Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Ảnh hưởng của văn hoá dân gian việt nam đối với thơ nôm truyền tụng hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.19 KB, 50 trang )

Lời cảm ơn

Để hoàn thành khoá luận này ngoài sự nỗ lực của bản thân,chúng tôi
nhận đợc sự giúp đỡ nhiệt tình,chu đáo của thầy giáo hớng dẫn Trơng Xuân
Tiếu,cùng các thầy côtrong tổ Văn học Việt Nam trung đại,gia đình và bạn
bè.
Xin bày tỏ lòng biết on chân thành tới tất cả mọi ngời!
Vinh,ngày17 tháng 5 năm2005
Tác giả
Nguyễn Thanh Hà

Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hơng là một hiện tợng độc
đáo, một phong cách không dễ trộn lẫn tạo nên trờng lực hấp dẫn vô
cùng, thu hút nhiều nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nớc hơn
một thế kỷ nay.
Những vấn đề về nội dung và nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hơng đà đợc nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc. Tuy nhiên vấn đề ảnh
ảnh hởng của văn hoá, văn học dân gian Việt Nam đối với thơ Nôm
Hồ Xuân Hơng cha đợc đặt ra một cách tập trung, hệ thống mà chỉ
mới đợc đa ra xét ở một vài yếu tố. Đó chính là lý do chúng tôi đi vào
tìm hiểu đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu

1


Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích miêu tả và làm
nổi bật ảnh hởng nổi bật của văn hoá dân gian Việt Nam đối với thơ
Nôm Hồ Xuân Hơng, qua đó làm rõ giọng điệu, phong cách thơ Nôm


của nữ sĩ Họ Hồ.
3. Phạm vi giải quyết đề tài
Xét về mặt văn bản, trong điều kiện cho phép chúng tôi dựa vào
kết quả khảo sát của các tác giả: Hoàng Xuân HÃn, Đào Thái Tôn, Trơng Xuân Tiếu để chọn ra 41 bài thơ đợc quan niệm đó là thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hơng.
Một vấn đề đặt ra, văn hoá dân gian là một khái niệm rộng bao
gồm nhiều phơng diện khác nhau. Chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu những
phơng diện đặc trng nhất đối với thơ Nôm Hồ Xuân Hơng, đó là văn
học dân gian,văn hoá tín ngỡng phồn thực, ngôn ngữ văn hoá dân
gian.
4.Phơng pháp thực hiện đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi quán triệt hai quan điểm
chỉ đạo: Quan điểm duy vật lịch sử và quan điểm duy vật biện chứng.
Những phơng pháp quen thuộc nh thống kê, phân loại, so sánh, đối
chiếu, phân tích - tổng hợp, miêu tả đều đợc chúng tôi vận dụng khi
cần thiết.

5.Lịch sử vấn đề
Để đi vào nghiên cứu đề tài, chúng tôi đà tìm hiểu những tài
liệu sau ít nhiều đề cập đến sự ảnh hởng của văn hoá dân gian Việt
Nam đối với thơ Nôm Hồ Xuân Hơng:
Cuốn Hồ Xuân Hơng, về tác giả và tác phẩm do Nguyễn Hữu
Sơn và Vũ Thanh (biên soạn),
giáo trình Văn học Việt Nam (nửa ci thÕ kû XVIII – hÕt
XIX) cđa Ngun Léc, cđa Đặng Thanh Lê, của Lê Trí Viễn.
Một số chuyên luận của các tác giả:
Đỗ Lai Thuý (Hồ Xuân Hơng -hoài niệm phồn thực), Lê Trí
Viễn (Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hơng), Trơng Xuân Tiếu (Tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng) Niculin (Văn
học Việt Nam và giao lu quốc tế), Trần Khải Thanh Thuỷ (Lạm bàn

thơ Hồ Xuân Hơng) và một số bài viết đăng trên các báo.
Từ những t liệu trên, chúng tôi cónhững nhận xét sau: Các nhà
nghiên cứu đều ít hay nhiều, trực tiếp thừa nhận sự ảnh hởng tích cực
của văn hoá, văn học dân gian đối với thơ Nôm Hồ Xuân Hơng. Đồng
thời chỉ ra đợc tính chất dân gian trong thơ Nôm của nữ sĩ. Và đó là
một yếu tố quan trọng làm nên phong cách độc đáo của Hồ Xuân Hơng, phong cách dân gian.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hoặc nêu lên vấn đề có tính chất
phát triển, liệt kê, so sánh, chứ cha lý giải thấu đáo những nguyên
nhân biểu hiện của sự ảnh hởng đặc biệt này. Khoá luận chúng tôi sẽ
đi sâu làm rõ hơn vấn đề này.
2


5.Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận đợc
triển khai trong hai chơng:
Chơng 1. Nhận thức lý thuyết về mỗi quan hệ giữa văn hoá,
văn học dân gian đối với văn học viết.
Chơng 2. ảnh hởng của văn hoá dân gian Việt Nam đối với thơ
nôm Hồ Xuân Hơng.
Sau cùng là phần tài liệu tham khảo.

Phần nội dung
Chơng 1. Nhân thức lý thuyết về mỗi quan hệ
giữa văn hoá, văn học dân gian đối với văn học
viết.
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Kinh thi, tập thơ ca dân gian Trung Quốc đợc Khổng Tử,
nhà trí thức phong kiến phơng Đông vĩ đại, đặc biệt đề cao.
Trong bộ sách Luận ngữ có 4 thiên đề cập đến kinh thi

(Thiên Quý thị, Tử lộ, Dơng hoá, Vi chính),Ví dụ: Thiên Quý thị
có mệnh đề bất học thi v« dÜ ng«n” (Kh«ng häc kinh thi kh«ngbÊt häc thi v« dÜ ng«n” (Kh«ng häc kinh thi kh«ng
biÕt lÊy gì để nói năng). Từ đó chúng ta nhận thấy giá trị của kinh thi
đối với ngời trí thức trong xà hội phơng Đông và sự ảnh hởng của nó
đối với sự phát triển thơ ca trên nhiều bình diện. Từ việc đánh giá của
khổng tử về kinh thi góp phần khiến cho nhiều học giả, tác gia Việt
Nam xa chú ý hơn đến nền dân ca nớc mình, học tập Tang ma ngữ
(Chữ dùng của Nguyễn Du).
1.1.2. Quan điểm của Lênin về văn hoá , văn học
Trong mỗi nền văn hoá dân tộc, đều có những yếu tố, mặc
dầu không phát triển, của một nền văn hoá dân chủ và XHCNbất học thi vô dĩ ngôn (Không học kinh thi không
(Lênin, Bàn về văn học)
1.1.3. Nguyễn Bách Khoa trong cn “Kinh thi ViƯt Nam”
Cn s¸ch cã tÝnh chÊt nh là một thông điệp của tác giả đối với
ngời cầm bút là hÃy không ngừng học tập tinh hoa của văn học dân
gian, vận dụng nó vào sáng tạo nghệ thuật.
1.1.4. ý kiến củaLê Kinh Khiên trong bài viết Một số vấn
đề lý thuyết chung về mỗi quan hệ văn học dân gian - văn học
viết (TC VH số 1 1980, Tr69).

Bài viết đề cập đến nhiều vấn đề lí luận, trong đó
tập trung nhấn mạnh ảnh hởng của văn học dân gian đối với
văn học viết trên nhiều khía cạnh ( t tởng thẩm mỹ, các dạng
kiểu ảnh hởng, mức độ ảnh hởng, hai giai đoạn lớn ảnh hëng…bÊt häc thi v« dÜ ng«n” (Kh«ng häc kinh thi không).
1.2. Cơ sở thực tiễn

Lịch sử văn học Việt Nam trung đại có nhiều tác giả có
ý thức tiếp thu, vận dụng tinh hoa của văn hoá, văn học dân
gian vào sáng tác củamình, điển hình Nguyễn TrÃi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng,

Nguyễn Công Trứ, Tú Xơngbất học thi vô dĩ ngôn (Không học kinh thi kh«ng

3


Tất cả điều này sẽ là những tiền đề, cứ liệu để tạo điều
kiện thuận lợi cho chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài một cách
có hiệu quả.

Chơng 2 . ảnh hởng của văn hoá dân gianViệt
Nam đối với thơ nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng
Văn hoá dân gian là một khái niệm rộng(1) bao gồm nhiều phơng diện
khác nhau, có định nghĩa văn hoá dân gian gần nh trùng với văn học dân gian (2)
vì nó có chung một thuật ngữ quốc tế là folklore (tiếng Anh có nghĩa là sự anh
minh của nhân dân).
ở chơng này, chúng ta đi vào tìm hiểu sự ảnh hởng của văn hoá dân gian
đối với thơ Hồ Xuân Hơng ở mội số phơng diện nh đề tài, quan điểm thẩm mỹ,
phơng thức, phơng tiện biểu hiện.
2.1.ảnh hởng trên phơng diện đề tài

Đề tài là phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học. Đọc
bất cứ tác phẩm nào chúng ta cũng bắt gặp những ngời những cảnh và tâm tình
cụ thể sinh động. Đó là phạm vi miêu tả trùc tiÕp cđa t¸c phÈm.TÝnh chÊt cđa
4


phạm vi miêu tả trực tiếp trong các tác phẩm có thể hết sức đa dạng: chuyện con
ngời, con thú, cây cỏ, chim muông, đồ vật, chuyện thần tiên, ma quái, chuyện
quá khứ...[9,259]
Trong văn chơng bác học, đề tài thờng mang tÝnh íc lƯ, quy ph¹m. Nã cã

tÝnh chÊt trun thống và theo các môtíp nh Đông thiên tam h÷u”(tïng- trócmai), tø nghỊ (ng -tiỊu- canh -mơc), tø mïa ( xuân -hạ -thu -đông), tứ thời (MaiĐiểu, Liên-áp, Cúc-Điệp, Trúc_Hạc), tứ linh(Long-Ly-Quy-Phợng).
(1)Từ điển Tiếng việt, Hoàng Phê(chủ biên), Trung tâm từ điển học định nghĩa văn
hoá dân gian: Các hình thức văn hoá phục vụ cho quần chúng đông đảo, và quần chúng đông
đảo có thể tham gia.
(2)Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt nam, Nhiều tác giả,Nxb Thế giới H.1995 định
nghĩa về văn hoá dân gian: Những sáng tác khuyết danh đợc nhiều ngời truyền miệng thêm
bớt hoàn thiện qua nhều đời, nhiều miền với các thể loại thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ,
truyện cời, câu đố...

Văn chơng bác học cũng thờng lấy đề tài từ lịch sử nh những sự kiện,
nhân vật xa để cấu thành tác phẩm hay gần hơn là những đề tài có tính chất đạo
lý, lịch sử truyền thống, thế thái nhân tình thờng đợc nhắc tới.
Thơ Hồ Xuân Hơng lấy đề tài chủ yếu từ văn hoá dân gian (bao gồm cả
văn học dân gian). Đề tài của thơ bà thờng bắt nguồn từ những sự vật, hiện tợng,
con ngời hết sức bình thờng gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của quần chúng
nhân dân lao động.
Văn hoá dân gian là những giá trị về vật chất và tinh thần của quần chúng
nhân dân, là thành quả nghệ thuật chủ yếu của tầng lớp bình dân sáng tạo thành,
nó đợc lu truyền, phát huy từ hàng đời và tồn tại mÃi. Hồ Xuân Hơng đà tiếp thu
những giá trị đó chuyển thể thành những áng thơ Nôm Đờng luật làm say đắm
lòng ngời. Đề tài lấy từ nguồn văn hoá, văn học dân gian có thể quy về các loại
nh thơ vịnh vật, vịnh cảnh, thơ tả ngời...
2.1.1.Thơ vịnh vật
Thơ vịnh vật xuất hiện tơng đối nhiều trong văn học trung đại. Thơ vịnh
vật bắt đầu từ những bàì thơ chiết tự đời Lý. Hầu hết các tác giả nổi tiếng từ thời
trung đại có làm lối thơ này, từ Nguyễn TrÃi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đến Nguyễn Du, Nguyễn CôngTrứ, Cao Bá Quát[28,13]. ở thơ vịnh vật,
cái tài của nhà thơ biểu lộ ở chỗ cứ viết về vật mà nhận thức thẩm mĩ lại hớng về

5



con ngời. Trong thơ vịnh vật hình tợng ẩn dụ xuyên suốt toàn bài. Để làm một
bài thơ vịnh vật có sức biểu hiện thẩm mĩ thật không hề đơn giản.
Những bài thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hơng nh Vịnh Quạt I,II, Bánh trôi
nớc, Giếng nớc, Con ốc nhồi, Đá ông chồng bà chồng... bắt nguồn từ những
vật nhỏ bé tầm thờng trong đời sống hàng ngày nhng nhà thơ đà kí thác nhiều
nội dung khác nhau trong đó. Chẳng hạn, Hồ Xuân Hơng vịnh cái quạt nhng gợi
sự liên tởng đến sinh thực khí(yoni) của ngời phụ nữ, một biểu tợng của tín
ngỡng phồn thực- văn hóa phồn thực của ngời Việt.
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc ma sa
Nâng niu ớm hỏi ngời trong trớng
Phì phạch trong lòng đà sớng cha?
(Vịnh quạt-I)
Mời bảy hay là mời tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc
Rộng hẹp dờng nào cắm một cay
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm cha phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này
(Vịnh quạt-II)
Với ngời Việt, chiếc quạt giấylà một trong số ít những vật bất li thân,
chiếc quạt là để quạt cho mát, nó còn để che đầu khi nắng, che mặt khi ngủ; nó

là một kí hiệu, một đạo cụ để thể hiện tình cảm, t tởng trên sân khấu cuộc đời
và trong cuộc đời sân khấu(21,242). Cái quạt trở nên thân thuộc với con ngời là
nh vậy.Trong ca dao có nhiều bài nói về chiếc quạt hết sức tình tø:

6


Quạt em mời tám cái xơng
Mợn thợ phất giấy mà nơng lấy màu
Nắng thì em lấy che đầu
Khi bức em quạt, đi đâu em cầm
Ra đờng gặp bạn tri âm
Quạt che lấy miệng lầm rầm nhỏ to
(ca dao)
Cái quạt trong con mắt Hồ Xuân Hơng hiện lên thật mới mẻ, đầy ấn tợng
bất ngờ[21, 242]. Cái quạt vẫn hiện nguyên là cái quạt nhng đằng sau đó là
hình tợng ám chỉ biểu tợng sinh thực khínữ và biểu tợng ngời con gái đầy
xuân sắc mời bảy hay là mời tám đây, một ngời con gái vì tự nhiên, thiên
nhiên, vì tuổi trẻ hồng hồng má phấn duyên vì cậy[21,242]. Ta bắt gặp trong
dân gian những câu đố rất độc đáo về cái quạt nh:
Chành ra ba góc
Chúm chúm vừa ba
Can chi góc dới thiếu miếng da
(câu đố)[1,303]
Dùng biểu tợng ám chỉ, đây là một thủ pháp thông thờng của văn học
dân gian[21,243]. Hồ Xuân Hơng vịnh chiếc quạt để ám chỉ yoni (sinh thực khí
nữ) nhng hết sức tự hào:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa ma
(Vịnh quạt-I)

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này
(Vịnh quạt-II)
Sử dụng hình ảnh quân tử, chúa dấu vua yêu là để cất lên tiếng thơ tự
hào về cái đẹp vật chất mà tạo hoá đà đặc ân ban phát cho ngời phụ nữ.
Cũng nh Vịnh quạt-I,II, bàI thơ Con ốc nhồi Hồ xuân Hơng cũng thông
qua miêu tả cuộc sống con ốc đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi để ám chỉ âm vật
và thân phận ngời phụ nữ. Có thể nói hai hình ảnh tợng trng về ngời phụ nữ
con ốc nhồi và cái quạt giấy là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mới mẻ
của Hồ xuân Hơng, gần gũi với những biểu tợng văn hoá dân gian[23,213].
7


Cũng theo cách này, trong bàI thơ Giếng nớc Hồ Xuân Hơng miêu tả những sự
vật tự nhiên và sử dụng làm biểu tợng cho cái bộ phận kín đáo nhất trên thân thể
ngời phụ nữ:
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nớc trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết
Đố ai dám thả nạ dòng dòng
(Giếng nớc)
Một bài thơ lấy đề tài từ sự vật bình thờng để nhà thơ ký thác những
tâm sự riêng của mình, của giới phụ nữ, đó là bài Bánh trôi nớc:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nội ba chìm với nớc non
Răn nát mặc dù tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Bài thơ làm theo thể Đờng luật thất ngôn tứ tuyệt, miêu tả một loài bánh
đợc nhân dân ta làm lễ cúng và ăn trong một số lễ hội mùa xuân ở miền Bắc
Việt Nam. Hình ảnh bánh trôi nớc đi vào trong đời sống văn hóa ngời Việt. Ca
dao có câu:
Bánh này bánh lọc bánh trong
Ngoài tuy xám mỏng trong lòng có nhân
Ai ơi xin chớ tần ngần
Lòng son em vẫn giữ phần dẻo dang
Bài thơ Bánh trôi nớc của Hồ Xuân Hơng và ca dao có sự tơng quanvới
nhau.Tìm cảm hứng thi ca từ một loại bánh mà nhân dân ta làm để cúng tế
trong lễ hội đền Hùng và lễ hội đền Hát Môn, Hồ Xuân Hơng qua bài thơ Bánh
trôi nớc đà tế nhị ngợi ca những vẻ đẹp văn hóa của ngời phụ nữ Việt Nam
[23,246]. Bên cạnh đó, Hồ Xuân Hơng còn đa ngời đọc liên tởng đến sự long
đong vất vả của thân phận ngời phụ nữ mà ca dao đà phản ánh.
Thân em nh tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?[12,336]
8


Thân em nh hạt ma sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày [12,339]
Nhng trớcnhững biến đổi của số phận họ vẫn ý thức vơn lên làm chủ tình
cảm, làm chủ nhân cách, họ vẫn giữ trọn đợc tấm lòng son. Bánh trôi nớc
hiện lên lung linh vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp nhân cách, vẻ đẹp đạo đức của ngời
phụ nữ. Từ việc mô tả chiếc bánh trôi nớc đợc dùng làm vật cúng trong lễ hội
mùa xuân . Hồ Xuân Hơng đá thực sự có những khám phá sâu sắc những phát
hiện mới mẻ về những vẻ đẹp của ngời phụ nữ [23,247].Với bài Bánh trôi nớc,
tuy đề tài nhỏ nhng Hồ Xuân Hơng đà làm nên một bài thơ lớn [28,15]
Thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hơng lấy đề tài từ những sự vật bình thờng,

quen thuộc trong cuộc sống bình dân nh cái quạt, con ốc nhồi, cái giếng, chiếc
bánh trôi nớc ... Nhng dới sự sáng tạo của nữ sĩ, những sự vật vốn quen thuộc ấy
đà trở thành những biểu tợng hai mặt gợi ngời đọc sự liên tởng phong phú . Hồ
Xuân Hơng đà có những sáng tạo mới mẻ, nhng lại gần gũi với biểu tợng văn
hóa dân gian Việt Nam [23, 213]

2.1.3.Thơ vịnh cảnh
Bên cạnh thơ vịnh vật, mảng đề tài cũng gây ấn tợng sâu sắc trong thơ Hồ
Xuân Hơng đó là thơ vịnh cảnh, thể hiện qua một số bài thơ: Đèo Ba Dội, Kẽm
Trống, Vịnh Trăng I, Vịnh Trăng II, Cảnh thu, Đài Khàn Xuân, Chùa Quán
Sứ, Quán Khánh...
Trong văn học trung đại, thơ vịnh cảnh xuất hiện rất sớm. Nhiều tác giả
nổi tiếng đều có thơ vịnh cảnh. Tuy nhiên cảnh trong văn chơng bác học thờng
mang tính chất ớc lệ, đó là những cảnh ở đất Trung Hoa. Một số ít những bài thơ
vịnh cảnh gắn với quê hơng đất nớc nh Côn Sơn ca của Nguyễn TrÃi, chùm thơ
thu của Nguyễn Khuyến, Sông Lấp của Trần Tế Xơng... Tuy nhiên các nhà thơ
tả cảnh là để ngụ tình, để nói lên tâm tình của mình. Thơ vịnh cảnh Hồ Xuân Hơng không lấy đề tài từ văn học Trung Quốc, cũng không mang tính chất ớc lệ
nh các bài thơ vịnh cảnh của nhiều nhà thơ trớc và cùng thời với bà. Hồ Xuân Hơng đà có một mảng thơ phong phú đa dạng viết về những danh lam thắng cảnh
có thực trên đất nớc mình. Đó là những thắng cảnh quen thuộc nh Đèo Ba Dội,
Kẽm Trống hoặc chỉ là những sự vật tự nhiên thờng gặp thờng ngày nh ánh
trăng, cảnh thu... Tất cả trở thành đề tài trong thơ bà và có thể dệt nên những
9


vần thơ đầy rung cảm. Hồ Xuân Hơng đà chuyển hớng thi ca về với cuộc đời
bình dị hàng ngày của ngời dân VIệt Nam[17,98] và đậm chất văn hóa dân
gian.
Hồ Xuân Hơng tả cảnh rất độc đáo. Bằng ngôn ngữ nôm na bình dị, có
giá trị gợi tả hình ảnh cũng nh về âm thanh. Xuân Hơng đà vẽ nên trớc mắt mọi
ngời những bức tranh thật sinh động lạ thờng và thắm tơi chất sống. Đây là cảnh

Đèo Ba Dội :
Một đèo ,một đèo, lại một đèo
Khen ai khóe tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Bậc đá xanh rì lun phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sơng gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
(Đèo Ba Dội)
Còn đây là Kẽm Trống:
Hai bên thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không ?
Gió giật sờn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nớc vỗ long bong
ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đà rộng thùng
Qua cửa mình ơI nên ngắm lại ,
Nào ai có biết nỗi bng bồng!
(Kẽm Trống)
Khung cảnh Đèo Ba Dội hay Kẽm Trống qua ngôn ngữ thơ của Xuân Hơng thật khéo gợi hình làm cho ai cũng thấy trớc mặt một Đèo Ba Dội sừng
sững và cheo leo giữ cảnh núi non hiểm trở, hay một Kẽm Trống đầy thơ mộng.
Những cảnh tự nhiên đó lại đợc Xuân Hơng tô điểm bằng những màu sắc rất
đậm với một nét bút tân kỳ:
Cửa son đỏ loét tùm hum nãc

10


Hòn đá xanh rì lún phún rêu

(Đèo Ba Dội)
Hay bằng những đờng nét tạo hình thật ấn tợng:
Hai bên thì núi giữa thì sông
( Kẽm Trống)
Hoặc với những âm thanh gợi sự liên tởng sâu xa:
Gió giật sờn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nớc vỗ long bong
(Kẽm Trống)
Còn đây là một bức tranhtrăng thu khá ấn tợng:
Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm...
(Vịnh trăng I)
Đọc những bài thơ tả cảnh của Hồ Xuân Hơng chúng ta không khỏi liên tởng đến những cái khác ngoài cảnh đợc miêu tả. Cụ thể là đằng sau hình tợng
không gian vũ trụ thiên nhiên thấp thoáng hình tợng không gian buồng khuê
[23,94]. Đặc biệt, hình tợng về cái bộ phận kín đáo nhất trên cơ thể ngời phụ
nữ(yoni- sinh thực khí) hiện lên một cách nổi bật hấp dẫn. Hồ Xuân Hơng đà có
cái nhìn nghệ thuật đối với những không gian địa lý phong tục [18,165]
Không thuần túy là cái nhìn thị giác- cái nhìn thuần túy hội họa-mà dờng nh
nhà thơ đà nhìn đối tợng sự vật bằng tất cả mọi giác quan để chiêm ngỡng thởng
thức vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên đất nớc. Đồng thời màu sắc của văn hóa tín
ngỡng phồn thực hiện lên đậm nét và đợc nâng lên thành vẻ đẹp tự nhiên. Đúng
nh Nguyễn Sĩ Tế khi nghiên cứu thơ phong cảnh của Hồ Xuân Hơng đà nhận
xét: Hơn các nhà thơ son trẻ nào hết cái ân ái của con ngời bà muốn chuyển
dịch sang thiên nhiên (...), cái lối vẽ cảnh lÃng mạn son trẻ này đà làm cho thiên
nhiên trong thơ bà trở nên một sinh linh, một ngời đàn bà một con trẻ... hồn
nhiên [17,100]
Trong mảng thơ vịnh cảnh, Hồ Xuân Hơng có một số bài vịnh về cảnh
chùa đền. Đó là không gian tôn giáo[23,101], thế nhng trong thơ bà nó không

còn là không gian thiêng nữa, nó đà mất thiêng giảm thiêng.
Chùa Quán Sứ thì:
11


Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo ?
Hỏi thăm s cụ đáo nơi neo ?
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vÃi lần đếm lại đeo.
( Quan Sứ)
Quán Khánh thì : Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đờng đi thiên thẹo quán cheo leo
(...)Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khánh)
Hồ Xuân Hơng đà tiếp nhận cách phê phán thần quyền từ văn hóa dân
gian Việt Nam, bắt nguồn từ tình hình lịch sử thế kỷ XVIII- XIX Phật giáo
xuống dốc nhà chùa trở thành nơi hành lạc của vua chúa. Vì vậy, Hồ Xuân Hơng cũng có những bài thơ để phê phán châm biếm nhà chùavà nữ sĩ đà gặp văn
hóa dân gian ở việc thông qua nghệ thuật thơ ca để tế nhị phủ nhận thần quyền
và qua ®ã nh»m ®Ị cao søc m¹nh vËt chÊt con ngêi, đề cao sức sống của con ngời trớc tự nhiên[23,105]
2.1.3.Thơ vịnh ngời
Một mảng đề tài lớn, quan trọng nhất trong thơ Hồ Xuân Hơng là viết về
con ngời. Con ngời là đối tợng thẩm mỹ, là hình tợng trung tâm của văn học
nghệ thuật. Viết về con ngời, Hồ Xuân Hơng chủ yếu tập trung vào các đối tợng
nh ngời phụ nữ, những ngời trí thức nh học trò, ông đồ, nhà s... với những thái
độ tình cảm khác nhau: cảm thông, bênh vực, ngợi ca hay phê phán châm biếm.
Điều quan trọng hơn, viết về con ngời, Hồ Xuân Hơng chủ yếu tiếp thu những
cách nhìn cách nghĩ từ quần chúng, những ngời bình dân, từ truyền thống văn
hóa dân gian Việt Nam.
Trớc hết, đề tài viết về những trí thức nhà trờng ( anh đồ, học trò ), Hồ

Xuân Hơng có chùm thơ 3 bài Trách Chiêu Hổ , hai bài Mắng học trò-I,II.
Viết về đối tợng này, Hồ Xuân Hơng bộc lộ thái độ phê phán, hài hớc. Trong
dân gian, từ xa nhân dân ta luôn bộc lộ thái độ phê phán những kẻ nh thầy đồ
dốt, thầy dởm, lang băm, thầy bói dởm, học trò dốt hay nói chữ...
Kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam rất nhiều truyện phê phán đối tợng này, lấy
đối tợng này làm mục đích chế giễu, gây cời. Cái cời trong tiếu lâm là phơng
tiện để đấu tranh chống lại cái xấu. Nh vậy, phê phán trí thức dởm, thầy ®å
12


dởm , học trò dốt đà có từ trớc, từ trong dân gian. Tiếp nối thái độ phê phán từ
văn hóa dân gian, Hồ Xuân Hơng đà thể hiện qua một số bài thơ để chế giễu
bọn này. Trong chùm thơ ba bài Trách Chiêu Hổ, hình tợng anh đồ bờm
xơm, gian dối , sàm sỡ, nhút nhát đà đợc Hồ Xuân Hơng miêu tả khá chân thực
và đả kích không thơng tiếc:
Anh đồ tỉnh anh đồ say
Sao anh ghẹo nguỵệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay !
( Trách chiêu Hổ I )
Sao nói rằng năm lại có ba
Trách ngời quân tử hẹn sai ra ...
( Trách Chiêu Hổ II )
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhăn nhe toan những sự gùn ghè
Gùn ghè nhng vẫn còn cha giám
Cha giám cho nên phải rụt rè
( Trách Chiêu Hổ III)
Cuộc đối thoại bằng thơ giữa Xuân Hơng- Chiêu Hổ đà tiếp nối truyền
thống đối đáp của dân gian qua hát ví, hát giao duyên với truyền thống đối chọi

của các nhà thơ với nhau, của các nhà sứ thần Việt Nam với thiên triều[21,286]
Trong chùm thơ hai bài Mắng học trò , hình tợng những kẻ bạch diện
th sinh dốt nát nhng lại có thói xấu hợm mình, khoe chữ đà bị Hồ Xuân Hơng
bóc trần và trào phúng sâu cay.
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu tha
( Mắng học trò - I )
Dắt díu nhau lên chốn cửa chiền
Cũng đòi học nói , nói không nên
Ai về nhăn nhủ phờng lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền
( Mắng học trò- II )
Nhng có lẽ các nhà s là bị Hồ Xuân Hơng chỉ trích nặng nhất. Hồ
Xuân Hơng đà viết ba bài thơ về đề tài nhà s ( Vịnh s, S bị ong châm, Kiếp tu
13


hành ) để bộc lộ thái độ ghét cay ghét đắng hạng ngời vừa sống trái tự nhiên ,
vừa tha hóa biến chất. Không phải đến Hồ Xuân Hơng mới có những bài thơ bộc
lộ thái độ khinh ghét nhà s, mà trong văn học dân gian đà có những câu chuyện,
những câu ca dao viết về nhà s với thái độ phê phán. Kho tàng truyện tiếu lâm
có những truyện cời về s rất hay chẳng hạn nh truyện: A ! Mẹ đẻ ra s, Đậu
phụ nhà cắn đậu phụ chùa...
Ca dao cũng có nhiều câu chế diễu về s:
Nam mô một bồ dao găm
Một trăm giao mác
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó...(1)

Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho s
S về s ốm tơng t
Om lăn ốm lóc cho s trọc đầu (2)
S đang tụng niệm nam mô
(1) MÃ Giang Thấy
Lân (côTuyển
chọn
và giới
thiệu ),Tục ngữ, Ca dao Việt
cắp giỏ
mò cua
bên chùa
Nam,NxbGD,H.1998 , TrLòng
231. s luống những mơ hồ
(2) MÃ Giang Lân,
BỏSđd,
kinhtr232
bỏ kệ, tìm cô hỏi chào
Ai ngờ cô đi đằng nào
Tay lần trang hạt, ra vào ngẩn ngơ...(3)
Một tay gõ mõ gâ chu«ng
Mét tay bãp vó c« nêng nghe kinh(4)
( Ca dao )
Một thực tế là giai đoạn lịch sử thế kỉ XVIII-XIX Phật giáo ở nớc ta bị
khủng hoảng nhiều mặt. Chính vì vậy, Hồ Xuân Hơng có nhiều bài thơ vịnh về
s, về cảnh chùa với thái độ phê phán. Có thể nói, đây là cách nhìn của thời đại.
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc, áo không tà
Oản dâng trớc mặt dăm ba phẩm

VÃi nấp sau lng sáu bảy bà
(Vịnh s)
Hay là:
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm
Đi đâu không đội để ong châm?
(3).MÃ Gang Lân, Sđd, tr 233
(4).MÃ Giang Lân, Sđd, Tr 236

14


Đầu s há phải... gì bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái nhầm
(S bị ong châm)
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Kiếp tu hành)
Hồ Xuân Hơng đả kích nhà s đi ngợc lại quy luật của sự sống của tự
nhiên. Bởi lẽ Hồ Xuân Hơng là nhà thơ của triết lý phồn thực , ngời bảo vệ sự
sống nhiệt thành[21,265]. Và có lẽ Hồ Xuân Hơng cũng chịu ảnh hởng sâu sắc
của văn học dân gian khi thể hiện mảng đề tài này. Nữ sĩ đÃvận dụng hình thức
gây cời của dân gianvào sáng tác của mình. Tiếng cời có ý nghĩa thế giới quan
sâu sắc, đó là một trong những hình thức rất cơ bản của chân lývề thế giới nh
một tổng thể, về lịch sử con ngời; đó là một giác độ nhìn nhận thế giới đặc biệt,
cho phép thấy một cách khác, nhng cũng sâu sắc không kém. Chính vì thế cho
nên tiếng cời cũng hoàn có thể đợc dung nạp trong nền văn học chính ngôn,
nền văn học đặt những vấn đề trọng đại, nh thái độ trang nghiêm; có những mặt
rất quan trọng của thế giới chỉ có thể thâu tóm đợc bằng tiếng cời(1).Hồ Xuân

Hơng đà dung nạp tiếng cời của dân gian vào vào văn học chính ngôn. Đó
là một thành công xuất sắc của nữ sĩ họ Hồ.
Thơ Hồ Xuân Hơng có một đề tài tạo nên sự ám ảnh nghệ thuật đối
với đối tợng thởng thức đó là đề tài viết về ngời phụ nữ. Đề tài viết về ngời phụ
nữ có tính chất truyền thống từ xa đến nay. Trong văn học trung đại, đề tài về
ngời phụ nữ xuất hiện nhiều. Vơng Xơng Linh(Nhà thơ Trung Quốc đời Đờng)
có một bài thơ Sáng
Đờngtácluật
hay nói
về ngờivàphụ
chồng
đi chiến
(1).M.M.Bakhtin,
củarất
Francois
Rabelais
nền nữ
văncó
hóa
dân gian
trung trận .
Nhà thơ thể
thái
độ),Nghiên
thông cảm
sâu học,Số
sắc: 4,Viện văn học-Viện
cổ và Phục hng(Phạm
Vĩnhhiện
C lợc

dịch
cứu Văn
KHXHVN,H.4-2005,Tr126. Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngng trang thớng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dơng liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Khuê oán-Vơng Xơng Linh)
Văn học trung đại Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm viết về phụ nữ tiêu
biểu nh Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn
15


Gia Thiều), Truyện Kiều ( Nguyễn Du)... Tất cả đều cất lên tiếng nói cảm
thông đối với ngời phụ nữ. Nguyễn Du viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Truyện Kiều)
Tuy nhiên ngời phụ nữ trong văn học trung đại chủ yếu là ngời phụ nữ
thuộc tầng lớp trên, quý tộc, khuê các. Còn đề tài ngời phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hơng lại là ngời phụ nữ bình dân, những ngời phụ nữ bình thờng trong
cuộc sống hàng ngày, hoặc những phụ nữ khổ đau, bất hạnh trớc cuộc đời.
Trong số 41 bài thơ Nôm Hồ Xuân Hơng mà chúng tôi chọn làm đối tợng
nghiên cứu, có đến 28 bài thơ đợc tác giả hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp viết về
ngời phụ nữ ( chiếm 68%) . Đó là các bài: Bánh trôi nớc, Bỡn bà lang khóc
chồng, Vịnh quạt I, Vịnh quạt II, Trống thủng, Dệt cửi,Dỗ ngời đàn bà khóc
chồng chết, Đá ông chồng bà chồng, Đề đền Sầm Nghi Đống, §Ị tranh tè
n÷, GiÕng níc, Khãc Tỉng Cãc, Sù dë dang, Làm lẽ, Mắng học trò -I, Mời
trầu, Nợ chồng con, Con ốc nhồi, Vô âm nữ, Tát nớc, Thiếu nữ ngủ ngày,
Trách Chiêu Hổ I,II,III, Tự tình I,II,III.
Viết về đề tài ngời phụ nữ, Hồ Xuân Hơng chịu ảnh hởng cách nhìn ngời

phụ nữ trong văn học dân gian. Ca dao có những câu than thân trách phận:
Thân em nh tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
(Ca dao) [12,336]
Thân em nh hạt ma sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày
(Ca dao) [12,339]
Cảnh lấy chồng chung:
Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Đến tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài
Đến sáng chị gọi: Bớ Hai!
Trở dậy nấu cám thái khoai băm bèo
(Ca dao) [12,396]
16


Ca dao có những câu ca ngợi về vẻ đẹp của ngời phụ nữ:
Cổ tay em trắng nh ngà
Đôi mắt em liÕc nh lµ dao cau
MiƯng cêi nh thĨ hoa ngâu
Chiếc khăn đội đầu nh thể hoa sen
(Ca dao) [12,265]
Hoặc là:
Em nh tố nữ trong tranh
Anh nh ngòi bút chấm cành hoa mai
Tiếc thay mắt phợng mày ngài
Hồng nhan thế vậy nỡ hoài tấm thân
( Ca dao) [12,265]

Hoặc là:
Này chị em ơi chớ vội cời
Quyết trần mình để thế gian coi
(Ca dao) [12,265]
Có những bài ca dao về tình cảm đôi lứa, khát khao tình duyên:
Lửng lơ vừng quế soi thềm
Hơng đa bát ngát càng thêm bận lòng.
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem ngời ngọc thung thăng chốn này?
(Ca dao) [12,270]
Hồ Xuân Hơng cũng viết về ngời phụ nữ một cách đa chiều nh vậy. Có
những câu thơ viết về thân phận ngời phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nớc non
( Bánh trôi nớc)
Bác mẹ sinh em phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
( Con ốc nhồi)
Hay thân phận làm lẽ:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
17


Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
(Làm lẽ)
Hoặc viết về vẻ đẹp hình thể ngời phụ nữ (Thiếu nữ ngủ ngày, Tranh tố
nữ), viết về sự khao khát tình duyên, hạnh phúc lứa đôi ( Mời trầu)
...Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh nh lá bạc nh vôi
Hồ Xuân Hơng đà vẽ nên những bức chân dung về số phận của ngời
phụ nữ trong xà hội cũ. Họ phải chịu nhiều éo le, khổ đau trong cuộc sống nhng
họ vẫn can trờng, vẫn hiện lên những nét đẹp tâm hồn, hình thể, cái đẹp của
những khát vọng tự nhiên, trần tục và rất con ngời. Cảm hứng chủ đạo của Hồ
xuân Hơng khi viết về đề tài ngời phụ nữ là cảm hứng bênh vực và bảo vệ. Và
đặc biệt hơn nữa là cảm hứng đề cao và ngợi ca .Xuân Hơng tìm thấy vẻ đẹp
thật sự chân chính ở họ [8, 279], ngời phụ nữ bình dân.
Trong cả hệ thống đề tài của thơ Hồ Xuân Hơng, có những hình ảnh vẫn
thờng hay xuất hiện, nhất là trong những bài có tính chất phồn thực. Đó là
hình ảnh “vua” “ chóa”, “ anh hïng”, “ qu©n tư”, “hiỊn nhân- những nhân vật
thuộc tầng lớp trên, có địa vị cao trong xà hội phong kiến. Một trong những chủ
đề quan trọng trong thơ Hồ Xuân Hơng là chủ đề chống phong kiến, Xuân Hơng
tập trung phê phán đả kích bọn tu hành sống trái tự nhiên, mất hết sinh khí và
mỉa mai bọn nho sĩ mất phẩm chất, đạo đức giả. Vua, chúa, hiền nhân,
quân tử là những đại diện cho thế lực phong kiến.Thế nhng trong thơ Hồ Xuân
Hơng, họ không phải là đối tợng để đả kích. Họ chỉ là cái cớ, cái phơng
tiện để Xuân Hơng đạt đợc ý đồ nghệ thuật của mình. Vua, chúa, hiền
nhân, quân tử có địa vị xà hội, điều kiện kinh tế, đặc điểmsinh hoạt khác
nhau nhng tất cả những con ngời đó đều có những điểm gặp nhau ở chỗ: họ đều
là những con ngời rất ngời, đều có những khao khát bản năng, những ham
muốn tình dục mÃnh liệt nh tất cả mọi ngời[23,48].
...Hiền nhân, quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
(Đèo Ba Dội)
...Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu , vua yêu một cái này
(Vịnh quạt-II)
...Quân tử dùng dằng ®i ch¼ng døt
18



Đi thì cũng dở ở không xong
( Thiếu nữ ngủ ngày)
Đứng trớc tòa thiên nhiên ấy ai mà đi cho dứt, ai chẵng muốn ở lại
chiêm ngỡng, ai mà chẳng yêu, ai mà chẵng muốn...trèo. Đó là một phát
hiện tinh tế những ham muốn có tính bản năng trong những nhân vật thuộc
tầng lớp trên của Hồ Xuân Hơng. Dới con mắt thơ của Hồ Xuân Hơng thì
mọi ngời dẫu hơn nhau manh quần tấm áo nhng cái phần Ngời bên trong
thì cũng nh nhau mà thôi. Và đây là cách nhìn mà thơ ca dân gian Việt Nam
cũng đà từng nhìn nhận rất sâu sắc[23,49]
Qua tìm hiểu hệ thống đề tài trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân hơng,
ta thấy nhà thơ không lấy những đề tài đầy tính qui phạm, ớc lệ, những đề tài
lịch sử vào sáng tác thơ. Những đề tài cấu thành tác phẩm của Xuân Hơng chủ
yếu lấy từ văn hóa dân gian. Đi vào phân tích từng mảng đề tài trong thơ Xuân
Hơng lại thấy rõ hơn sự ảnh hởng của văn hóa dân gianViệt Nam đối với thơ của
nữ sĩ. Đó là sự ảnh hởng của những dề tài về văn hóa tín ngỡng phồn thực, của
những lễ hội sinh hoạt văn hóa dân gian,của đề tài văn học dân gian... Tất cả đÃ
cấu thành hệ thống đề tài trong thơ Hồ Xuân Hơng.
2.2. ảnh hởng trên phơng diện quan đIểm thẩm mĩ
Quan điểm thẩm mĩ tức là quan điểm cvề cái đẹp. Đối với nghệ thuật nói
chung, quan ®iĨm thÈm mÜ lµ quan ®iĨm cđa nhµ nghƯ sÜ về cái đẹp; đối với văn
học thì đó là quan điểm của nhà thơ, nhà văn về cái đẹp.
Cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học [9,147], và nó là đối tợng
chính của nghệ thuật [9,156]. Trong nền văn học mỗi nớc, cái đẹp luôn có
những chuẩn mực riêng, mỗi thời đều có nhng chuẩn mực của nó.
Cái đẹp trong văn học bác học thời trung đại đợc soi chiếu dới ánh sáng
đạo đức, t tởng Nho giáo. Đó là cái đẹp đợc xác lập trên các phạm trù đạo
đức:Tam cơng (quân vi thần cơng, phụ vi tử cơng,phu vi thê cơng),ngũ thờng( năm cái đứcmà ngời quân tử phải đạt: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín),Tam
tòng(tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) trách nhiệm của ngời

phụ nữ đối với đàn ông),Tứ đức(bốn đức tính ngời phụ nữ phải đạt: công,dung,
ngôn, hạnh). Nó có tính chất siêu hình cực đoan.
Cái đẹp trong văn hoá, văn học dân gian đợc quan niệm là cái đẹp tự
nhiên vốn đợc xuất hiện trong cuộc sống lao động của ngời bình dân. Tsernshevski quan niệm: cái đẹp là cuộc sống, một thực thể đẹp là thực thể trong
19


®ã ta nh×n thÊy cc sèng ®óng nh quan niƯm của chúng ta; một đối tợng đẹp là
một đối tợng trong đó có cuộc sống đợc thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc
sống(1). Quan niệm cái đẹp tự nhiên vốn có trong cuộc sống ở văn học dân gian
có những nét tơng đồng với quan niệmvề cái đẹp của Tsernshevski, nhà mĩ họcphê bình dân chủ Nga thế kỷ XIX.
Cái đẹp trong thơ Hồ Xuân Hơng gần với cái đẹp của văn hoá, văn học
dân gian,gần với quan niệm cái đẹp là cuộc sốngcủa Tsernshevski. Bà thể
hiện cái đẹp tự nhiên vốn có trong cuộc sống, và có phần xa với quan niệm về
cái đẹp trong văn học bác học. Đối tợng để Hồ Xuân Hơng thể hiện cái đẹp
đó là con ngời, cụ thể là ngời phụ nữ. Hình tợng ngời phụ nữ trong thơ Xuân Hơng hiện thân cho những số phận thấp bé trong xà hội. Đồng thời, hình tợng
ngời phụ nữ trong thơ của nữ sĩ cũng hiện thân của cái đẹp- vẻ đẹp trần thế. Và
để tô điểm thêm cho vẻ đẹp ngời phụ nữ trong những bài thơ của nữ sĩ luôn có
những hình ảnh của văn hoá tín ngỡng phồn thực, của mĩ học phồn thực( chữ
dùng của Đỗ Lai Thuý[21]).
Tín ngỡng phồn thực là khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của con
ngời và tạo vật, lấy các biểu tợng về sinh thực khí và hành vi giao phối làm đối
tợng [30,92]. Trong thời kì phong kiến, do ảnh hởng củavăn hoá Hán, tín ngỡng phồn thực chỉ tự giải thể mà không hề mất đi, nó hội nhập, đan xen với các
loại hình văn hoá nghệ thuật khác nh tranh dân gian, điêu khắc,văn học dân
gian...
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------(1),(2).Tsernshevski, Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực,NxbVăn hoá-nghệ
thuật,H.1962,tr23

Nó đi vào trong văn học thành văn,từ Nguyễn Du đếnHồ Xuân Hơng đà có
những tác phẩm tràn đầy tinh thần nhân văn khi vẽ lên những dáng vẻ đẹp đẽ,

khoẻ mạnh của cơ thể con ngời.Qua biến thiên của lịch sử, tín ngỡng phồn thực
đà trở thành một thứ trầm tíchvăn hoá Việt Nam[30,93].Thơ Hồ Xuân Hơng đÃ
(1).Tsernshevski,Quan
thẩm
củathứ
nghệ
thuậttích
đối với
tiếp
thu, chịu ảnh hởnghệsâu
sắcmĩcủa
trầm
ấy.hiện thực,NxbVăn hoá-nghệ
thuật,H.1962,tr23
Thể hiện vẻ đẹp ngời phụ nữ, trớc hết, đó là vẻ đẹp hình thể, thân thể, mối
quan tâm hàng đầu của Hồ Xuân Hơng khi tác giả làm thơ về phụ nữ:
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
(Dệt cửi)

20



×