một ƣu thế vô cùng to lớn đối với các đơn vị sử dụng NSNN. Trách nhiệm của
họ là phải chứng minh đƣợc việc sử dụng của các khoản kinh phí bằng các kết
quả công việc cụ thể đã đƣợc Nhà nƣớc giao. Tuy nhiên, việc dùng những chỉ
tiêu định tính và định lƣợng để đánh giá và đo lƣờng kết quả công việc trong
nhiều trƣờng hợp là thiếu chính xác và gặp không ít những khó khăn. Vì vậy,
cần phải có một cơ quan chức năng có thẩm quyền để thực hiện việc kiểm tra,
kiểm soát các khoản chi của NSNN, bảo đảm tƣơng xứng giữa khoản tiền Nhà
nƣớc đã chi ra với kết quả công việc mà các đơn vị sử dụng NSNN thực hiện.

Thứ năm, do yêu cầu mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới
Theo kinh nghiệm quản lý NSNN của các nƣớc và những khuyến nghị
của tổ chức tài chính quốc tế; việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN
chỉ thực hiện có hiệu quả trong điều kiện thực hiện cơ chế chi trả trực tiếp từ
cơ quan quản lý quỹ NSNN đến từng đối tƣợng sử dụng ngân sách, kiên quyết
không chuyển kinh phí của NSNN qua các cơ quan quản lý tài chính nhà
nƣớc, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí của nhà nƣớc.
d. Quản lý chi NSNN, đối tượng và mục tiêu quản lý chi NSNN
- Quản lý chi NSNN, là quá trình Nhà nƣớc vận dụng chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và các quy định của Nhà nƣớc trong quản lý kinh tế, đồng thời
sử dụng các công cụ và phƣơng pháp quản lý nhằm tác động đến quá trình sử
dụng các nguồn vốn thuộc NSNN để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do
Nhà nƣớc đảm nhiệm một cách có hiệu quả nhất.
- Đối tƣợng quản lý chi NSNN, là toàn bộ các khoản chi của Nhà nƣớc
đã đƣợc bố trí trong dự toán NSNN và đƣợc cấp phát, thanh toán để thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Trong
đó:




13
+ Cơ sở để quản lý chi NSNN là cơ chế quản lý kinh tế tài chính và hệ
thống luật pháp hiện hành.
+ Quản lý chi NSNN là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các cơ
quan, đơn vị sử dụng NSNN.
- Mục tiêu cơ bản của quản lý chi NSNN, là không để nguồn vốn NSNN
bị thất thoát, lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích; nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn vốn, giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa một bên

là Nhà nƣớc với một bên là các chủ thể sử dụng vốn NSNN.
e. Kiểm tra, kiểm soát chi NSNN
Kiểm tra, kiểm soát chi NSNN đƣợc thực hiện ở tất cả các giai đoạn
trong chu trình chi NSNN, cụ thể nhƣ sau:
- Đối với khâu lập dự toán, kiểm tra NSNN là việc xem xét lại các dự
báo, đánh giá số liệu dự toán của các đơn vị lập nhằm bảo đảm phù hợp với
thực tế phát sinh, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hoặc của từng
cấp, từng ngành.
- Đối với khâu chấp hành NSNN, là việc kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quản lý chi NSNN, đối chiếu các khoản chi NSNN với dự toán đƣợc
giao, với các quy định về tiêu chuẩn, định mức do Nhà nƣớc ban hành, bảo
đảm đúng chế độ Nhà nƣớc quy định. Trƣờng hợp chi tiêu không đúng chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức thì phải thu hồi.
- Đối với khâu quyết toán chi NSNN, là việc xem xét đánh giá sự đúng
đắn, tính chính xác của các loại báo cáo tổng hợp, từ đó đƣa ra các kết luận.
Như vậy kiểm tra, kiểm soát chi NSNN là một chức năng của quản lý
NSNN, gắn liền với quản lý NSNN, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động của
NSNN.



14
1.1.2. Chi vốn chƣơng trình mục tiêu quốc gia
a. Khái niệm chi vốn CTMTQG
Chi vốn CTMTQG là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực tài chính
của Nhà nƣớc nhằm thực hiện các dự án thuộc các CTMTQG.
b. Đặc điểm chi vốn CTMTQG
Đầu tƣ cho các vốn CTMTQG cũng đƣợc xem nhƣ hoạt động đầu tƣ
phát triển nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động đầu tƣ phát triển
và ngoài ra thì nó có một số đặc điểm riêng, cụ thể có những đặc điểm sau:

- Quy mô tiền vốn, vật tƣ, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tƣ
thƣờng rất lớn.
- Thời kỳ đầu tƣ kéo dài: Thời kỳ đầu tƣ tính từ khi khởi công thực hiện
dự án đến khi dự án hoàn thành và đƣa vào hoạt động.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tƣ kéo dài: Thời gian này tính từ
khi đƣa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào
thải công trình.
- Các thành quả của hoạt động đầu tƣ của các CTMTQG là các công
trình xây dựng, thƣờng phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó đƣợc tạo dựng
nên.
- Đầu tƣ phát triển có độ rủi ro cao: Do quy mô vốn đầu tƣ lớn, thời kỳ
đầu tƣ kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tƣ cũng kéo dài.
- Các hoạt động đầu tƣ theo các CTMTQG chủ yếu tập trung ở các vùng
khó khăn không có điều kiện phát triển kinh tế.
- Các hoạt động đầu tƣ theo vốn CTMTQG thƣờng chỉ có nhà nƣớc mới
thực hiện.
c. Phân loại chi vốn CTMTQG.
- Chi vốn CTMTQG có tính chất chi đầu tƣ: Là khoản vốn ngân sách
đƣợc Nhà nƣớc dành cho đầu tƣ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh




15
tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn và các khoản chi đầu tƣ khác thuộc
các CTMTQG.
- Chi vốn CTMTQG có tính chất chi sự nghiệp: là các khoản chi thƣờng
xuyên bao gồm các khoản chi về các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội,
văn hoá xã hội, hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc thuộc các CTMTQG.
d. Các nguồn vốn đầu tư cho CTMTQG

Vốn đầu tƣ là một trong các nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tƣ.
Nguồn vốn huy động để thực hiện đầu tƣ theo CTMTQG gồm có nguồn vốn
trong nƣớc và nguồn vốn nƣớc ngoài, trong đó nguồn vốn trong nƣớc vẫn là
nguồn vốn chủ yếu. Nguồn vốn trong nƣớc đƣợc hình thành từ phần tích lũy
nội bộ của nền kinh tế, bao gồm cả nguồn tích lũy của nhà nƣớc và khu vực
dân doanh.
- Nguồn vốn NSNN:
Nguồn vốn đầu tƣ nhà nƣớc cụ thể là nguồn vốn trích từ NSNN gồm
NSTW và NSĐP tồn tại dƣới hai hình thức vốn đầu tƣ và vốn sự nghiệp. Đây
là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động để thực hiện
chƣơng trình, nó có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động đầu tƣ của CTMTQG.
Trong các giai đoạn thực hiện chƣơng trình vừa qua nguồn vốn NSNN chiếm
khoảng 53% trong tổng nguồn vốn thực hiện chƣơng trình.
- Các nguồn tài chính ngoài NSNN:
Nguồn vốn tín dụng trong nƣớc và vốn huy động từ khu vực dân cƣ,
các doanh nghiệp dân doanh (công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tƣ
nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã…). Nguồn vốn này tồn tại dƣới nhiều hình
thái khác nhau nhƣ: tiền, tài sản, ngày công lao động Cùng với quá trình
phát triển của nền kinh tế, quy mô vốn của khu vực này không ngừng gia
tăng, nó không chỉ đóng góp về vật chất mà còn tạo nên giá trị tinh thần,



16
thông qua sự đóng góp về vật chất để nói lên sự đồng cảm, cổ vũ, động viên
và khích lệ những ngƣời nghèo, những ngƣời bị HIV/AIDS… hòa nhập cộng
đồng, tự mình vƣợt qua các khó khăn.
Ngoài ra, trong những năm gần đây nguồn huy động vốn cho hoạt động
đầu tƣ xóa đói giảm nghèo còn có nguồn vốn nƣớc ngoài bao gồm: Nguồn tài
trợ phát triển chính thức (ODF) trong đó ODA chiếm tỷ trọng cao hơn cả,

nguồn vốn ODA và viện trợ trong quá trình quản lý sử dụng có thể đƣa vào
nguồn vốn ngân sách, phần tín dụng đầu tƣ của nhà nƣớc, thực hiện các dự án
độc lập, nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế nhƣ: Ngân hàng
thế giới (WB), Liên hiệp quốc… Hiện nay nƣớc ta đang trong quá trình đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế khả năng huy động vốn từ khu vực này cho
chƣơng trình sẽ ngày càng tăng lên về lƣợng và thay đổi về cơ cấu.
e. Các mô hình KBNN trên thế giới
Trên thế giới có các mô hình KBNN tiêu biểu sau đây:
- Mô hình thứ nhất, Kho bạc Nhà nƣớc trực thuộc Ngân hàng Trung
ƣơng, theo mô hình này thì trong bộ máy của Ngân hàng trung ƣơng có một
đơn vị làm nhiệm vụ quản lý Quỹ ngân sách Nhà nƣớc, đặc trách theo dõi và
giúp Bộ Tài chính quản lý các khoản thu, chi Ngân sách Nhà nƣớc, phối hợp
với Vụ Ngân sách Nhà nƣớc của Bộ Tài chính làm nhiệm vụ kế toán và quyết
toán NSNN.
Mô hình này trƣớc đây đƣợc áp dụng ở các nƣớc Xã hội chủ nghĩa nhƣ
Liên xô (cũ); Trung Quốc, các nƣớc Ðông Âu và Châu Phi, hiện nay mô hình
này hầu nhƣ không còn tồn tại.
- Mô hình thứ hai, Kho bạc là cơ quan trực thuộc Chính phủ, theo mô
hình này Kho bạc Nhà nƣớc là một cơ quan ngang Bộ thƣờng đƣợc gọi là Bộ
Ngân khố hay Tổng nha ngân khố.




17
Nhiệm vụ chủ yếu của Kho bạc Nhà nƣớc theo mô hình này là: Quản lý
tài sản của Nhà nƣớc; thực hiện thu, chi NSNN; hạch toán kế toán các nghiệp
vụ tài chính, lập cân đối thu chi tiền tệ; phát hành tiền; quản lý nợ quốc gia;
quản lý các loại tài sản quý hiếm; phát hành trái phiếu, tín phiếu Nhà nƣớc.
Mô hình này đƣợc áp dụng ở các nƣớc nhƣ: Mỹ, Anh, Canada,

Australia,
Mô hình thứ ba, Kho bạc Nhà nƣớc là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính
hoặc (Bộ Kinh tế - Tài chính), theo mô hình này Kho bạc Nhà nƣớc là một bộ
phận của Bộ Tài chính, chịu sự chỉ đạo của Bộ trƣởng Bộ Tài chính.
Nhiệm vụ chủ yếu của KBNN theo mô hình này là: Thực hiện các nhiệm
vụ tập trung các khoản thu thuế, phí vào ngân sách, kiểm soát việc chi trả từ
NSNN; xắp sếp điều hòa các khoản chi NSNN; kiểm tra giám sát việc sử
dụng công quỹ, quản lý các khoản nợ trong nƣớc và nợ nƣớc ngoài.
Mô hình này đƣợc áp dụng ở phần lớn các nƣớc ở Châu âu điển hình là
Pháp, Ðức, và các nƣớc ở Ðông Nam á nhƣ Indonexia, Malayxia, Thái Lan.
Kho bạc Nhà nƣớc còn có tên gọi khác nhƣ Vụ quản lý tài chính công, Vụ Kế
toán công, trong đó có các nghiệp vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nƣớc, kế
toán và quyết toán ngân sách Nhà nƣớc, quản lý nợ công.
Có thể nói rằng Kho bạc Nhà nƣớc ở các nƣớc ra đời khá sớm, hầu hết
đƣợc chia tách và phát triển từ cơ quan Tài chính, chuyên môn hóa công tác
quản lý ngân sách Nhà nƣớc và mô hình tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ của KBNN ở các nƣớc tùy vào điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội của mỗi
nƣớc. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống KBNN đƣợc xây dựng theo mô hình
thứ ba, nghĩa là KBNN là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính. KBNN đƣợc đƣợc
tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ trung ƣơng đến địa phƣơng (gồm cấp
trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện), theo nguyên tắc tập trung, thống nhất.



18
f. Lịch sử hình thành KBNN
Cùng với sự ra đời của nƣớc Việt nam dân chủ cộng hoà (năm 1945), Nha
ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính đã đƣợc thành lập theo Sắc lệnh số 45/TTg
của Thủ tƣớng Chính phủ, với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là in tiền, phát hành
tiền của Chính phủ, quản lý quỹ Ngân sách Nhà nƣớc, quản lý một số tài sản quý

của Nhà nƣớc bằng hiện vật nhƣ vàng, bạc, kim khí quý, đá quý,
Từ năm 1951, nhiệm vụ của Nha Ngân khố đƣợc chuyển giao sang hệ
thống Ngân hàng cùng với việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau
đổi tên là Ngân hàng Nhà nƣớc). Trong giai đoạn này, trên nền tảng của cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, Ngân hàng Nhà nƣớc vừa thực hiện chức năng quản lý
Nhà nƣớc và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, thực hiện vai trò là 3
trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, vừa thực
hiện nhiệm vụ của Nha Nhân khố bao gồm các công việc nhƣ chấp hành quĩ
Ngân sách Nhà nƣớc, tập trung các nguồn thu của Ngân sách nhà nƣớc, tổ chức
cấp phát chi trả các khoản chi Ngân sách Nhà nƣớc theo lệnh của cơ quan Tài
chính, làm nhiệm vụ kế toán thu, chi quỹ Ngân sách Nhà nƣớc, in tiền, phát hành
tiền, quản lý dự trữ Nhà nƣớc về vàng bạc kim khí đá quý.
Những năm cuối của thập kỷ 90, công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế đất nƣớc diễn ra một cách sâu sắc và toàn diện. Ðể phù hợp với cơ chế
quản lý kinh tế mới, cơ chế quản lý tài chính tiền tệ đã có sự thay đổi, đặc biệt
là các vấn đề có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của Tài chính và Ngân
hàng. Hệ thống Ngân hàng đƣợc tổ chức lại thành hệ thống Ngân hàng hai
cấp: Ngân hàng Nhà nƣớc thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc trên lĩnh
vực tiền tệ tín dụng, các Ngân hàng thƣơng mại thực hiện kinh doanh tiền tệ -
tín dụng. Nhiệm vụ quản lý quỹ Ngân sách Nhà nƣớc, các quỹ tài chính Nhà
nƣớc đƣợc chuyển giao từ Ngân hàng Nhà nƣớc cho Bộ Tài chính để hệ thống

×