Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.92 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH



VƯƠNG THỊ THANH HIỀN











Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số : 60 22 32




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐOÀN TRỌNG THIỀU








Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

THƯ
VIỆN


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đoàn Trọng Thiều, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn
học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học, ban quản lí Thư viện –
trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Trung học phổ
thông Dĩ An – Bình Dương, tới gia đình và những người bạn thân thiết đã khuyến
khích, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khoá học cũng như
trong quá trình thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010.
Học viên

Vương Thị Thanh Hiền
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận
dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp
cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn
học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn
học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút
viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã
trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá
yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma
lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca
ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi
năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn
Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn
học Việt Nam.
Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy đa phần các
ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội
dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong
những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn
hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này
cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành
một hệ thống trọn vẹn.
Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua
Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếng
vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới

bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch
sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã
thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực
đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận,
càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn”
[59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều
mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và
phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu
trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện
nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười
năm trở lại đây.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở
mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng
Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên,
Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm
nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có
liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự
ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại,
truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu
người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của
các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố
dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu
tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là
việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều
hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể
nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59,

tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh
hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những
câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt,
chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng
có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].
Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng
Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác
giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn
lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế
bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân
gian” [20].
Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét
phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh:
“sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những
bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những
ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc,
Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc
nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn
Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một
phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ
dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59,
tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân
vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ
trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích
trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng
nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới
quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ

tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu
nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh
Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp
không có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn
năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện
xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã
hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].
Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ
cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện
Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một
Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là
Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng
kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa
giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].
Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên
cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu
tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có
những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm
xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy
Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì.
Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ.
Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó
là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính
nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất
cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh
thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu,
lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác
giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.
Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm:

Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân
bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật
nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.
Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát
hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ
nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.
Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật
của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca
dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do
Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ
pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy
Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có
những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59,
tr. 380].
Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức
khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch
(Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”.
Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm
linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách
tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống.
Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy
Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn
học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng
bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện
Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới

mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của
người đọc Việt Nam.
Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể
chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc
giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp
đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621].
Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương
nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như
chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng
của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622].
Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo
từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết
thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59,
tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn
kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.
Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy
Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời
sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc
sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10].
Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ
tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là
cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].
Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch
tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học
thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm
nhân loại [59, tr.110-111].
Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại

trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng
có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và
cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về
một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một
cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […].
Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến
nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu
đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản
của đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm
vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn
không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong
vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo
trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và
phong phú của dân tộc.
Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa
dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được
sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc
giả trong và ngoài nước.

Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên
phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau
nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát;
hoặc thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát
trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các

bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa
dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa
đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh
hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu


Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành
nghiên cứu:
Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu
đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn
đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát,
phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân
gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng
điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích
như sau:
- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng
của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần
thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.
- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về
tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp văn hóa học:

Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan
điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng
điệu.
5.2. Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu
hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn
thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.

5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ
đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của
văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.


Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt
trong quá trình nghiên cứu.

Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề,
người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh
hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang),
phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.








Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền
đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa
và văn hóa dân gian .
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa
người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là
đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được
nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng
tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà
nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là
Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người “văn trị giáo
hóa” [107, tr.17-18]. 6
Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên
nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”.
Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hoặc cultus
nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt

Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La
Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và
giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất
tốt đẹp.
Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để
trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống;
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn
hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán,…
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài
người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa
mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống
kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên
khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không
phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ có điều kiện
nêu ra một số định nghĩa sau:
- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa
nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người
đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].
- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối
với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống
những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]
- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].
- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn
mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249].
Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan niệm chính
thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do
Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa
làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh
vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người.
Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì
khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các
khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái
niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái
niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu
Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:
“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.
* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:
đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.
* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.

* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân
biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá
trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc
trưng.
1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa
dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện.
Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu
như không hiểu văn hóa dân gian.
Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực
rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng
tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân. Văn hóa dân gian được thể hiện ở
mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm.
Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian thì hiện nay trên thế giới và cả
Việt Nam, thuật ngữ folklore (gốc tiếng Anh : folk là nhân dân, lore là trí tuệ, tri thức) được sử
dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William J.Thoms nêu ra trong tạp chí The Athemneum,
London năm 1846. Dần dần được các nhà văn hóa chấp nhận và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách khoa của
Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng, truyền thống,
thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ, những bản tình ca, dân ca
và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật
chất mà ban đầu nó không tính đến” [88, tr.20].
Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất hiểu
folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây, xu hướng còn lại có
xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản folklore là “nghệ thuật ngôn từ”, là
sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần chúng. Theo họ, có thể đồng nhất folklore với
văn học truyền miệng. Tiêu biểu là những ý kiến của các nhà folklore sau:
- Xocolov Iu.M.: “Folklore trước hết là sáng tác nghệ thuật thi ca truyền miệng của
quần chúng”, hay “Folklore – phần lớn là thơ ca truyền miệng” [88, tr.85]

- Andreev N.P. : “Dưới tên gọi folklore, chúng ta có thể gọi phần lớn các tác phẩm nghệ
thuật ngôn ngữ đã được phổ biến bằng truyền miệng” [88, tr.85].
- Kravtxov N.I. : “Khoa học Xô Viết hiểu thuật ngữ “folklore” không phải là biểu thị
toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn học dân gian truyền miệng” [88, tr.93]
Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan niệm bó
hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Họ thấy rằng folklore bao gồm những yếu tố ngôn từ,
diễn xướng, tạo hình, tín ngưỡng, phong tục,…và các yếu tố ấy gắn kết với nhau trong một
chỉnh thể nguyên hợp. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản năm 1974 quan niệm rằng:
“Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm
nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội họa được nhân dân
sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” [88, tr.95].
Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được hiểu với
những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội
dung khái niệm văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu nhận xét khái quát:
“Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong folklore học thế giới thì định
nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào sách giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước
khác, trong khi đó ở một số nước khác (có cả các nước xã hội chủ nghĩa) người ta vẫn thừa
nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ dân gian. Còn một số nước khác nữa, thuật ngữ
folklore được gắn với một ý nghĩa rất rộng – folklore là văn hóa dân gian bao gồm không chỉ
riêng nghệ thuật dân gian mà cả truyền thống dân gian” [88, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy
đều tồn tại ở folklore Việt Nam.
Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan niệm: văn hóa
dân gian “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu khắc, nghệ
thuật trang trí,.v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang tính chất thẩm mĩ nảy sinh
từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên đã được tóm gọn trong công thức : “folklore là folk
culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [9, tr.220].
Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như sau:
văn hóa dân gian “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các các hình
tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời kì lịch sử nhất
định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận thẩm mĩ” [88, tr.35].

Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng khi cho rằng văn hóa dân
gian bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở cách tiếp cận dưới góc độ thẩm
mĩ.
Mở rộng cách hiểu về văn hóa dân gian hơn, Phạm Huy Thông cho rằng: “không phải
chỉ làn ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè truyền thống cũng là
những biểu hiện của văn hóa dân gian” [88, tr.119]. Đồng tình với quan niệm trên, Trần Quốc
Vượng phát biểu: folklore Việt Nam là “tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian
ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”.
Ông cũng có xu hướng mở rộng thành tố của văn hóa dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân
gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến
đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát đò
đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [88, tr.124].
Còn Chu Xuân Diên thì cho rằng để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của văn hóa
dân gian, chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó. Cụ thể, folklore
bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các tác phẩm văn học dân
gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,.v.v…cả những thành tố là những sản phẩm
vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiếm trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả
những thành tố là những giá trị văn hóa không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích
thực của nó (văn hóa ẩm thực, những tri thức về môi trường tự nhiên,…) [9, tr.231].
Như vậy, văn hóa dân gian theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao gồm rất
nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp folklore. Chúng tôi tán thành
cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Trong các thành tố cơ bản của văn hóa dân gian
đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu: ảnh hưởng của các thành tố như văn học dân
gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cách
thức trình bày của luận văn là sẽ vận dụng một số tri thức lí luận của các thành tố văn hóa dân
gian này vào phân tích, nhận định, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết, chúng tôi
xin trình bày vài nét cơ bản về mối quan hệ có tính chất khái quát hơn, đó là mối quan hệ giữa

văn hóa và văn học nói chung. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là một
vấn đề mới, nhưng trong khoa học nói chung và khoa học văn học nói riêng, thiết nghĩ làm mới
một vấn đề cũ cũng là một đóng góp mang tính lí luận và thực tiễn.
Ở nước ta, trong quá trình vận động và phát triển, văn học luôn được đặt trong mối quan
hệ mật thiết với các hình thái xã hội khác. Văn học lúc thì được so sánh với đạo đức, khi thì
được đối chiếu với triết học, tôn giáo, chính trị,…Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tập trung chú
ý đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Mối quan hệ này ngày càng được quan tâm hơn và
văn học thường được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa.
Trước đây, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ, là mối
quan hệ của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh một cơ
sở hạ tầng. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa, người ta có thể lấy tư liệu từ văn học và ngược lại.
Quan hệ này tuy nhiên chỉ là quan hệ bề ngoài, không bộc lộ bản chất của nhau. Trong những
thập niên gần đây, Unesco đã phát động những thập kỉ phát triển văn hóa. Và cùng với sự thay
đổi nhận thức của nhân loại khi cho rằng văn hóa là động lực của phát triển, quan hệ văn hóa và
văn học đã được nhìn nhận ở góc độ khác hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu thiên về xu hướng
nhìn nhận văn hóa là nhân tố chi phối văn học bởi lẽ văn hóa là một tổng thể, bao gồm nhiều hệ
thống, trong đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,
toàn thể chi phối bộ phận. Như chúng ta đã biết, văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra. Những yếu tố nào gắn với giá trị văn hóa đều liên quan đến con người.
Sự sáng tạo của nhà văn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có văn hóa. Cho nên có thể
nói văn hóa chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn là một đặc điểm có tính quy luật.
Một trong những người khởi xướng cho xu hướng tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa là
giáo sư văn học người Nga, Mikhail M Bakhtin. M. Bakhtin cho rằng khoa nghiên cứu văn học
phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của “lịch sử văn hóa”, đặc biệt là nghiên cứu thời đại
văn hóa mà tác phẩm ra đời, vì văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa: “Khoa
nghiên cứu văn học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa. Văn học là một bộ phận không
thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch (kontest) nguyên vẹn của toàn bộ
văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại” [2, tr.139]. Không chỉ thế, “Tác phẩm văn học không
thể sống trong những thế kỉ tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu hút vào mình những
gì của các thế kỉ đã qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những yếu tố của ngày nay (tức của

xã hội đương thời với nó) mà không tiếp tục quá khứ và không gắn bó với quá khứ một cách
đáng kể, nó không thể tiếp tục sống trong tương lai” [2, tr.141]. “Quá khứ” trong cách nói của
Bakhtin có thể hiểu một phần là nền văn hóa dân gian. Quả thực, từ lâu các nhà văn đã tự giác
hoặc không tự giác, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp thu, ảnh hưởng, lí giải vấn đề này hoặc vấn đề
khác của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian.
Thật vậy, từ bao đời nay văn hóa dân gian đã ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống, đặc biệt là đối với văn học. Hòa mình với quy luật bất biến ấy của nhân loại, trong tiến
trình phát triển của văn học Việt Nam, quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa dân
gian và văn học viết diễn ra hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ sáng tạo, có tính quy luật và
cũng là cơ sở lí luận cốt yếu cho sự cắt nghĩa một số quá trình, hiện tượng văn học cụ thể.
Văn học Việt Nam luôn tồn tại một bộ phận văn học chịu ảnh hưởng đậm nét từ nền văn
hóa dân gian. Và như một sự ngẫu nhiên song lại rất hợp lí, trong tiến trình lịch sử văn học dân
tộc, nhà văn, nhà thơ nào chịu ảnh hưởng, tiếp thu, vận dụng chất liệu dân gian một cách nhuần
nhuyễn đều gặt hái được những thành công nhất định. Những tác phẩm của họ thường có tiếng
vang và được lưu truyền theo thời gian. Có thể kể ra đây một số tác giả tiêu biểu mà những tác
phẩm của họ đã được thời gian thẩm định. Nguyễn Trãi là người mở đầu cho những sáng văn
học bằng chữ Nôm. Là người có bút lực tinh tế, nhà thơ Nguyễn Trãi như con ong cần mẫn bay
đi khắp bốn phương để hút những nhụy hoa về làm mật. Những giọt mật vàng óng, ngọt lịm ấy
được tạo ra từ những bông hoa cội nguồn văn hóa dân gian dân tộc Việt vốn rất giàu truyền
thống thi ca, nghệ thuật. Trong Quốc âm thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những lời ăn
tiếng nói hàng ngày, những thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả vận dụng một cách nhuần
nhuyễn, tự nhiên. Đại thi hào Nguyễn Du cũng ảnh hưởng rất nhiều từ thi liệu văn học dân gian
khi sáng tác Truyện Kiều. “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…sáng tác những
bài thơ ken dày thi liệu dân gian.
Sự ảnh hưởng, tác động ấy vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn học Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Bên cạnh những
nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo vẫn có những tác giả chịu ảnh hưởng sâu đậm từ
nền văn hóa, văn học dân gian như Nguyễn Bính, Tố Hữu. Rõ ràng, tùy theo từng thời điểm,
mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa ngoại lai do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau thì bộ phận văn học ảnh hưởng sâu đậm từ nguồn mạch văn

hóa dân gian cho đến nay vẫn còn cuồn cuộn chảy với một sức sống mãnh liệt. Và Nguyễn Huy
Thiệp là một trong những nhà văn đã kế thừa, tiếp nối xuất sắc truyền thống văn học đó.
Như trên đã trình bày thì mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết là mối quan
hệ mang tính chất quy luật, rộng khắp. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối quan hệ một chiều.
Văn học là một thành tố quan trọng của văn hoá , vừa chịu sự tác động của văn hóa, vừa tác
động đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là
chủ thể sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn
hoá dân tộc.
Trong bài viết Văn hóa – ngọn nguồn của văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Sĩ Vịnh
đã nhận định rằng: văn hóa dân gian là ngọn nguồn của tiến trình lịch sử văn học,“là bầu sữa
nuôi dưỡng nhiều tài năng văn học”[29, tr.220]. Song mối quan hệ ấy không diễn ra một chiều
mà văn học luôn có “sự tác động trở lại của văn học đối với văn hóa” [29, tr.224].
Như chúng ta đã biết, văn hóa là một tổng thể, chi phối văn học với tư cách là hệ thống
chi phối yếu tố. Đây là quan hệ bất khả kháng, tự thân nó, là chuyện hiển nhiên. Tuy nhiên, văn
học so với các yếu tố khác trong văn hóa là một yếu tố mạnh và năng động. Văn học là sản
phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Văn học sử dụng ngôn từ, một phương tiện giao tiếp
có tính phổ quát nên có sự ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Văn học không chỉ sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó mà còn cho cả hệ thống.
Hơn thế, văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Trong một bài viết có nhan đề Văn học góp phần
tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã nói
rằng: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học đối với đời sống xã hội là góp
phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39]. Đồng thời qua văn học, những phạm trù
có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát triển.
Còn trong bài Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học, theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử,
vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con
người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân
cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”. Văn học có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính
nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có
vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học cung cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu
cầu làm giàu đời sống tâm hồn và trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần

gũi và thiết thực đối với con người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận
quan trọng của văn hóa, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn
hóa. [76, tr.891-892-893-894].
Quả vậy, thực tế đời sống văn hóa, văn học đã minh chứng rằng nhiều sáng tác của các
nhà văn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa dân gian. Các tác phẩm này đều hướng tới xây
dựng những mô hình nhân cách văn hóa trọn vẹn, từ đó tác động tích cực đến đời sống văn hóa
của xã hội. Trong văn học quá khứ, một số sáng tác là sản phẩm của văn học thành văn thuộc
bộ phận văn hóa bác học, nhưng sự lưu truyền lại không chỉ trong tầng lớp quí tộc, những
người có học thức mà có một số tác phẩm xuất chúng đã len lỏi đến tận thửa ruộng, luống cày,
ăn sâu vào từng tâm hồn những người nông dân. Để rồi không biết từ bao giờ nó trở thành món
ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu cho hiện tượng “dân gian hóa”
vừa nêu không thể không kể đến Truyện Kiều. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ngoài
những tri thức bác học, ông còn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tri thức văn hóa dân gian. Đóng
góp lớn nhất của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là đã góp phần đưa thể thơ lục bát của dân tộc
đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Truyện Kiều còn được “dân gian hóa” thành những hiện tượng văn
hóa phổ biến như tập Kiều, bói Kiều. Đó là chưa kể đến những truyện Nôm khuyết danh như
Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa,…những tác phẩm do các nhà nho viết ra, nhưng vì
được lưu truyền quá rộng rãi trong nhân dân, nên không còn có thể phân biệt được đâu là văn
chương bình dân, đâu là văn chương bác học. Hiện tượng “dân gian hóa” ấy còn diễn ra ở nhiều
tác phẩm văn học bác học khác như tác phẩm Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), thơ lục bát
của Tố Hữu, thơ Tú Mỡ, thơ Bút Tre.
Tóm lại, mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian
với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học chẳng những là
một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa mà còn là một
trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu nhất. Văn học vốn chịu sự chi
phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường văn hóa của dân tộc. Là thành viên của
cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu, nhà văn tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền
thống, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong cộng đồng. Vì thế, dù nhà văn viết về vấn
đề gì, dù sáng tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình.
Bằng không những gì nhà văn viết ra sẽ hoàn toàn xa lạ với độc giả, với chính mình. Bởi như

nhà văn Nga M. Gorki đã từng nói: “Nhà văn không bao giờ là ngẫu nhiên mà thường là tất yếu
lịch sử, anh ta là một hiện tượng nảy sinh từ sản phẩm tinh thần của dân tộc, biện giải từ yêu
cầu dân tộc để nhìn nhận cuộc sống thể hiện trong nghệ thuật…Anh ta nhiệt thành với những
khát vọng, những lí tưởng và những hình thức mới. Những khát vọng đó được hình thành và
thâm nhập vào thế giới. Bằng cách đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật nảy sinh từ tinh thần và hi
vọng của dân tộc, của xã hội. Nhà văn sáng tạo từ tài liệu vốn có, do lịch sử đưa lại cho anh ta,
vì thế những tác phẩm sáng tạo của nhà văn là chứa đựng bản sắc dân tộc.” [65, tr.253]. Tất cả
những gì thật sự mới mẻ trong văn học nghệ thuật nếu được nảy nở trên miếng đất tốt lành của
truyền thống văn hóa thì sẽ trường tồn theo thời gian. Để từ đó, qua sự thẩm định của thời gian,
những tác phẩm ưu tú lại trở thành những biểu tượng cho văn hóa dân tộc, có tác động mạnh
mẽ đến đời sống văn hóa của dân tộc mình.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong sáng tác của một nhà văn cụ thể có
thể thông qua việc “đo lường” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Hà Công Tài) ảnh hưởng cụ thể
của các thành tố văn hóa dân gian trong sáng tác của nhà văn như: những yếu tố có nguồn gốc
từ văn học dân gian như cốt truyện, nhân vật,…hiện hữu trong tác phẩm. Tuy nhiên vấn đề ở
đây không đơn thuần là việc chúng ta “đo lường” máy móc, đôi khi có phần gán ghép xem tác
phẩm của một nhà văn nào đó đã ảnh hưởng bao nhiêu phần trăm từ văn hóa dân gian, mà quan
trọng hơn là đánh giá đầy đủ tính dân gian của nó. Có như thế chúng ta mới tránh được tình
trạng nghiên cứu so sánh một cách áp đặt máy móc một số hiện tượng văn học nghệ thuật. Đó
cũng là quan điểm của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này.
1.2. Quá trình tích lũy vốn sống của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ vì mưu sinh, ông
phải theo gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ,
Vĩnh Yên. Năm 1960, gia đình ông chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà
Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại
Sơn La, một tỉnh thuộc vùng cao Tây Bắc. Mười năm sau, năm 1980, ông về lại Hà Nội,
chuyển công tác về làm việc tại công ty Sách giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay,
ông đã nghỉ hưu và sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài sáng tác văn chương, viết tiểu luận
phê bình, Nguyễn Huy Thiệp còn vẽ tranh.
Nguyễn Huy Thiệp luôn bày tỏ sự cần thiết về việc tích lũy vốn sống của một nhà văn

trước khi anh ta cầm bút và muốn có một sáng tác thực sự có giá trị. Nhà văn vẫn hằng tâm
niệm phải “có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết” [89, tr.17]. Chất muối ấy là sự
kết tinh của tài năng, tâm huyết, vốn sống, sự trải nghiệm của người cầm bút trước những trang
sách cuộc đời. Ông đã dành hết tâm lực dấn thân vào sự nghiệp cầm bút, với khao khát đi tìm
điều thiện tốt đẹp nhất cho con người. Hành trình của Nguyễn Huy Thiệp vì thế đã tạo được sự
quan tâm đặc biệt của giới phê bình, độc giả trong và ngoài nước.
Gần đây, trong một lần phỏng vấn, nhà báo Lê Thị Thái Hòa đã hỏi Nguyễn Huy Thiệp:
“Từ khi nào ông bỗng nhiên muốn viết?”, Nguyễn Huy Thiệp trả lời rất thành thực: “Tôi muốn
viết từ rất sớm. Khoảng 7 đến 10 tuổi tôi đã viết những đoạn văn ngắn rồi “chôn” xuống đất
sau khi đọc những truyện của người khác viết” [92]. Thế nhưng phải đến tháng 1 năm 1987,
bạn đọc cả nước mới được biết đến một Nguyễn Huy Thiệp với tư cách là “nhà văn trẻ” qua tập
truyện ngắn đầu tay Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát được khởi đăng trên
báo Văn nghệ. Song, tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong dư luận. Phải đến khi
Tướng về hưu trình làng cũng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6 năm 1987, Nguyễn
Huy Thiệp mới được dư luận tiếp nhận, tranh luận sôi nổi với nhiều xu hướng khác nhau. “Nhà
văn trẻ” của chúng ta năm đó đã bước sang tuổi 37, nói như ông thì “khi đã sống được nửa đời
người”. Đối với một nhà văn, từ năm lên 7 tuổi đã bắt đầu cầm bút, viết rồi lại “chôn xuống
đất” khi đọc những truyện của người khác, điều này chứng tỏ với Nguyễn Huy Thiệp, viết văn
chẳng phải là một việc dễ dàng gì. Phải chăng vì ông sớm ý thức rằng “Cái khó không phải là
viết, cái khó là sống như thế nào để có cái gì mà viết” [92].
Nguyễn Huy Thiệp sinh ra và lớn lên ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa lưu vực hai con
sông Hồng, sông Mã. “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng
bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc” [107, tr.235]. Bắc Bộ là cái nôi
hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn. Đặc trưng của vùng văn hóa
này phải kể đến thái độ ứng xử với tự nhiên trên cơ sở chinh phục và sống hài hòa với tự nhiên.
Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng
của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, sùng bái tự nhiên,…có mặt trên hầu
hết các làng quê Bắc Bộ. Không chỉ thế, kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một
loại mỏ với nhiều khoáng sản qúi hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca
dao, tục ngữ, thể loại nào cũng phong phú. Có thể nói, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi văn hóa dân

gian lúa nước của cư dân Việt.
Được bao bọc từ cái nôi văn hóa Bắc Bộ, Nguyễn Huy Thiệp lớn lên trên những cánh
đồng lúa bạt ngàn, những dòng sông chở nặng phù sa…Thế giới tự nhiên trở thành người mẹ
nuôi dưỡng, chở che, là người bạn thủy chung của con người. Có lẽ đấy là nguồn cảm hứng bất
tận cho những sáng tác của ông, đặc biệt trong những tác phẩm nhà văn viết về thiên nhiên và
con người nông thôn Bắc Bộ. Khi viết về đề tài nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp thường dành cho
nó những trang văn thấm đẫm chất thơ với nguồn cảm hứng trữ tình dạt dào, tha thiết. Ông đã
có lần tự hào: “Tôi có may mắn là thời thơ ấu tôi gắn với nông thôn. Mẹ tôi là nông dân, còn
tôi sinh ở nông thôn” [89, tr.10]. Thời thơ ấu, cậu bé Thiệp từng cùng gia đình lưu lạc khắp
nhiều vùng nông thôn giàu truyền thống văn hóa dân gian của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Từ
đó, Nguyễn Huy Thiệp đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết nhiều, viết
hay về những miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Đọc truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, người đọc thấy gần như là một “nhà văn của đất đai” (nhận xét của Sean Tamis Rose)
[59, tr.499]. Nếu trong những truyện viết về thành thị và lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp gieo vào
lòng độc giả cảm giác khá nặng nề, ngột ngạt thì đến với những truyện ngắn như: Chảy đi sông
ơi, Con gái thuỷ thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ,
Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt,… người đọc lại như được đắm mình trong suối nguồn yêu
thương, với cảm giác êm đềm, da diết, được thấy lòng mình bồi hồi với những dư vị thật ngọt
ngào, sâu lắng.
Bên cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp lại có thời gian sống và gắn bó đến mười năm cùng với
mảnh đất Tây Bắc thân thương. Đây cũng vùng văn hóa miền núi miền Bắc với những đặc điểm
hết sức riêng biệt. Mỗi dân tộc Tây Bắc tuy có khác nhau về cách ăn mặc, thói quen sinh hoạt,
nhưng đa phần giống nhau ở bản chất hiền lành, thuần phác, luôn sống lạc quan và giàu tình
yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Các dân tộc ở Tây Bắc đều có tín ngưỡng “mọi vật có
linh hồn”, có đủ các loại “hồn” và các loại thần như thần sông núi, suối khe, các lực lượng siêu
nhiên như sấm, chớp,...Cũng như nhiều dân tộc khác, các dân tộc Tây Bắc có một kho tàng văn
hóa, văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú.
Có thể nói, vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, vùng cao Tây Bắc là những môi trường văn
hóa dân gian màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm hứng mãnh liệt
chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Để sáng tạo nên những tác phẩm độc đáo khi viết về thiên nhiên và cuộc sống con người
miền núi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã có quãng thời gian mười năm thâm nhập thực tế ở Tây
Bắc. Đó là những tháng ngày thầy giáo Thiệp dạy học tại một bản heo hút ở Sơn La, nơi cách
tỉnh lỵ một ngày đi bộ, với bao thiếu thốn vất vả mà sau này chính nhà văn thú nhận chỉ có sức
mạnh của nhiệt huyết tuổi trẻ mới giúp ông vượt qua những năm tháng ấy. Có lẽ quãng thời
gian sống và làm việc ở Tây Bắc, Nguyễn Huy Thiệp đã đọc những “trang sách đời” được viết
ra từ chính cuộc sống hiện thực của người dân nơi đây. Đọc nhiều truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của thầy giáo Thiệp năm nào. Kí ức về những tháng ngày
sống và làm việc ở Tây Băc sâu đậm đến nỗi không cần gợi nhắc, nó luôn thường trực, âm ỉ và
nếu có dịp, nhà văn lại thổ lộ: “Ngày xưa, khi còn dạy học ở vùng núi Tây Bắc…”. Và rồi ông
cứ để cho hoài niệm tràn về…
Mở đầu truyện ngắn Những người muôn năm cũ, Nguyễn Huy Thiệp hồi tưởng: “Cách
đây hơn ba mươi năm, tôi dạy học ở Bâm là một xóm núi khỉ ho cò gáy ở tỉnh N, cách thủ đô
vài trăm cây số. Hồi ấy tôi 20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ”
[94, tr.510].
Hay một đoạn trong Chuyện tình kể trong đêm mưa, tác giả kể: “Trường học miền núi
nơi tôi ở nằm trên một quả đồi trọc gọi là đồi Thông […]. Khu nhà giáo viên kề ngay đó lợp
ngói, vách trát “toocsi” nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái nhà lợp gianh” [94,
tr.458]. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta còn có thể bắt gặp khá nhiều những dòng tự sự
chân thực như thế.
Sau này khi đã trở về Hà Nội, nếm trải qua bao nhiêu thăng trầm, ngay cả khi đã khẳng
định được tên tuổi trên văn đàn và đã có chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả, với
Nguyễn Huy Thiệp, tháng ngày ở Tây Bắc vẫn là quãng thời gian đẹp đẽ và đáng nhớ nhất. Với
ông, Tây Bắc mãi là “Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!” [94, tr.576]. Gần đây, trong
truyện ngắn có nhan đề Quan âm chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp bồi hồi nhớ lại: “ Những ngày dạy
học gian khó ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thầy giáo tiểu học vô danh, tôi như
viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi
lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận”
[94, tr.587].
Điều đó còn là cơ sở để lí giải tại sao mảng truyện viết về miền núi chiếm số lượng đáng

kể trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên khai
thác và thành công khi viết về mảng đề tài này. Trước ông đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ gặt
hái được thành công khi tìm đến với con người và cuộc sống nơi đây. Tiêu biểu như Tố Hữu
với tập thơ Việt Bắc; Nguyễn Huy Tưởng với Kí sự Cao Lạng; Tô Hoài với Truyện Tây Bắc,
Miền Tây; Nguyễn Tuân với Nhật kí lên Mèo, Sông Đà; Rừng động của Mạc Phi; Kan Lịch
của Hồ Phương; Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Vệ sĩ của quan Châu của Ma Văn
Kháng,v.v…Tuy nhiên, mặc dù thuộc thế hệ đi sau và viết sau nhưng Nguyễn Huy Thiệp không
bị chìm khuất trong số những tên tuổi tiêu biểu vừa kể trên, trái lại ông đã tìm cho mình một lối
đi riêng để triển khai và chiếm lĩnh đề tài này tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Sử dụng
yếu tố văn hóa dân gian một cách sáng tạo đã góp phần tạo ra cái riêng đó của Nguyễn Huy
Thiệp. Tiêu biểu cho mảng đề tài viết về miền núi của ông có thể kể đến như Những ngọn gió
Hua Tát, Muối của rừng, Sống dễ lắm, Những người thợ xẻ, Thổ cẩm, Những người muôn
năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm mưa.
1.3. Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên cơ sở ảnh hưởng từ nền văn hóa dân gian của dân tộc, chúng tôi bước đầu tìm hiểu quan
niệm văn chương của ông, trong đó lưu ý đến quan niệm của ông về mối quan hệ giữa văn hóa
dân gian và văn học. Chúng như một sợi chỉ đỏ chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn.
Những quan niệm này được Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm trong một số truyện ngắn, qua các bài
tiểu luận phê bình, hoặc bày tỏ qua một số lần trả lời phỏng vấn.
Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy hầu hết tác phẩm của ông đều
chứa đựng một vài triết lí về văn chương. Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp rất
đa dạng. Phải luôn trăn trở về ý nghĩa của nó, ông mới có thể viết nên những trang văn chất đầy
suy tư như thế. Điều này khiến ta liên tưởng đến sự tương đồng giữa Nguyễn Huy Thiệp và
Nam Cao, một nhà văn nổi tiếng với những quan niệm văn chương đã trở thành những tuyên
ngôn nghệ thuật bất hủ. Tuy nhiên, nếu Nam Cao thường thể hiện trực tiếp, rành mạch quan
niệm nghệ thuật của mình thì Nguyễn Huy Thiệp thường kí thác qua cách nhìn, cách nghĩ của
các nhân vật. Với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương dưới cái nhìn trực tiếp hay gián tiếp, của các
nhân vật ở các giai tầng khác nhau, thời điểm khác nhau đều có sức mạnh đáng sợ và sáng tác
văn chương không phải là công việc dễ dàng gì. Vì quan niệm văn chương của Nguyễn Huy

Thiệp thường được nhìn từ nhiều điểm nhìn khác nhau nên chúng rất đa dạng và phức tạp.

×