Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.01 KB, 38 trang )

Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Chương I: Các nguyên tắc cơ bản phân tích công ty
I/ Sự tăng trưởng:
Sự tăng trưởng là điểm nhìn khái quát đầu tiên của nhà đầu tư khi nhìn vào công ty mà
mình định đầu tư.Khi nghiên cứu về sự tăng trưởng của một công ty bất kỳ nào nhà đầu tư cần
phải tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi sau:
 Công ty tăng trưởng nhanh như thế nào?
 Nguồn gốc của sự tăng trưởng?
 Sự tăng trưởng đó có bền vững và duy trì bao lâu?
1/ Tốc độ tăng trưởng như thế nào?
Tốc độ tăng trưởng cao là yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên nó cũng là cạm bẫy cho
các nhà đầu tư. Một công ty có thể có một lịch sử tăng trưởng đều đặn ở những mức tăng
trưởng cao nhưng đó có thể là một cơ hội đầu tư tốt trong hiện tại nhưng trong tương lai thì đó
là vấn đề cần phải xem xét lại. Bởi vì không có gì là chắc chắn trong tương lai, tăng trưởng thu
nhập nhanh chóng không phải lúc nào cũng duy trì trong nhiều năm. Những công ty tăng
trưởng và tích lũy nhiều lợi nhuận sẽ nhanh chóng thu hút sự chú ý của các công ty trong cùng
ngành thậm chí là ngoài ngành và sẽ nhanh chóng bị các công ty này giành lấy thị phần.
Chúng ta không thể nhìn con số trên bề mặt bên ngoài mà đánh giá khả năng đầu tư vào
công ty đó. Con số tương đối về tỷ số tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận chỉ là phần nổi của tảng
băng trôi mà thôi. Phần chìm mà các nhà đầu tư cần phải xét đến là chất lượng của sự tăng
trưởng. Tăng trưởng như vậy là đâu mà có? Tăng trưởng là do bán hàng nhiều hơn, gia nhập thị
trường mới, tung ra những sản phẩm mới hay do các thủ thuật kế toán mới…? Vấn đề này sẽ
được nhóm trình bày cụ thể hơn ở phần tiếp theo.
2/ Nguồn gốc của tăng trưởng :
Tăng trưởng doanh số có thể điều chỉnh tăng trưởng lợi nhuận. Tuy nhiên một số công ty
có thể dùng một số thủ thuật để làm tăng lợi nhuận ròng từ đó làm cho tăng trưởng lợi nhuận
có thể tăng nhanh hơn so với tăng trưởng doanh số trong thời gian dài. Các yếu tố góp phần
tăng trưởng thu nhập phải kể đến như:
• Tăng trưởng do tăng trưởng doanh số
• Tăng trưởng do cắt giảm chi phí
• Tăng trưởng do các thủ thuật kế toán


2.1/ Tăng trưởng doanh số:
Tăng trưởng doanh số xuất phát từ bốn nguyên nhân sau:
2.1.1/ Bán nhiều hàng hóa và cung cấp nhiều dịch vụ hơn.
Bán nhiều hàng hóa và cung cấp nhiều dịch vụ hơn là cách đơn giản nhất. Bạn cố gắng bán
thật nhiều hàng hóa và dịch vụ, bạn có thể sử dụng các chiến lược marketing: nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng, hậu mãi…để thu hút khách hàng, hãy sáng tạo và làm những gì tốt
hơn đối thủ để chiếm lấy thị phần của đối thủ.
1
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Ví dụ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Internet Việt Nam hiện có 6 doanh nghiệp chính
thức cung cấp dịch vụ Internet là VDC, Viettel, FPT Telecom, NetNam, SPT và EVN Telecom.
VDC đang chiếm tới khoảng 70% thị phần Internet băng rộng. VDC đã làm gì để có một thị
phần lớn như vậy? Chúng ta hãy nhìn số liệu về sự tăng trưởng của VDC những năm gần đây.
Năm 2009, với việc doanh nghiệp chính thức ra mắt cổng tiện ích tổng hợp MegaVNN Plus với
7 dịch vụ MegaShare, MegaVstar, MegaSecurity, MegaWeb, MegaE-Meeting, MegaE-
learning, MegaE-School đã góp phần tạo ra nội dung mới cho khách hàng của dịch vụ
MegaVNN. Lưu lượng sử dụng dịch vụ đã tăng lên đáng kể với 200 triệu Mb/tháng.Thương
hiệu và thị phần dịch vụ trên thị trường đã có sự cải thiện đáng kể. Từ 60% năm 2008, VDC đã
giành tới 72% thị phần dịch vụ Internet toàn quốc. Doanh thu toàn mạng dịch vụ MegaVNN đạt
trên 3 ngàn tỷ đồng, bằng 172% so với năm 2008. Thuê bao MegaVNN đã tăng mạnh, tới
134% so với năm 2008. Bên cạnh MegaVNN, tỷ trọng doanh thu năm 2009 của VDC đã cho
thấy vai trò quan trọng của các dịch vụ Internet trực tiếp đang được cung cấp. Dịch vụ Internet
trực tiếp đã có mức tăng trưởng ấn tượng, bằng 252% so với năm 2008. Kết quả này đạt được
nhờ VDC đã nắm bắt, đón đầu xu hướng, nhu cầu sử dụng dịch vụ kết hợp với Internet trong
nước tốc độ cao và Internet đi quốc tế. Như vậy VDC đã nổ lực để cung cấp cho khách hàng tốt
nhất và kết quả nó đã chiếm được vị thế anh cả trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Internet.
2.1.2/Tăng giá:
Tăng giá có thể là cách tốt để để công ty gia tăng doanh thu của mình. Tuy nhiên đối với những
công ty mới gia nhập thị trường, chưa có tiếng nói trên thị trường thì chiến lược tăng giá chưa
hẳn là một chiến lược tốt vì nó có thể bị phản tác dụng, khách hàng sẽ phản ứng không tốt đối

với sản phẩm có khi dẫn đến doanh thu bị giảm. Những công ty có thương hiệu mạnh hoặc thị
trường ổn định áp dụng chiến lược này mới có khả năng thành công trong thời gian dài. Chẳng
hạn như Ford đã công bố lợi nhuận ròng của công ty trong quý II năm 2010 đạt 2,6 tỷ USD,
hoàn thành 6 tháng đầu năm làm ăn có lãi nhất trong vòng hơn một thập kỷ trở lại đây. Kết quả
này có được nhờ việc tăng giá các mẫu xe mới. CEO Alan Mulally đã “đại tu” toàn bộ danh
mục sản phẩm của Ford, cho thiết kế lại các xe như Taurus và Fusion, đồng thời bổ sung một số
trang bị như ghế da sưởi điện và các thiết bị điện tử điều khiển bằng giọng nói. Ông cũng yêu
cầu nâng cao chất lượng, rồi tăng giá xe, giúp Ford thù về 1,1 tỷ USD từ việc tăng giá xe trong
quý II và khiến hoạt động kinh doanh ô tô của công ty trên toàn thế giới trở nên có lãi. Ford đã
thu về 4,7 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm nay, mức lợi nhuận nửa đầu năm lớn nhất của công ty
kể từ năm 1998, và là quý thứ 5 lãi liên tiếp. Cùng kỳ năm ngoái, lợi nhuận của Ford đạt 2,26 tỷ
USD.
2.1.3/Bán những hàng hóa và dịch vụ mới:
Nếu công ty của bạn không có nhiều thị phần thì bạn có thể tăng doanh số bằng cách bán những
sản phẩm mà bạn chưa từng bán trước đây. Những sản phẩm mới chưa có trên thị trường sẽ thu
được sức hút lớn từ sự quan tâm của khách hàng nhưng bạn cần nhanh chân để tăng doanh thu
trước khi phân khúc thị trường, khách hàng tiềm năng của bạn bị các đối thủ cạnh tranh khác
“nhòm ngó”. Trường hợp của Masan là một minh chứng. Nhờ chiến lược kinh doanh đúng đắn
mà kết quả kinh doanh của Masan Food trong những năm gần đây tăng trưởng rất ấn tượng.
Trong giai đoạn 2006-2008, doanh thu của công ty tăng trưởng bình quân 84% năm (từ 571 tỷ
lên 1.922 tỷ đồng), lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 263% từ 29 tỷ lên 380 tỷ đồng.
2
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Trong năm 2007 công ty đã tung ba sản phẩm mới ra thị trường:
• Nước tương Tam Thái Tử: Kết quả là Tam Thái Tử đã độc chiếm thị trường nước tương
trung - thấp cấp và chỉ sau 1 tháng tung hàng đã mang lại lợi nhuận cho công ty – có thể nói là
hiếm có mặt hàng nào trên thế giới có được thành công như vậy. Tam Thái Tử hiện cũng đã
được đưa ra thị trường miền Bắc và bước đầu đã có những thành công.
• Mì ăn liền khoai tây Omachi: là sản phẩm mì ăn liền đầu tiên ở Việt Nam có thành phần
khoai tây, Omachi “Ăn Ngon Mà Không Sợ Nóng” được đưa ra thị trường từ cuối tháng

6/2007. Độc đáo, khác biệt, tốt cho sức khỏe, quảng cáo hấp dẫn và hệ thống phân phối dầy
đặc/hiệu quả đã đưa Omachi lên vị trí dẫn đầu trong phân khúc mì ăn liền cao cấp cũng như
đưa thị phần mì của chúng ta tăng gấp 5 lần so với năm 2006.
• Nước mắm Nam Ngư: với mục tiêu thành công trong thị trường nước mắm truyền thống
với hàng trăm đối thủ trên thị trường toàn quốc và hàng chục đối thủ tại mỗi địa phương khác
nhau, bên cạnh việc tăng thị phần của nước mắm cao cấp Chin-su, cuối tháng 11/2007 chúng ta
đã đưa ra thị trường nước mắm trung cấp Nam Ngư. Hấp dẫn ngay từ cái tên, an toàn “Hoàn
Toàn Không Có U-Rê”, ngon, vừa túi tiền của đa số người tiêu dùng, đúng thời điểm và phân
phối tốt đã đưa doanh số Nam Ngư tăng gấp 2-3 lần / tháng cho đến thời điểm hiện nay.
Theo phân tích của CTCP chứng khoán Bản Việt (VCSC), sự tăng trưởng mạnh trong các năm
qua của Masan Food là do:
• Doanh thu tăng trưởng cao nhờ tăng thị phần các sản phẩm hiện hữu và tung các sản
phẩm mới. Công ty chú trọng tới các dòng sản phẩm cấp trung vì phân khúc thị trường
của các sản phẩm này là rất lớn.
• Cải thiện đáng kể biên lợi nhuận.Điều này xuất phát từ việc công ty đã chuyển hướng từ
xuất khấu sang thị trường nội địa, loại bỏ một số sản phẩm có biên lợi nhuận thấp và
không hiệu quả. Đồng thời phát triển các mặt hàng cao cấp có biên lợi nhuận cao.
Rõ ràng việc tung ra các sản phẩm mới đã góp phần tăng doanh thu đáng kể cho Masan
Food
Như vậy, mục tiêu của cách phân tích sự tăng trưởng của doanh thu là để hiểu vì sao một
công ty tăng trưởng. Bạn biết được bao nhiêu tăng trưởng xuất phát từ việc tăng giá, bao
nhiêu là xuất phát từ tăng sản lượng, bao nhiêu là do tăng thị phần… Sự tăng trưởng đó có
thể tiếp tục hay chấm dứt trong tương lai.
3
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
2.1.4/Mua công ty khác:
Nguyên tắc then chốt đằng sau việc mua một công ty là nhằm tăng giá trị lớn hơn nhiều lần
cho cổ đông chứ không chỉ là tổng của hai công ty. Những người trong ngành đã quá quen
thuộc với câu: Một cộng một bằng ba là phương trình này là động lực đặc biệt cho một thương
vụ mua bán và sáp nhập. Nguyên lý này đặc biệt hữu ích khi các công ty rơi vào những thời kỳ

khó khăn do cạnh tranh, thị trường hay bất kỳ yếu tố nào. Những công ty lớn sẽ mua lại các
công ty khác nhằm tạo nên một công ty mới có sức cạnh tranh hơn và giảm thiểu chi phí. Các
công ty sau khi mua lại công ty sẽ có cơ hội mở rộng thị phần lớn hơn và đạt được hiệu quả
kinh doanh tốt hơn. Những công ty nhỏ là đối tượng bị mua cũng sẵn sàng để công ty khác
mua vì như vậy sẽ tốt hơn nhiều là bị phá sản hoặc rất khó khăn tồn tại trên thị trường. Lợi ích
mà các doanh nghiệp kỳ vọng sau mỗi thương vụ mua lại công ty bao gồm: Giảm nhân viên,
đạt được hiệu quả dựa vào quy mô vì quy mô lớn cũng giúp giảm thiểu chi phí, trang bị công
nghệ mới, tăng cường thị phần và danh tiếng trong ngành, vị thế của công ty mới sau khi sáp
nhập sẽ tăng lên trong mắt cộng đồng đầu tư… Tháng 1/2009 vừa rồi, Verizon đã chi ra 28,1
tỷ USD mua lại Alltel để có cơ hội bước chân vào thị trường các khu vực nông thôn và vùng
sâu vùng xa. Tập đoàn Verizon, cổ đông chính của Verizon Wireless, cho biết năm 2008 doanh
thu của hãng này đã tăng lên 16,4% so với năm 2007. Một ví dụ gần đây, ngày 1/3/2010, hãng
bảo hiểm Prudential tại Anh thông báo họ đã đạt được thỏa thuận về việc mua chi nhánh tại
châu Á của AIG với giá 35,5 tỷ USD. Prudential sẽ trả 25 tỷ USD bằng tiền mặt và 10,5 tỷ
USD bằng cổ phiếu cùng các loại chứng khoán khác. Một ví dụ gần đây, ngày 1/3/2010, hãng
bảo hiểm Prudential tại Anh thông báo họ đã đạt được thỏa thuận về việc mua chi nhánh tại
châu Á của AIG với giá 35,5 tỷ USD. Prudential sẽ trả 25 tỷ USD bằng tiền mặt và 10,5 tỷ
USD bằng cổ phiếu cùng các loại chứng khoán khác. AIA là chi nhánh lâu đời và kinh doanh
hiệu quả nhất của AIG, phục vụ hơn 20 triệu người tại châu Á, còn Prudential có hơn 11 triệu
khách hàng trong khu vực này. Vì vậy, sau khi thương vụ hoàn tất, Prudential sẽ trở thành
hãng bảo hiểm lớn nhất tại Việt Nam, Hong Kong, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan,
Philippines và là hãng bảo hiểm nước ngoài lớn nhất tại Trung Quốc, Ấn Độ. Harvey
McGrath, Chủ tịch Prudential, khẳng định mua AIA sẽ là một thương vụ thành công: "Sự kết
hợp giữa Prudential và AIA là ý tưởng tuyệt vời. Chúng tôi sẽ trở thành hãng bảo hiểm nhân
thọ hàng đầu trong các thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh tại Đông Nam Á" .
Tuy nhiên, những kết quả từ quá khứ về các vụ chuyển nhượng đều bị thất bại. Nguyên
nhân vì sao? Các vụ chuyển nhượng đều thất bại khi đề nghị món tiền lời cho cổ đông công ty
đang bị mua lại. Các công ty đi mua lại phải giữ cho công ty bị mua lại càng lúc càng lớn hơn
để duy trì sự tăng trưởng như trước đây, và một công ty càng lớn thì càng khó quản lý, kiểm
soát. Ngoài ra việc mua lại cần phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và chi phí. Các công ty

mua lại luôn đưa ra các chi phí liên quan đến hợp nhất thường trình bày vòng vo kết quả tài
chính của họ, kết quả của những công ty bị mua lại có thể bị làm mờ đi trong sự hỗn độn liên
quan đến việc sát nhập.
Mục tiêu của những nhà đầu tư thành công là mua công ty tốt chứ không phải tạo nên một
vụ chuyển nhượng và sát nhập thành công. Bạn không biết công ty sẽ tăng trưởng bao nhiêu khi
không có chuyển nhượng thì bạn không nên mua cổ phiếu bởi vì bạn không bao giờ biết được
khi nào vụ chuyển nhượng đó sẽ dừng lại.
2.2/ Tăng trưởng do cắt giảm chi phí:
4
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Cắt giảm chi phí ở đây không phải được hiểu theo nghĩa thắt lưng buộc bụng, thắt chi phí
đến mức thấp nhất mà làm thế nào điều tiết chi phí một cách hợp lý nhằm có cơ hội tăng doanh
thu, lợi nhuận. Một tổ chức có thể cắt bỏ sự phức tạp không cần thiết trong cách tiến hành kinh
doanh. Điều này không chỉ giúp giảm chi phí, mà còn mang lại sự hài lòng lớn hơn cho khách
hàng nhờ vào việc bỏ bớt những hoạt động không cần thiết. Đôi khi, cách tốt nhất để cắt giảm
chi phi chính là “sa thải” những khách hàng đắt giá và có chi phí duy trì quan hệ cao khiến bạn
phải hứng chịu sự phức tạp hoặc các hoạt động dịch vụ đắt hơn giá trị mà khách hàng đó có thể
mang lại. Best Buy nhận ra rằng rất nhiều các chi phí của họ bắt nguồn từ một vài khách hàng
có cách cư xử không tốt. Ví dụ, những người mua đi mua lại và trả lại những món hàng đã tạo
ra chi phí khổng lồ đối với hoạt động quản lý và kiểm kê. Do vậy Best Buy theo dõi và hạn chế
những loại hành vi này. Các nhà bán lẻ quần áo cũng áp dụng cách thức này. Ngân hàng trên
mạng ING Direct thường xuyên "sa thải" những khách hàng quá đòi hỏi, sử dụng quá mức dịch
vụ tư vấn điện thoại hay quản lý của ngân hàng. American Express cũng đang đề nghị một
nhóm khách hàng một thẻ quà tặng trị giá 300 đôla để thanh toán khoản nợ của họ và xóa bỏ
các thẻ mua hàng của họ.
Việc cắt giảm chi phí được xem như những chương trình ngắn hạn chứ không phải lâu
dài. Thậm chí, sau những chiến dịch cắt giảm chi phí thành công, nhiều doanh nghiệp lại thấy
rằng: ở các bộ phận khác, chi phí lại gia tăng hoặc các đối thủ cạnh tranh đuổi kịp họ. Cuối
cùng, doanh nghiệp lại phải đối mặt với những khó khăn khác phát sinh xuất phát từ việc cắt
giảm chi phí. Thủ thuật cắt giảm các chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển,

quảng cáo, duy tu bảo dưỡng thiết bị… cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên,
vì các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của DN về lâu dài, nên sử dụng
giải pháp này đồng nghĩa với các việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
2.3/Tăng trưởng do thủ thuật kế toán:
Có nhiều Doanh nghiệp áp dụng các biện pháp sau để tự tạo tăn trưởng nhờ vào các thủ
thuật kế toán như:
• Lợi dụng các ước tính kế toán. Bằng cách lợi dụng các ước tính kế toán như: các khoản
dự phòng, chi phí trả trước, chi phí trích trước và khấu hao tài sản cố định, DN có thể tăng
hoặc giảm chi phí theo ước muốn chủ quan để có được con số lợi nhuận mong muốn. Cụ thể:
với khấu hao, theo luật định, danh mục tài sản cố định tại DN buộc phải thực hiện khấu hao
trong khoảng thời gian nhất định và đây là cơ sở để lựa chọn nhằm tăng hoặc giảm chi phí có
thể với chi phí khấu hao.
• Ghi nhận trước doanh thu và lợi nhuận đối với các hoạt động có thời gian dài. Thủ thuật
này thường được áp dụng trong các DN xây dựng.
• DN có thể tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc thực hiện giao dịch vào cuối kỳ
kế toán với khách hàng mà không yêu cầu khách hàng thanh toán ngay (do được chiếm dụng
vốn nên họ sẵn sàng chấp nhận). Thủ thuật này thực tế là việc chuyển doanh thu và lợi nhuận
của kỳ sau sang kỳ báo cáo.
3/ Chất lượng của tăng trưởng:
5
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Có nhiều cách khác nhau để tạo ra sự tăng trưởng tốt nhất là khi ta tập trung sự chú ý vào tăng
trưởng lợi nhuận hơn là tăng trưởng doanh số. Như đã trình bày ở phần trên có nhiều màu sắc
khác nhau để có thể vẽ ra một bức tranh tăng trưởng lợi nhuận ngay cả khi không sử dụng đến
tăng trưởng doanh số. Đó có thể là thay đổi thuế suất, mua lại cổ phần, lãi từ trợ cấp, lợi nhuận
nhận một lần (thường từ bán công ty), cắt giảm chi phí quá mức…Chúng ta cần phải quan tâm
đến chất lượng của sự tăng trưởng. Liệu thật sự công ty đó tăng trưởng hay là nó được ngụy
trang bằng những thủ thuật trên. Bất kỳ khi nào tăng trưởng lợi nhuận vượt xa tăng trưởng
doanh số trong một thời gian dài thì chúng ta cũng nên nghiên cứu kỹ. Sự khác biệt lớn giữa tỷ
lệ tăng trưởng của thu nhập ròng và thu nhập hoạt động hoặc dòng tiền hoạt động cũng là vấn

đề mà chúng ta phải lưu tâm.Chúng ta hãy xem xét sự tăng trưởng của IBM trong những năm
sau:
Bảng 5.1 Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của IBM (triệu đô)
Tỷ lệ tăng
trưởng
1995 1996 1997 1998 1999 2000 200
1
200
2
Doanh số 12.3 5.6 3.4 4.0 8.2 1.0 -2.9 5.5
TN hoạt
động
51.7 13.2 5.8 0.7 30.2 -2.5 -
20.1
-
26.9
EPS 43.7 41.4 17.6 9.3 25.2 7.8 -2.0 -
28.0
Bảng 5.2 Dòng tiền hoạt động hàng năm của IBM (triệu đô)
Trong bảng 5.1, từ năm 1995 đến 1999 tỷ lệ tăng trưởng trong doanh số qua các năm ở
mức trung bình khoảng 5%, tuy nhiên EPS lại tăng trưởng ở mức khá cao trung bình
khoảng 17%. Rõ ràng ở đây có sự chênh lệch giữa tăng trưởng doanh số và tăng trưởng
EPS. Tuy nhiên dòng tiền những năm 90 đã phản ánh chất lượng tăng trưởng EPS có một
điểm gì đó đáng nghi ngờ. Dòng tiền những năm nay tăng trưởng khá chậm thậm chí có
năm năm sau còn thấp hơn cả năm trước.Vậy vì sao EPS của IBM lại hấp dẫn như vậy? Có
mấy nguyên nhân sau đã điều chỉnh EPS của IBM:
 Thuế suất của công ty giảm từ 46% trong năm 1995 xuống khoảng 30% vào những
năm cuối thập niên.
 Công ty đã cắt giảm đáng kể tổng chi phí quản lý.
 Công ty đã mua lại một phần cổ phiếu của mình, số cổ phần lưu hành ít hơn làm cho

EPS cao hơn.
Tăng trưởng ở chất lượng thấp không có nghĩa là công ty cố tình làm méo mó sổ sách mà
đơn thuần đó là sự tăng trưởng không thể duy trì được trong tương lai. Khi ta không xác định
được nguồn gốc của sự tăng trưởng hoặc sự khác biệt quá lớn giữa doanh thu và lợi nhuận ròng
thì chúng ta cần quan tâm đến chất lượng của sự tăng trưởng. Có những lý do làm cho EPS có
IBM 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Dòng
tiền
10.7 10.3 8.9 9.3 10.1 9.3 14.3 13.8
6
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
thể tăng như mua lại cổ phần hay trả ít thuế hơn nhưng đó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn hơn
là nguồn gốc lâu dài của tăng trưởng lợi nhuận.
II/ Khả năng sinh lợi (profitability):
Là thước đo hiệu quả bằng, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để duy trì cân bằng tài chính.
Việc đánh giá khả năng sinh lợi phải dựa trên một khoảng thời gian tham chiếu. Khái niệm khả
năng sinh lợi được áp dụng trong mọi hoạt động kinh tế sử dụng các phương tiện vật chất, con
người và tài chính, thể hiện bằng kết quả trên phương tiện. Khả năng sinh lợi có thể áp dụng
cho một hoặc một tập hợp tài sản.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập hợp các tài sản
vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh nghiệp nắm giữ; là phần quan trọng
nhất của quá trình phân tích công ty. Hầu hết các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào bất kì
một công ty nào cũng đã từng ít nhất một lần đặt ra câu hỏi: công ty đang tạo ra bao nhiêu lợi
nhuận so với số tiền đầu tư vào công ty? Lợi nhuận mà công ty tạo ra có hấp dẫn nhà đầu tư
không? Và các công cụ để đánh giá khả năng sinh lời của công ty là gì? Đây là chìa khóa chính
để tách một công ty lớn ra khỏi các công ty trung bình, bởi vì công việc của bất kì công ty nào
cũng là lấy tiền từ các nhà đầu tư bên ngoài và đầu tư nó để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận càng
cao thì công ty càng hấp dẫn. Nhìn chung, khả năng sinh lợi cần ít nhất đủ để đáp ứng được hai
đòi hỏi cấp bách:
 Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp (đầu tư).

 Trả được các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.
Lãi thu được từ các hoạt động sinh lợi trong năm tài khoá có thể được trích chia cho cổ đông
hoặc vẫn duy trì dưới dạng vốn dự trữ (reserve). Nếu không tính tới thuế và lãi, khả năng sinh
lợi của tài sản phải cho phép tích luỹ đủ tiền để đảm bảo vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo
hoàn trả nợ, đóng góp vào việc tăng vốn và trả lợi nhuận đầu tư vốn cho các cổ đông.
Mọi quyết định và thay đổi về việc nắm giữ tài sản không chỉ làm nảy sinh vấn đề tài chính mà
còn làm nảy sinh cả vấn đề sinh lợi. Nếu khả năng sinh lợi không đủ lớn, doanh nghiệp sẽ
không đủ phương tiện để đáp ứng nhu cầu của nhiều yếu tố sản xuất kinh doanh khác nhau.
Thặng dư khi đó sẽ không đủ để duy trì cân bằng tài chính.
Để có được một ý tưởng sơ lược về khả năng sinh lợi của một công ty ta có thể so sánh dòng
tiền hoạt động với EPS được báo cáo vì dòng tiền hoạt động thể hiện lợi nhuận thực tế. Nhưng
không phải vì lợi nhuận biên tế ròng mà cũng chẳng phải dòng tiền hoạt động giải thích số vốn
được trói chặt vào doanh nghiệp, và đó là điều đôi khi chúng ta không thể phớt lờ. Chúng ta cần
biết có bao nhiêu lợi nhuận kinh tế mà một công ty có thể tạo ra trên mỗi đồng vốn được sử
dụng bởi vì nó sẽ có lợi nhuận thặng dư để tái đầu tư, đây là điều sẽ tạo ra một lợi thế so với
các đối thủ cạnh tranh kém hiệu quả. Bạn cứ nghĩ theo một cách đơn giản như thế này: giả sử
có hai công ty A và B đều sử dụng tiền của cổ đông và đầu tư nó vào công ty của họ để tạo ra
lợi nhuận.Và công ty A tạo ra tỷ suất sinh lợi là 30%, công ty B là 20%.Bằng cách đo lường lợi
nhuận mà ban quản trị công ty đã đạt được thông qua quá trình đầu tư này, chúng ta có thể biết
được hiệu quả của việc chuyển đổi vốn thành lợi nhuận của họ tốt như thế nào.Và rõ ràng, nếu
7
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
chỉ xét tới tỷ suất sinh lợi, thì một điều mà chúng ta ai cũng biết, đó là công ty A đang đầu tư
hiệu quả hơn, và nó cũng là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư.
Vì vậy, để đánh giá khả năng sinh lợi của công ty có hai công cụ là tỷ suất sinh lợi trên
vốn và dòng tiền tự do. Để thấy được một công ty đang tạo ra bao nhiêu lợi nhuận so với số
tiền đầu tư vào công ty?
1/ Tỷ suất sinh lợi trên tài sản (Return On Assets - ROA ):
Đây là một chỉ số thể hiện tương quan giữa mức sinh lợi của một công ty so với tài sản của
nó, ROA sẽ cho ta biết với mỗi đồng tài sản thì một công ty có thể tạo ra bao nhiêu lợi nhuận

sau khi chi trả tất cả chi phí cho việc kinh doanh. ROA được tính bằng cách chia thu nhập hàng
năm cho tổng tài sản, thể hiện bằng con số phần trăm. Công thức tính như sau:
ROA= Thu nhập ròng/ Tổng tài sản
ROA= Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu x Hiệu suất sử dụng tài sản
• Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu = Thu nhập ròng / Doanh thu
• Hiệu suất sử dụng tài sản (vòng quay tài sản) = Doanh Thu / Tài sản
Chú ý : Một số nhà đầu tư có cộng cả chi phí lãi vay vào thu nhập ròng trong công thức tính
toán trên vì họ thích sử dụng doanh thu hoạt động trước lãi vay.
ROA sẽ cung cấp cho bạn các thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư (hay
lượng tài sản). ROA đối với các công ty cổ phần có sự khác biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào
ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là
nên so sánh ROA của mỗi công ty qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.
Tài sản của một công ty thì được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn
này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu
tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA, ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm
được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
ROA giúp chúng ta hiểu rằng có hai cách để tạo ra lợi nhuận hiệu quả:
 Tính giá cao cho sản phẩm (lợi nhuận biên tế cao)
Ví dụ: nhà bán lẻ cao cấp Parkson, Louis Vuitton, Tiffany……..với thương hiệu của mình
các sản phẩm được bán với giá rất cao tạo nên lợi nhuận biên tế cao và có khả năng nhiều
vốn bị chôn chặt trong tài sản của họ làm cho hiệu suất sử dụng tài sản thấp. Tạo nên ROA
cao.
8
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
 Xoay vòng tài sản một cách nhanh chóng
Những cửa hàng tạp hóa và những nhà bán lẻ có chiết khấu thường có lợi nhuận biên tế thấp
vì vậy để đạt được ROA bền vững đòi hỏi hiệu suất sử dụng tài sản phải cao thông qua quản
lý chặt chẽ hàng tồn kho bởi vì nó làm giảm số vốn bị chiếm dụng vào trong tài sản, đây là
điều giúp gia tăng tỷ suất sinh lợi trên tài sản.
Những công ty có ROA cao thì chuyển tài sản thành lợi nhuận tốt hơn. Chúng ta có thể thấy

điều này khi so sánh một nhà bán lẻ hạng nhất như Best Buy với một công ty như Circuit City,
công ty đã chật vật trong suốt cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Từ năm 1998, tỷ
suất sinh lợi trên tài sản của Circuit City chỉ khoảng 4% đến 5%, nhưng ngược lại Best Buy đã
cải thiện từ mức 5% tăng đến mức gần 10%
Bảng 5.3: Số liệu về khả năng sinh lợi hàng năm của Circuit City
Khả năng sinh lợi của Circuit City 1998 1999 2000 2001 2002
Lợi nhuận biên tế ròng % 1,4 1,6 1,9 1,4 2,0
Hiệu suất sử dụng tài sản (trung bình) 2,6 3,0 3,2 3,0 2,5
Tỷ suẩt sinh lợi trên tài sản % 3,6 4,8 6,1 4,2 5,0
Bảng 5.4: Số liệu về khả năng sinh lợi hàng năm của Best Buy
Khả năng sinh lợi của Best Buy 1998 1999 2000 2001 2002
Lợi nhuận biên tế ròng % 1,1 2,2 2,8 2,6 2,9
Hiệu suất sử dụng tài sản (trung bình) 4,4 4,4 4,5 3,9 3,2
Tỷ suẩt sinh lợi trên tài sản % 4,8 9,7 12,6 10,1 9,3
Lợi nhuận biên tế cao hơn gần 3% của Best Buy và dưới 2% của Circuit City_đây chỉ là một
phần của bức tranh, nhưng hiệu suất sử dụng tài sản cao hơn mới là điểm khác biệt lớn của hai
công ty. Ví dụ như trong năm 2002, mỗi đồng Circuit City đầu tư vào đất đai và hàng tồn kho
(2 tài sản lớn nhất của hầu hết nhà bán lẻ) tạo ra được khoảng 2,5 đồng trong doanh số, trong
khi đó cùng một số tiền đầu tư như vậy thì Best Buy đã tạo ra được 3,2 đồng trong doanh số.
Rõ ràng, Best Buy quản lý các cửa hàng hiệu quả hơn Circuit City và đã chuyển đổi tài sản của
nó sang lợi nhuận tốt hơn.
 Hệ số suất sinh lời của tài sản (ROA) thường có sự chênh lệch giữa các ngành. Những
ngành đòi hỏi phải có đầu tư tài sản lớn vào dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, công
nghệ như các ngành vận tải, xây dựng, sản xuất kim loại … thường có hệ số suất sinh lời
của tài sản (ROA) nhỏ hơn so với hệ số suất sinh lời của tài sản (ROA) của các ngành
mà không cần phải đầu tư nhiều vào tài sản như ngành dịch vụ, quảng cáo, phần mềm

Sử dụng ROA là đủ nếu như tất cả các công ty đều có một đống tài sản đồ sộ, nhưng nhiều
công ty được tài trợ một phần từ nợ, điều này làm cho lợi nhuận của họ có một thành phần đòn
bẩy mà chúng ta cần ghi nhận. Thước đo tiếp theo của chúng ta về lợi nhuận trên vốn, đó là tỷ

suất sinh lợi trên vốn cổ phần, chúng ta hãy cùng nghiên cứu.
2/ Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần ROE (Return on Equity):
9
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần là một thước đo chung tuyệt vời cho khả năng sinh lợi của
một công ty bởi vì nó đo lường tính hiệu quả của một công ty so với một công ty chỉ sử dụng
vốn cổ phần – nói cách khác, nó đo lường khả năng công ty tạo ra lợi nhuận tốt như thế nào.
Trị giá ROE được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng (net income) theo niên độ kế toán (từ 1
tháng 1 đến 31 tháng 12) sau khi đã trả cổ tức cho cổ phần ưu đãi nhận cổ tức nhưng trước khi
chi trả cổ tức cho cổ phần thường chia cho toàn bộ vốn chủ sở hữu, tức tài sản ròng vào lúc đầu
niên độ kế toán. Hoặc nhân ROA với tỷ số đòn bẩy tài chính của công ty:
ROE = ROA x Tỷ số đòn bẩy tài chính
• Tỷ số đòn bẩy tài chính = Tài sản / Vốn cổ phần
Hoặc
ROE = Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu x Hiệu suất sử dụng tài sản x Tỷ số đòn bẩy tài chính
Chỉ số này là thước đo chính xác nhất để bạn đánh giá một đồng vốn của cổ đông bỏ ra và tích
luỹ được (có thể lợi nhuận để lại) tạo ra bao nhiêu đồng lời. Từ đó nhà đầu tư có cơ sở tham
khảo khi quyết định mua công ty X hay công ty Y có cùng ngành nghề với nhau.
Tỷ lệ ROE càng cao chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, điều này có
nghĩa công ty cân đối một cách hài hoà giữa đồng vốn cổ đông với đồng vốn vay (vì nếu vay
nhiều thì phải trả lãi vay làm giảm lợi nhuận) để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trên thị
trường để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Do đó, chúng ta có 3 yếu tố có thể tăng ROE
 Hiệu suất sử dụng tài sản
Một công ty có thể chỉ có lợi nhuận biên tế kha khá và tỷ số tài chính đòn bẩy ở mức khiêm
tốn, nhưng nó có thể làm ăn phát đạt nhờ có hiệu suất sử dụng tài sản cao (ví dụ: một nhà kinh
doanh bán lẻ có chiết khấu được quản lý tốt như Wal – Mart). Các công ty có hiệu suất sử dụng
tài sản cao đặc biệt hiệu quả trong việc tạo thêm lợi nhuận từ mỗi đồng tiền họ đầu tư vào
những tài sản thâm dụng vốn.
 Lợi nhuận biên tế ròng

Một công ty cũng có thể trội hơn khi thuyết ohujc khách hàng trả đủ tiền cho sản phẩm của họ -
vòng quay tài sản có thể chỉ vừa phải, và công ty có lẽ cũng không có nhiều đòn bẩy, nhưng nó
có lợi nhuận biên tế tuyệt vời ( ví dụ như công ty kinh doanh hàng cao cấp như Coach)
 Tỷ số đòn bẩy tài chính
Một công ty có thể tăng ROE bằng cách sử dụng đòn bẩy ở mức cao (ví dụ: các công ty đã bão
hòa chẳng hạn như các công ty cung cấp các dịch vụ công cộng)
10
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Chuẩn mực sơ lược để đánh giá ROE của các công ty
Vào giữa năm 2003,chỉ khoảng 1/10 công ty phi tài chính theo dữ liệu của Morningstar có thể
có ROE trên 15% mỗi năm trong vòng 5 năm qua, vì vậy có thể thấy khó khăn như thế nào để
đạt được kết quả hoạt động như vậy. Vì thế vói bất kì công ty nào đạt được ROE trên 20%, thì
đây thực sự là cơ hội tốt để đầu tư vào.
Các ngân hàng luôn luôn có tỷ số đòn bẩy tài chính cực lớn, đừng lo sợ khi thấy tỷ số đòn bẩy
có vẻ cao so với một công ty không phải là ngân hàng. Ngoài ra, bởi vì đòn bẩy của ngân hàng
luôn cao, nên bạn muốn gia tăng giới hạn cho tài trợ công ty – nghĩa là hãy tìm ROE lớn hơn
hoặc bằng 17%.
Các công ty có ROE quá cao luôn là tính bất thường. ROE lớn hơn hoặc bằng 40% thường vô
nghĩa bởi vì chúng có khả năng bị bóp méo do cấu trúc tài chính công ty_ các công ty được
thành lập từ các công ty mẹ, các công ty mà cổ phiếu của nó bị mua lại rất nhiều, và những
công ty có chi phí lớn thường làm sai lệch ROE bởi vì vốn cổ phần của chúng bị suy giảm.
3/ Dòng tiền tự do:
Dòng tiền tự do là thước đo hoạt động của doanh nghiệp được tính toán bằng hiệu số giữa dòng
tiền hoạt động và chi tiêu vốn. Nói cách khác, dòng tiền tự do đại diện cho lượng tiền mặt là
doanh nghiệp có thể tạo ra sau khi để lại một phần để duy trì hoặc mở rộng các tài sản phục vụ
cho sản xuất kinh doanh. Sở dĩ khái niệm dòng tiền tự do quan trọng là bởi vì nó cho phép
doanh nghiệp có thể theo đuổi các cơ hội đầu tư nhằm tối đa hóa giá trị cho các cổ đông. Nếu
không có tiền mặt thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc phát triển sản phẩm mới, thực
hiện các vụ mua lại, chi trả cổ tức và trả nợ. Dòng tiền tự do được tính toán như sau:
Dòng tiền tự do = Dòng tiền hoạt động – Chi tiêu vốn

(FCF = OCF – Chi tiêu vốn)
 OCF = Thu nhập ròng + khấu hao – thay đổi trong vốn lưu động
 Chi tiêu vốn: là số tiền được dùng để mua tài sản cố định
Một số nhà đầu tư lại quá xem trọng con số về thu nhập mà lại dường như quên đi con số về
dòng tiền mặt thực sự mà doanh nghiệp có thể tạo ra. Thu nhập có thể bị "bóp méo" bởi các
chuẩn mực về thực hành kế toán nhưng dòng tiền thì khó bị bóp méo hơn. Chính vì thế nhiều
nhà đầu tư tin tưởng rằng dòng tiền tự do có thể cho thấy một viễn cảnh rõ ràng hơn về khả
năng tạo ra tiền mặt và dĩ nhiên là từ đó tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cũng cần phải nhớ rằng nếu doanh nghiệp có dòng tiền tự do âm không hòan tòan có nghĩa là
doanh nghiệp ấy không tốt. Lý do có thể vì doanh nghiệp đã chi tiêu cho đầu tư quá nhiều. Nếu
các khoản đầu tư là tiềm năng, thì bạn có thể thấy ngay sau những năm dòng tiền tự do bị âm
(-) là những năm có dòng tiền dương (+) vô cùng mạnh mẽ. Với dòng tiền tự do âm công ty có
thể phát hành các khoản nợ hoặc bán thêm vổ phiếu để giữ cho mọi thứ được ổn định, và điều
đó có thể là một rủi ro nếu thị trường trở nên bất ổn vào thời điểm quan trọng đối với công ty.
11
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Bất kỳ công ty nào có thể chuyển nhiều hơn 5% doanh số thành dòng tiền tự do chắc chắc công
ty đó đang tạo ra tiền mặt thặng dư.
4/ Kết hợp tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần và dòng tiền tự do:
Một cách tốt hơn để biết công ty đang tạo ra bao nhiêu lợi nhuận so với đồng vốn bỏ vào
là sử dụng ma trận lợi nhuận để quan sát ROE tương ứng với dòng tiền tự do.Chúng ta
cùng xem xét bảng 5.5 dưới đây.
 Các công ty như Microsoft, Pfizer, First Data đều có dòng tiền tự do rất cao, các cổ
đông đã sẵn sàng rót thêm tiền vào công ty và các nhà quản trị của họ cũng rất giỏi.Họ đã tạo ra
tỷ suất sinh lợi rất cao, điều đó đã làm hài lòng các cổ đông và niềm tin các cổ đông vào công
ty ngày càng mạnh mẽ hơn. Pfitzer đã tạo ra hơn 8 tỷ đô trong dòng tiền tự do vào năm 2002,
và tất cả đó đều chi trả cổ tức cho cổ đông. Các công ty trưởng thành họ cũng thường làm như
Pfitzer, bởi vì công việc kinh doanh không tăng trưởng nhanh, cơ hội tái đầu tư không cao, mà
đang bão hòa, hầu hết dòng tiền tự do mà họ kiếm được đều chi trả cho cổ đông dưới dạng cổ
tức hoặc mua lại cổ phần.Các công ty trưởng thành ít bị ảnh hưởng bởi yếu tố chu kì và mức độ

rủi ro kinh doanh thấp.
 Các công ty như Amazon.com, Jet Blue có dòng tiền tự do thấp hoặc có thể âm. Vì
chúng tôi nghĩ rằng các công ty đang tăng trưởng này đang đầu tư rất nhiều vào các dự án để
mở rông hơn nữa, nhưng hiệu quả đầu tư không cao.Hiện ROE của họ còn thấp tuy nhiên họ hi
vọng sẽ có được một khoản lời khổng lồ trong tương lai, và sẽ cải thiện được ROE.ví dụ như,
Amazon đang đầu tư vào các cao ốc thương hiệu và mở rộng trang web, còn Jetblue đầu tư vào
các máy bay mới.
 Các công ty như Lowe’s, Walgreen dòng tiền tự do cũng thấp, bởi vì họ dùng tất cả
số tiền của họ tạo ra để đầu tư mở rộng hơn nữa và họ đã thành công khi tạo ra tỷ suất sinh lợi
cao cho các cổ đông. Như Starbucks và Home Depot đã tạo ra ROE cao và dòng tiền tự do âm
trong suốt những năm 1990, vì chúng đã tận dụng các khoản tiền kiếm được để xây thêm nhiều
cửa hàng.
 Còn Yahoo, Electronic Arts thì có dòng tiền tự do cao tuy nhiên ROE lại thấp. Chúng
tôi nghĩ lý do này có thể là công ty đang có dòng tiền thặng dư nhiều, nhưng họ lại không có
nhiều cơ hội đầu tư hoặc đã đầu tư không tốt vào các dự án, dẫn đến ROE thấp.
12
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
Bảng 5.5 : Ma trận khả năng sinh lời : ROE cao và dòng tiền tư do vững mạnh là đáng để đầu
tư.

Thấp ROE Cao
5/ Tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư.( ROIC)
ROIC là một thước đo thích hợp để phân tích tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư là thước đo
được cải tiến so với ROA và ROE. ROIC đã loại nợ và vốn cổ phần ra, loại bỏ sự bóp méo của
đòn bẩy tài chính vì ROIC sử dụng lợi nhuận hoạt động sau thuế nhưng trước lãi vay.
ROIC =
NOPLAT
Vốn đầu tư
Vốn đầu tư = tổng tài sản- các khoản nợ ngắn hạn không có lãi- tiền mặt thặng dư.
Các khoản nợ ngắn hạn không có lãi ở đây thường là các khoản phải trả và tai sản lưu động

khác và tiền mặt thặng dư là tiền mặt không cần thiết cho nhu cầu kinh doanh hằng ngày
của công ty.
Và nếu thương hiệu chiếm tỷ tọng lơn trong tống tài sản, bạn có thể loại trừ nó ra.
Năm 2002, Walmart có trị giá 94,4 tỷ đô, sau khi trừ đi các khoản nợ và thuế thu nhập tích
lũy, còn lại 67,7 tỷ đô, lợi nhuận hoạt động 13,6 tỷ đô, NOPLAT = 13,6- 13,6*0,36 = 8,7 tỷ
đô, ROIC = 12,9%, đó là con số hấp dẫn cho một công ty lớn và bão hòa như Walmart.
Cao

FCF
Qualcomn
Yahoo
Novellus
Electronic Arts
MGM Mirage
Genentech
Những công ty co ít rủi
ro
Microsoft
Pfizer
Paychex
MeGraw- Hill
First Data
Home Depot
Những công ty có rủi ro
nhiều hơn
Thấp
Jet Blue Airways
Ciena
Foot Looker
Amazon.com

Nextel
Lowe’s
Cheesecake Factory
Southwest Airlines
Costco
Comcast
13
Đầu tư tài chính Phân tích công ty- những nguyên tắc cơ bản
III/ Sức khỏe tài chính:
Khi biết được công ty đã tăng trưởng nhanh như thế nào (và do đâu) và lợi nhuận của bó
là bao nhiêu, thì chúng ta sẽ biết được sức khỏe tài chính của nó.
Sức khỏe lợi nhuận ròng của một công ty nghĩa là khi một công ty gia tăng nợ, nó sẽ làm gia
tăng chi phí tài chính cố định của công ty như một phần của tổng chi phí. Trong những năm mà
công việc kinh doanh thuận lợi, một công ty có chi phí cố định cao vẫn có thể có nhiều lợi
nhuận vì một khi chi phí đó đã được bù đắp, thì với bất kỳ doanh số nào tăng thêm của công ty
cũng làm tăng lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, khi công việc kinh doanh gặp khó khăn, chi phí cố
định của nợ kéo lợi nhuận ròng này xuống.
Ta sẽ thấy rõ điều này khi xem xét các khoản nợ làm lợi nhuận biến động đối với trường hợp
Acme’s (xem bảng 5.6). khi có nhiều nợ hơn, lợi nhuận của Acme’s biến động càng nhiều:
chúng tăng lên trong thời kỳ thuận lợi và giảm đi trong thời kỳ khó khăn.
Bảng 5.6 Tác động của đòn bẩy tài chính.
Acme’s: Tài chính thận
trọng với ít nợ
2002 Các tình huống giả định trong năm 2003
Năm thuận lợi (doanh
số tăng 20%)
Năm khó khăn (doanh
số giảm 20%)
Doanh số 5000 6000 4000
Tổng lợi nhuận trước thuế

và lãi vay
1000 1200 800
Trừ: chi phí lãi vay 200 200 200
Lợi nhuận trước thuế 800 1000 600
Trừ : thuế (35%) 280 350 210
Thu nhập ròng 520 650 390
Lợi nhuận tăng 25% Lợi nhuận giảm 25%
Acme’s: Tài chính thận
trọng với ít nợ
2002 Các tình huống giả định trong năm 2003
Năm thuận lợi
(doanh số tăng 20%)
Năm khó khăn (doanh
số giảm 20%)
Doanh số 5000 6000 4000
Tổng lợi nhuận trước thuế
và lãi vay
1000 1200 800
Trừ: chi phí lãi vay 600 600 600
Lợi nhuận trước thuế 400 600 200
Trừ : thuế (35%) 140 210 70
Thu nhập ròng 260 390 130
Lợi nhuận tăng 50% Lợi nhuận giảm 50%
14

×