Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Trí thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.82 KB, 113 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐÀO THỊ TƢƠI








TRÍ THỨC HOÁ ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN Ở HÀ NỘI
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học





Hà Nội - 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐÀO THỊ TƢƠI







TRÍ THỨC HOÁ ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN Ở HÀ NỘI
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành CNXHKH

Mã số: 60 22 03 08

Người hướng dẫn khoa học: TS.Ngô Thị Phượng




Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ ràng.


Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả Luận văn



Đào Thị Tƣơi




LỜI CẢM ƠN

Luận văn với đề tài “Trí thức hoá đội ngũ công nhân ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” được hoàn thành tại trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Để hoàn thành được Luận văn, bên cạnh
những cố gắng của bản thân, tác giả luận văn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá
nhân, tập thể.
Trước tiên, với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Ngô

Thị Phượng, cô đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học cho tác giả để Luận văn được hoàn thành.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Triết học, các cán bộ, công chức
của các phòng, ban, thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã hết sức giúp đỡ tác
giả trong quá trình học tập, nghiên cứu tại khoa, trường.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn
quan tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn thạc sỹ của
mình.
Xin trân trọng cảm ơn!


Tác giả Luận văn



Đào Thị Tƣơi



1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM VÀ TRÍ THỨC HÓA CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 11
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam 11
1.2. Quan điểm Mác - xít về trí thức hóa công nhân 22
1.3. Tính tất yếu và nội dung của quá trình trí thức hóa công nhân Việt Nam hiện
nay 38
Chƣơng 2. TRÍ THỨC HÓA ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN Ở HÀ NỘI THỜI
KỲ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

ĐẤT NƢỚC: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 49
2.1. Đội ngũ công nhân ở Hà Nội và vai trò của đội ngũ công nhân ở Hà Nội thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 49
2.2. Quá trình trí thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội thành tựu và những vấn đề
đặt ra 57
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình trí thức hóa
đội ngũ công nhân ở Hà Nội 85
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với sự phát triển kinh tế tri thức, với mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2020 là
“Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, chính trị xã hội ổn định, dân chủ kỷ cương, đồng thuận, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, độc lập chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong những
giai đoạn sau” [19, tr.103]. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên đòi hỏi phải phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó nội lực
quyết định trực tiếp là không ngừng nâng cao dân trí, xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng có ý nghĩa quyết định
nhất đến sự nghiệp công hóa, hiện đại hóa đất nước. Sức mạnh của giai cấp công
nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc xây dựng đất
nước. Qua gần 30 năm tiến hành đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có
những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa
dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên đáng kể, dần hình thành một bộ phận

công nhân trí thức, đang tiếp tục khẳng định vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, và giao dịch quốc tế của cả nước; là nơi
đặt trụ sở các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị
xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế là nơi diễn ra các hoạt
động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước. Để xây dựng, phát triển thủ đô
Hà Nội - trái tim của cả nước, ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, kế thừa và
phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến góp phần xây dựng đất nước Hà Nội
cần có sự quan tâm, đầu tư về mọi mặt, đặc biệt là, đầu tư phát triển nguồn nhân
lực nói chung và đội ngũ công nhân nói riêng.


3
Trong những năm qua đội ngũ công nhân ở Hà Nội luôn luôn xứng đáng
là đội ngũ đi đầu trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung. Đội ngũ công nhân Hà Nội góp phần
quan trọng vào những biến chuyển sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, phát triển
kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng, củng
cố quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công -
nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp. Cùng với sự phát triển
về mọi mặt của thủ đô Hà Nội thì đội ngũ công nhân ở Hà Nội cũng có sự phát
triển nhiều mặt, tăng nhanh về số lượng, phát triển đa dạng các nhóm công nhân
trong nhiều thành phần kinh tế; trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật
của đội ngũ công nhân vào bậc tiên tiến so với cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng, những đóng góp
to lớn và đáng tự hào, thì đội ngũ công nhân ở Hà Nội hiện nay đang đối diện với
không ít những vấn đề. Đội ngũ công nhân về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế;
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành

nghề, tác phong công nghiệp…đa phần công nhân chưa được đào tạo một cách
bài bản và có hệ thống. Một bộ phận lớn giai cấp công nhân chậm thích nghi với
cơ chế thị trường, địa vị chính trị của giai cấp công nhân còn mờ nhạt, chưa phát
huy đầy đủ vai trò là nòng cốt của khối liên minh công - nông và đội ngũ trí thức.
Vì vậy xây dựng đội ngũ công nhân ở Hà Nội để đội ngũ này có thể khắc phục
những hạn chế, phát huy vai trò “tiên phong” của mình trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thủ đô Hà Nội nói riêng và của cả nước nói
chung là một nhiệm vụ quan trọng và có tầm chiến lược. Nghị quyết Trung ương
sáu, khóa X cũng đã khẳng định “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt
cho công nhân, không ngừng trí thức hóa công nhân là một nhiệm vụ chiến
lược”…“xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển về số lượng, nâng cao
chất lượng, cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức
hóa” [17, tr.48-50].


4
Từ những lý do trên tác giả chọn vấn đề “Trí thức hóa đội ngũ công nhân
ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
làm đề tài luận văn thạc sỹ Triết học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Xuất phát từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân đối với quá trình đấu
tranh cách mạng cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là trong
quá trình đổi mới và tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã có
nhiều công trình nghiên cứu của các cá nhân và tập thể về vấn đề này:
Các công trình khoa học bàn về giai cấp công nhân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cao Văn Lượng (chủ biên), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát
triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001: Tác phẩm khái
quát một số vấn đề lý luận về giai cấp công nhân, sự phát triển và biến đổi sâu
sắc về mọi mặt của giai cấp công nhân dưới tác động của công nghiệp hóa hiện

đại hóa, của sự phát triển khoa học kỹ thuật; thực trạng của công nhân lao động ở
nước ta hiện nay cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu. Tác giả khẳng định khoa học
kỹ thuật ngày càng phát triển, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ
trí thức của công nhân sẽ ngày càng được nâng cao. Bộ phận này chính là lực
lượng nòng cốt của giai cấp công nhân hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra
những chính sách và giải pháp cơ bản xây dựng, củng cố và tăng cường vị trí
của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004. Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về giai cấp công nhân Việt
Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đề cập đến giai cấp công nhân, thực
trạng và xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.


5
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động Hà Nội, 2007. Công trình này
gồm các tham luận khoa học bàn về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân; mối
quan hệ giữa giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn; vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Các bài tham luận đã đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng để nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong giai
đoạn hiện nay.
Đặng Ngọc Tùng, Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, Tạp chí Cộng sản, số 784, tháng
2/2008. Bài viết đã chỉ ra rằng, giai cấp công nhân nước ta hiện nay tuy có bước

phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng đội ngũ được nâng lên (biểu
hiện là xuất hiện bộ phận công nhân trí thức), nhưng nhìn chung giai cấp công
nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Do vậy, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh là
một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.
Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Viết Thông, Bùi Đình Bôn (chủ biên), Một số
vấn đề lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Lao động, Hà
Nội, 2012. Tác phẩm đề cập tới xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; Vai trò làm chủ của giai
cấp công nhân, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động; Tổ chức
và hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên trong các loại hình
doanh nghiệp; những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và tuyên truyền
phản động của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân; cuối cùng là giải
pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy, nâng cao chất lượng nghiên cứu, phát triển lý
luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới.


6
Các công trình khoa học bàn về phát huy vai trò của giai cấp công nhân
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Viện Công nhân và Công đoàn, Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và phát
huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Lao động, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã đề cập tới những vấn đề cơ bản trong
việc xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đồng thời, tác giả đưa ra một số biện pháp đề phát huy vai trò của giai cấp
công nhân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dương Văn Sao, Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, nhân tố
quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí

Lao động và Công đoàn số 376, tháng 3/2007. Tác giả khẳng định giai cấp công
nhân là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước từ đó đề xuất một số chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò giai
cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Báo cáo
tổng hợp đề tài cấp Nhà nước, mã số KX.04.15/06-10, Chủ nhiệm đề tài Đặng
Ngọc Tùng, Hà Nội, 2010. Đây là một đề tài nghiên cứu công phu, toàn diện
và có những kết luận mang tính khái quát cao về giai cấp công nhân Việt
Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Đề tài đã tập trung phân tích, luận
giải những vấn đề cơ bản, cốt lõi của giai cấp công nhân từ khái niệm, vị trí,
vai trò, thực trạng và xu hướng biển đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
giai đoạn 2010 - 2020. Đề tài cũng khẳng định cùng với thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, giai
cấp công nhân Việt Nam sẽ ngày càng trí thức hóa. Từ đó đề tài đã đề xuất những
quan điểm, giải pháp toàn diện và có tính khả thi để Đảng và Nhà nước xây dựng
và phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Mạnh Thắng, Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí
Cộng sản, tháng 9/2011. Bài viết đã chỉ ra một số những đặc điểm cũng như hạn


7
chế của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ đó tác giả đã đưa
ra một số giải pháp cơ bản trước mắt để xây dựng, phát triển giai cấp công nhân
Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các công trình khoa học bàn về quá trình trí thức hóa công nhân và công
nhân trí thức
Phan Thanh Khôi (chủ biên), Ý thức chính trị của công nhân trong một số
doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003. Trong
công trình khoa học này những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến ý

thức chính trị của công nhân đã được đề cập đến, đây là một trong những nội
dung của trí thức hóa công nhân. Nói đến vai trò quan trọng của công nhân do đó
đội ngũ công nhân Hà Nội nói riêng và giai cấp công nhân cả nước nói chung
phải luôn có ý thức chính trị vững vàng, sẵn sàng đối đầu với mọi tình huống.
Phan Thanh Khôi, Trí thức hóa công nhân một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 323+324, 2005; Nội dung và chủ thể,
quan điểm và giải pháp trí thức hóa công nhân ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, số 329, 2005. Tác giả khẳng định tầm quan trọng của quá
trình trí thức hóa công nhân trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng như thực tiễn vận động của
giai cấp công nhân nước ta trong những năm qua. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa
ra những nội dung căn bản của quá trình trí thức hóa công nhân, những giải pháp
đẩy mạnh quá trình trí thức hóa công nhân nhằm nâng cao chất lượng của giai
cấp công nhân để giai cấp công nhân xứng đáng là lực lượng lãnh đạo trong quá
trình xây dựng đất nước.
Phạm Ngọc Dũng, Trí thức hóa công nhân Việt Nam, Thông tin xã hội, số
12, 2006. Tác giả cho rằng sự ra đời của công nhân trí thức là một xu thế khách
quan. Tác giả đã chỉ ra và phân tích những đặc điểm cơ bản của công nhân trí
thức như có trình độ khoa học công nghệ cao, khả năng sáng tạo và khả năng
thích ứng nhanh với những thay đổi nghề nghiệp…Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra ở


8
Việt Nam đang hướng vào nền kinh tế tri thức và được xác định trong đường lối
của Đảng và Nhà nước với những mục tiêu và chính sách cụ thể.
Văn Tạo, Giai cấp công nhân Việt Nam với kinh tế tri thức, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội, 2007; Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức
và công nhân trí thức, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008. Tác giả không chỉ
dừng lại ở việc hệ thống hóa những tư tưởng của các nhà kinh điển, những ý kiến
của những nhà lãnh đạo, những định nghĩa của các nhà khoa học Việt Nam về

giai cấp công nhân mà còn đưa ra những định nghĩa về giai cấp công nhân nói
chung và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng. Đặc biệt tác giả đã đi sâu tìm
hiểu những nét mới nhất trong sự phát triển của giai cấp công nhân nước ta từ khi
có Đảng cho đến giai đoạn hiện nay. Theo tác giả, sự phát triển mạnh mẽ của tiến
bộ khoa học công nghệ, công nghệ thông tin là điều dẫn đến sự ra đời kinh tế tri
thức và cùng với nó là sự xuất hiện của công nhân trí thức. Khi nói về vai trò của
công nhân trí thức, bước đầu, tác giả dự báo, cả trong sản xuất và trong quản lý
sản xuất, quản lý xã hội, công nhân trí thức hơn bao giờ hết có thể đóng vai trò
tiên phong ở trình độ cao của sức sản xuất, cũng như ở trình độ mới của tính
quốc tế hóa, toàn cầu hóa trong quan hệ sản xuất.
Nhìn chung các công trình trên đây đã đi sâu luận giải và làm sáng tỏ khái
niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung,
giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế nói riêng; đồng thời đề cập đến vấn đề xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
vấn đề trí thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
đẩy mạnh hơn nữa quá trình trí thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội để đội ngũ
công nhân phát huy hơn nữa vai trò, sứ mệnh là đội ngũ “tiên phong” trong quá
trình xây dựng thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.


9
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề trí thức hóa công
nhân Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn
nữa quá trình trí thức hóa công nhân ở Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

- Luận văn có nhiệm vụ làm rõ một số vấn đề lý luận về giai cấp công
nhân Việt Nam và trí thức hóa công nhân Việt Nam hiện nay.
- Trình bày khái quát về đội ngũ công nhân Hà Nội và vai trò của đội ngũ
công nhân Hà Nội.
- Trình bày những thành tựu của quá trình trí thức hóa đội ngũ công nhân
Hà Nội, từ đó phân tích những vấn đề đặt ra trong quá trình trí thức hóa đội ngũ
công nhân ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh quá trình trí thức hóa đội ngũ
công nhân ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quá trình trí thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội
thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề trí thức hóa đội ngũ công nhân trên địa bàn
Hà Nội; thời gian chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luân văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giai công nhân
và trí thức hóa công nhân.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình giai cấp công nhân, quá trình trí
thức hóa đội ngũ công nhân ở Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp


10
hóa, hiện đại hóa. Các kết luận trong luận văn dựa vào các số liệu, các tài liệu,
báo cáo của các doanh nghiệp, các cơ quan trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic và lịch sử trong quá trình
nghiên cứu.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng
hợp, so sánh, phê phán, đánh giá…
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu, luận cứ khoa học cho
Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội, các nhà quản lý trong các doanh nghiệp
tham khảo trong việc đề ra chủ trương, chính sách đẩy mạnh trí thức hoa công
nhân, góp phần xây dựng giai cấp công nhân có phẩm chất, năng lực, phát huy
tốt vị trí, vai trò lịch sử của mình trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Ngoài ra, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình
giảng dạy, học tập và nghiên cứu có liên quan đến giai cấp công nhân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia thành 2 chương, 6 tiết.











11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT

NAM VÀ TRÍ THỨC HÓA CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam
Ngày nay cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
nền kinh tế tri thức ra đời, có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến và
cách hiểu khác nhau về khái niệm giai cấp công nhân. Vì vậy để có một cái nhìn
khoa học tiến tới một nhận thức thống nhất về khái niệm giai cấp công nhân cần
trở về với các quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai
cấp công nhân: giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công
nghiệp,… trong những hoàn cảnh cụ thể các ông còn sử dụng một số hình thức
diễn đạt khác nhau như: “giai cấp lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn
chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp công nhân làm thuê thế
kỷ XIX”,… Tất cả những thuật ngữ này chỉ khác nhau về hình thức diễn đạt còn
về ý nghĩa nó đồng nghĩa với nhau và được đưa ra trên cơ sở xem xét hai tiêu chí
cơ bản: về phương thức lao động, phương thức sản xuất và về vị trí của giai cấp
công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: giai cấp công
nhân đều là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ
sản xuất có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và tính xã hội hóa ngày
càng cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân với người
thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong các công trường thủ công và trong
nghề thủ công, người lao động sử dụng công cụ lao động của mình, còn trong
công xưởng người công nhân phục tùng máy móc. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
giai cấp công nhân là sản phẩm, là “con đẻ” của nền đại công nghiệp: “các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công


12

nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [4,
tr.610].
Thứ hai, về vị trí của giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa: trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân không có tư
liệu sản xuất, phải bán sức lao động làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản công nhân là người lao động tự do,
những người bán sức lao động để sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn
mạnh tiêu chí này vì chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp
đối kháng với giai cấp tư sản về lợi ích cơ bản. “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà
lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể
sống với điều kiện kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động
của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc
phải bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng
đem bán đi như bất cứ món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường” [4, tr.605].
Căn cứ vào tiêu chí trên Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp
công nhân trong tác phẩm “Những nguyên lý cơ bản về chủ nghĩa cộng sản”:
“Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán
lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào,
đó là giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của
họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt xấu
của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi” [5, tr. 456].
Phát triển học thuyết của Mác - Ăngghen trong điều kiện hoàn cảnh lịch
sử mới V.I.Lênin đưa ra khái niệm về giai cấp tương đối hoàn chỉnh làm cơ sở
khoa học cho nghiên cứu các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong tác phẩm
“Sáng kiến vĩ đại” ông viết: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to
lớn, gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã
hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan
hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về



13
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách
hưởng thụ và phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác, do các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định” [31, tr.17-18]
Trên cơ sở định nghĩa về giai cấp, khi bàn về giai cấp công nhân,
V.I.Lênin đã khẳng định: “Công nhân là người lao động công nghiệp, làm việc
trong nền đại công nghiệp”, theo ông quan niệm những người được coi là công
nhân là những người trước đây đã là công nhân làm thuê bình thường trong nền
đại công nghiệp ít nhất là 10 năm và hiện nay đang làm việc trong nền đại công
nghiệp từ 2 đến 3 năm.
Như vậy các nhà kinh điển Mác - Lênin điều thống nhất rằng giai cấp
công nhân do nền đại công nghiệp sinh ra, là những người trực tiếp vận hành các
công cụ sản xuất công nghiệp, tồn tại, phát triển cùng với sự phát triển của nền
đại công nghiệp.“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp
độ của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản
xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái
sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội…” [20, tr. 99].
Từ những khái niệm chung về giai cấp công nhân, nghiên cứu làm rõ khái
niệm giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng. Nhận thức đúng đắn về thành phần, cơ cấu, chất lượng giai cấp công nhân
trong hoàn cảnh mới, từ đó góp phần quan trọng vào việc hoạch định chủ trương
chính sách, giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân.
Có nhiều ý kiến khác nhau bàn về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay,
để có cái nhìn rõ hơn về giai cấp công nhân Việt Nam và trả lời cho câu hỏi giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay bao gồm những ai, đang tham gia vào những



14
lĩnh vực nào chúng ta đi tìm hiểu một số khái niệm về giai cấp công nhân của
một số nhà nghiên cứu:
Giáo sư Văn Tạo trong tác phẩm “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và
công đoàn Việt Nam” cho rằng: “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là một
tập đoàn những người lao động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn
lương sống và làm việc gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động
quản lý một nền công nghiệp hiện đại then chốt của nền kinh tế quốc dân và đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến trong xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò
đi tiên phong trong tiến trình lịch sử của xã hội Việt Nam” [56, tr.39].
Trong cuốn “Đổi mới chính sách với công nhân và thợ thủ công” của
trung tâm nghiên cứu thông tin lý luận - Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đưa
ra định nghĩa: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn xã hội những
người lao động ở Việt Nam, có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn
lương, sống và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do
nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt và đại diện cho lực lượng sản
xuất tiên tiến của xã hội nên giai cấp công nhân tất yếu có vai trò đi tiên phong
trong tiến trình phát triển của lịch sử hiện đại” [59, tr.113].
Tác giả Đan Tâm trong bài “Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện đại - một cách tiếp cận” lại khẳng định “Giai cấp công nhân Việt Nam là
cộng đồng xã hội những người làm công ăn lương, nguồn thu nhập chủ yếu bằng
tiền công; trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp, tạo ra sản phẩm
công nghiệp hoặc có tính công nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật
then chốt của xã hội và tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội”
[55, tr.29].
Trong tác phẩm “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011-
2020” các tác giả đưa ra khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam như sau:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển cùng

với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công, hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh


15
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất
công nghiệp, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật
chất; là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến;
lực lượng xã hội nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” [62, tr.69-70].
Gần đây nghị quyết Trung ương sáu, khóa X của Đảng cộng sản Việt Nam
đã đưa ra khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam như sau: “Giai cấp công
nhân Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển bao gồm những người
lao động chân tay và lao động trí óc, làm công ăn lương trong các loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất công nghiệp” [17, tr.23].
Các định nghĩa trên đều thống nhất khi đề cập đến khía cạnh bản chất của
giai cấp công nhân, là người lao động công nghiệp gắn với khoa học - kỹ thuật
công nghệ cao, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh quan trọng trong nền
kinh tế. Từ những định nghĩa trên ta có thể trả lời được câu hỏi giai cấp công
nhân Việt Nam bao gồm những ai, giai cấp công nhân nước ta hiện nay bao gồm
nhiều bộ phận. Họ không chỉ là những người lao động sản xuất và dịch vụ công
nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước mà còn là những người công nhân
thuộc khu vực kinh tế tư nhân các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty, tổng
công ty, những tập đoàn kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài, những doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Nói một cách khái quát, giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay đang có mặt ở mọi thành phần kinh tế, mọi ngành kinh tế.
Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế
tri thức, số lượng trí thức tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp và dịch vụ

công nghiệp ngày càng nhiều. Họ đã và đang trở thành công nhân trí tuệ góp phần
nâng cao chất lượng, tính tiên tiến, hiện đại của giai cấp công nhân Việt Nam.
Những người lao động dịch vụ thuộc các ngành và thành phần kinh tế hiện
đang chiếm tỉ lệ khoảng 1/3 trong tổng số công nhân lao động, đông nhất là ở các


16
ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ…Trong hàng ngũ này những người lao
động gắn với quy trình sản xuất công nghiệp hiện đại đều có thể là những người
thuộc giai cấp công nhân hiện nay.
Từ những khái niệm, những quan điểm về giai cấp công nhân Việt Nam
có thể nêu một số đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam như sau:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam sinh trưởng ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến với một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nhân chưa phát
triển, đa số dân cư là nông dân, sinh trưởng trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm, chịu hai tầng áp bức của đế quốc thực dân và
phong kiến. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời vào lúc phong trào công nhân
quốc tế phát triển mạnh mẽ, trưởng thành nhanh trên con đường đấu tranh vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách
mạng triệt để nhất trong các giai cấp ở Việt Nam.
Thứ hai, công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nhân dân lao động,
cùng phải chịu hai tầng áp bức của thực dân và phong kiến, nên họ có mối liên hệ
mật thiết với nông dân, sớm tạo nên khối liên minh công - nông vững chắc trong
cách mạng. Đây là một đặc điểm khá nổi bật trong lịch sử trưởng thành của giai
cấp công nhân Việt Nam. Khối liên minh công - nông sớm tạo lập và phát huy
vai trò vơi tư cách là cơ sở, nền tảng, động lực cách mạng, tạo nên sức mạnh to
lớn, bền vững để nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi vẻ vang trong cách
mạng dân tộc, dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác do xuất thân chủ yếu từ nông dân, không được tôi rèn trong nền
đại công nghiệp nên công nhân Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nặng từ tư tưởng

nông dân, chậm hình thành tác phong công nghiệp.
Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản, thấu
hiểu hơn ai hết nỗi đau của cảnh nước mất nhà tan, nên đã kiên quyết đứng lên
đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc. Vừa lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác
- Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực
lượng chính trị tự giác và thống nhất, được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục đã


17
sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất
cách mạng triệt để.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, luôn là lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, quá trình “trí thức hóa” giai cấp công nhân Việt Nam đang diễn
ra mạnh mẽ, từng bước hình thành giai cấp công nhân trí thức Việt Nam. Việc
hình thành giai cấp công nhân trí thức không có nghĩa đơn thuần chỉ là bổ sung
vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp
công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động - lao
động điều khiển những công nghệ tự động hóa của nền kinh tế tri thức.
Trên cơ sở khái niệm giai cấp công nhân nói chung, căn cứ vào những đặc
trưng của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam có
thể đưa ra quan niệm về giai cấp công nhân Việt Nam như sau: Giai cấp công
nhân Việt Nam là một tập đoàn gồm những người lao động trên lĩnh vực công
nghiệp với trình độ kỹ thuật - công nghệ ngày càng hiện đại và xã hội hóa ngày
càng cao; thu nhập chủ yếu là tiền công; là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình”. Giai cấp công nhân Việt Nam thông

qua chính đảng của mình là Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo toàn
bộ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
1.1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Cống hiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào cộng sản
và chủ nghĩa quốc tế là các ông đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
giai cấp công nhân. Họ đã chỉ ra lực lượng xã hội to lớn là giai cấp công nhân,


18
giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng cộng sản nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản trong phạm vi từng quốc gia và trên toàn thế giới.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định “trong tất cả các giai cấp hiện đang đối
lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng.
Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”
[4, tr.610]. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác tiếp tục khẳng
định: “Mặt khác, giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp tư sản,
bởi vì bản thân nó, tuy lớn lên trên mảnh đất của đại công nghiệp, nhưng lại
muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ các tính chất tư bản chủ nghĩa mà giai cấp tư
sản đang cố duy trì vĩnh viễn” [6, tr.38]. Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ: “Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại” [7, tr.393].
V.I.Lênin kế thừa và phát triển những luận điểm khoa học, cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản
đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông tiếp tục khẳng định vai trò sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung phát triển
hơn nhiều luận điểm quan trọng. Khi khẳng định giá trị bền vững của tác phẩm
“Tuyên ngôn của đảng cộng sản” V.I.Lênin chỉ rõ: “Tác phẩm này trình bày một cách

hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa
duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội - phép biện chứng với tư cách là học
thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai
trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng
tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản” [28, tr.57]. V.I.Lênin còn khẳng định “điểm
chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa” [27, tr.1].
V.I.Lênin nêu quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
điều kiện mới là “giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo toàn bộ xã hội trong cuộc


19
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ
cuộc đấu tranh thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp”. Ông chỉ rõ “chỉ có một giai cấp
nhất định - chính là công nhân thành thị và nói chung, công nhân nhà máy, công
nhân công nghiệp, mới có khả năng lãnh đạo được toàn thể quần chúng lao động
và những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản, trong chính
ngay quá trình lật đổ ách đó, trong cuộc đấu tranh để duy trì và củng cố thắng lợi,
trong sự nghiệp sáng tạo ra một chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, trong toàn
bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp” [31, tr.17].
Như vậy có thể thấy các nhà kinh điển đều cho rằng: sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi sự áp bức, bóc lột nghèo nàn lạc hậu, xây dựng chủ nghĩa xã hội văn minh.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong thời kỳ khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp ở Việt Nam, từ những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ra
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản
Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm, bởi vì nó ra đời ở một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Thực dân Pháp
chỉ chú trọng phát triển công nghiệp khai thác nhằm vơ vét các tài nguyên thiên

nhiên và bóc lột sức lao động của nhân dân. Chính vì vậy thời kỳ này số lượng
công nhân Việt Nam rất ít, chủ yếu tập trung ở các mỏ quặng, hoặc trong đồn
điền cao su và một số ngành khác như điện, cầu đường… Mặc dù số lượng còn ít,
trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông
dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai
trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta.
Lịch sử nước ta đã chứng minh rằng, giai cấp công nhân ra đời chưa được
bao lâu ngay cả khi chưa có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã tự phát tiến
hành nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ;
điển hình là cuộc bải công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (1922) mà Nguyễn Ái


20
Quốc cho rằng đó là “bản năng tự vệ” của những người công nhân “không được
giáo dục và tổ chức”, nhưng đã là “dấu hiệu… của thời đại”. Năm 1927, có gần
chục cuộc bãi công với hành trăm người tham gia, năm 1928 - 1929, có nhiều
cuộc bãi công khác với hàng nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là
cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Tràng
Thi Những cuộc đấu tranh như thế không chỉ giới hạn trong công nhân mà còn
tác động sâu rộng đến các tầng lớp khác, đặc biệt là giai cấp nông dân, các tầng
lớp nhân dân lao động, thanh niên, sinh viên, làm cho bọn thống trị thực dân
hoảng sợ.
Sự hình thành nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân của Hồ Chí Minh, không chỉ đánh dấu bước trưởng thành trong nhận thức
lý luận cách mạng của Người, mà còn tạo ra bước ngoặt theo hướng vô sản của
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã cùng với những nhà cách mạng Việt Nam
bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, từ đây phong trào
yêu nước, phong trào công nhân có những bước chuyển rõ rệt “Từ năm 1924 trở đi,
phong trào cách mạng Việt Nam ngày càng lên cao, công nhân đã có nhiều cuộc đấu
tranh liên tiếp, từ đấu tranh kinh tế tiến lên đấu tranh chính trị” [48, tr.8].

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào
những năm cuối thập kỷ 30 của thế kỷ XX. Từ khi có Đảng, phong trào công
nhân Việt Nam đã chuyển từ tự phát sang tự giác; Đảng đã đem yếu tố tự giác
vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước
phát triển nhảy vọt về chất “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản
nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [48, tr.8].
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói đến giai cấp công nhân
lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể, chứ không phải từng
nhóm, từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có


21
tổ chức tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình, lực lượng đó là
Đảng Cộng sản. Mặc dù về thành phần xuất thân thì ở nước ta thì có nhiều Đảng
viên không phải là công nhân nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên
lập trường giai cấp công nhân, thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng
trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân, vì lợi ích của
giai cấp công nhân của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, đội ngũ
công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động cơ bắp và lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong tất cả các ngành nghề, thành phần kinh tế hình thành
một giai cấp thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới công nhân nước ta, đặc biệt là đội
ngũ công nhân trí thức đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, có nhiều công
hiến trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế, giữ vững an
ninh chính trị trật tự an toàn xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng
nòng cốt trong xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, làm nền tảng của khối đoàn kết toàn dân tộc, lấy sự
thống nhất về chính trị và tinh thần trên cơ sở đường lối của Đảng làm tiền đề,
lấy liên minh về kinh tế đảm bảo hài hòa về quyền lợi của công - nông - trí thức
và các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội làm nội dung chủ yếu.
Giai cấp công nhân đã và đang tích cực đi tiên phong thực hiện những chủ
trương đổi mới kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,
đang từng bước góp phần quan trọng làm thay đổi tình trạng nông nghiệp lạc

×