ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***
BÙI THỊ THU GIANG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG DƢỢC
PHÚ THỌ HIỆN NAY
L
L
U
U
Ậ
Ậ
N
N
V
V
Ă
Ă
N
N
T
T
H
H
Ạ
Ạ
C
C
S
S
Ĩ
Ĩ
T
T
R
R
I
I
Ế
Ế
T
T
H
H
Ọ
Ọ
C
C
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***
BÙI THỊ THU GIANG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG DƢỢC
PHÚ THỌ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
L
L
U
U
Ậ
Ậ
N
N
V
V
Ă
Ă
N
N
T
T
H
H
Ạ
Ạ
C
C
S
S
Ĩ
Ĩ
T
T
R
R
I
I
Ế
Ế
T
T
H
H
Ọ
Ọ
C
C
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Bình
Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình đã trực
tiếp hướng dẫn luận văn Thạc sỹ.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô khoa Triết học - Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội đã giảng dạy ,
cung cấp cho tôi những kiến thức về Triết học để tôi hoàn thành luận văn
Thạc sỹ này trong điều kiện tốt nhất.
Cuối cùng, tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, đồng
nghiệp và sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ đã tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình điều tra thực trạng và thu thập tài liệu để hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thu Giang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Các tài liệu tham khảo có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng .
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thu Giang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nội dung
CNH
Công nghiệp hoá
HĐH
Hiện đại hoá
GD
Giáo dục
ĐT
Đào tạo
NXB
Nhà xuất bản
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
BYT
Bộ Y tế
QĐ
Quyết định
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 6
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Cấu trúc của luận văn 7
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 8
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài nghiên cứu 8
1.1.1. Khái niệm đạo đức 8
1.1.2. Khái niệm nghề nghiệp 10
1.1.3. Đạo đức nghề nghiệp 13
1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp 14
1.2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức 14
1.2.2. Khái niệm giáo dục đạo đức nghề nghiệp 15
1.2.3. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên nghề Dược trong nhà trường 17
1.3. Những phẩm chất đạo đức cần hình thành ở sinh viên nghề Dƣợc 25
1.3.1. Đặc điểm tâm lí và nhân cách của sinh viên nghề Dược 25
1.3.2. Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người dược sỹ
mà sinh viên nghề Dược cần rèn luyện từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường 29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC 47
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
DƢỢC PHÚ THỌ HIỆN NAY 47
2.1. Thực trạng nhận thức việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên trƣờng Cao đẳng Dƣợc Phú Thọ hiện nay 47
2.1.1. Động cơ và thái độ của sinh viên đối với nghề Dược 47
2.1.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên về các tiêu chuẩn, phẩm chất
đạo đức của người dược sỹ 50
2.2. Thực trạng việc thực hiện các biện pháp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên trƣờng Cao đẳng Dƣợc Phú Thọ và hiệu quả của các
biện pháp đó 55
2.2.1. Thực trạng nhận thức của Ban lãnh đạo nhà trường và giáo viên về
biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng
Dược Phú Thọ 55
2.2.2. Thực trạng thực tập nghề nghiệp với việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên nghề Dược 58
2.2.3. Thực trạng việc thực hiện các biện pháp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ 60
2.2.4. Thực trạng về nội dung dạy và học có ảnh hưởng đến các biện pháp
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ 62
2.3. Những thành tựu và hạn chế trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên trƣờng Cao đẳng Dƣợc Phú Thọ và nguyên nhân của nó 68
2.3.1.Những thành tựu trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường Cao đẳng Dược Phú Thọ và nguyên nhân của những thành tựu đó 68
2.3.2. Những hạn chế trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ và nguyên nhân của những hạn chế
đó 70
2.4. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trƣờng Cao đẳng Dƣợc Phú Thọ
hiện nay 74
2.4.1. Những nguyên tắc có tính chất định hướng và đề xuất các biện pháp74
2.4.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ hiện nay 77
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Về vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa
(CNH) hiện đại hóa (HĐH) đất nước hiện nay, văn kiện Đại hội X của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Giáo dục đào tạo cùng với khoa
học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
CNH - HĐH đất nước” [15, tr.77]. Đây là quan điểm cơ bản của Đảng ta về
vai trò ngày càng cao của nguồn nhân lực và của giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở nước ta hiện nay. Đ©y
cũng chính là yêu cầu khách quan được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến và nhất là trong công tác giáo dục nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao cho thế hệ trẻ.
Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và có phẩm chất
đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp là chức năng và
nhiệm vụ trọng tâm của bậc giáo dục Đại học và Cao đẳng ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, trong thực tế của công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay, giáo dục đạo đức nghề nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Về vấn đề này, Đảng ta nhấn mạnh:
“Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhất là
đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển mạnh
sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy
người” [15, tr.167].
Bên cạnh trí tuệ và sức khỏe, yếu tố góp phần quan trọng tạo ra chất
lượng toàn diện của nguồn lực con người chính là đạo đức, nhân cách. Xét
ở phương diện cá thể, trong cấu trúc nhân cách thì đạo đức và năng lực
(đức và tài) là hai thành tố cốt yếu tạo nên nhân cách một con người. Trong
2
đó, đạo đức là cái gốc rất quan trọng, là cơ sở hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan của mỗi người. Đức là sự nỗ lực cống hiến to lớn cho xã
hội, là sự trung thành tận tụy với chế độ xã hội mà họ phục vụ, là trách
nhiệm công dân, lương tâm nghề nghiệp của mỗi người Để đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước còn đòi hỏi ở người lao động những phẩm chất
lao động và năng lực nghề nghiệp như: Kỷ luật tự giác, tinh thần hợp tác và
tác phong lao động công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu và thời gian Như
vậy, nhân cách đạo đức cùng những phẩm chất lao động và nghề nghiệp góp
phần tạo nên chất lượng toàn diện của nguồn nhân lực con người.
Việc xem xét cấu trúc nhân cách một cách toàn diện gồm trí lực, thể
lực và nhân cách đã đặt ra yêu cầu đối với giáo dục (GD) đào tạo (ĐT) là
phải phát triển cân đối giữa dạy chữ - dạy nghề - dạy đạo làm người. Trong
đó, mục đích của việc dạy người là nhằm “tạo ra những con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức” (9, tr.26). Có trí tuệ, đạo đức và năng lực thì mới có đủ
điều kiện để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở nước
ta.
Mỗi nghề nghiệp đều có những nét đặc thù riêng. Xuất phát từ đặc
thù riêng ấy, thực tiễn xã hội đặt ra những yêu cầu cụ thể về đạo đức của
từng ngành nghề. Vì thế từ lâu, đạo đức nghề nghiệp dưới những hình thức
và mức độ nhất định đã hình thành như một lĩnh vực đặc thù của đạo đức
xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả
mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình” (28, tr.245).
Đặc biệt, nghề Dược là một nghề liên quan trực tiếp tới tính mạng và
sức khỏe con người mà đối với mỗi người sức khỏe là vốn quý nhất. Cho
nên, việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên nghề Dược từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường là một vấn đề thực tiễn hết sức quan trọng.
3
Cố giáo sư Hồ Đắc Di, một trong những người thầy thuốc tiêu
biểu của ngành y tế Việt Nam đã từng nói: “Nghề thầy thuốc đòi hỏi
phải nắm được nhiều lĩnh vực, kiến thức khoa học (giải phẫu, sinh lý,
sinh hoá, vật lý, hoá học, toán học…) đồng thời nghề này cũng không
dung thứ bất cứ thứ gì trái đạo đức bởi vì nó liên quan đến cái tinh tế
nhất là sự sống của con người và “trong mọi nghề, có lẽ nghề thầy thuốc
và nghề thầy giáo là hai nghề cao thượng nhất, một mang lại sự sống,
một mang lại trí tuệ, và cả hai đều đòi hỏi lương tâm trong sạch…” [Dẫn
theo: 41; tr.12].
Trong những năm qua, trường Cao đẳng Dược Phú Thọ rất chú
trọng tới chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, trong quá trình đào tạo còn nặng
về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp mà chưa quan tâm thỏa đáng tới mảng
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Các hoạt động nhằm giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên rất ít được tổ chức (mới chỉ dừng lại ở
hoạt động của Đoàn Thanh niên). Vì thế, sau khi tốt nghiệp, nếu gặp những
tình huống khó khăn, họ sẵn sàng bỏ nghề không một chút băn khoăn, đi
làm nghề khác với thái độ dửng dưng, không nuối tiếc nghề nghiệp mà
mình đã chọn và được đào tạo. Và hơn thế nữa, một người dù có chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp giỏi nhưng không có đạo đức nghề nghiệp thì
không những không giúp ích cho xã hội mà còn gây nguy hại cho người
khác và cho xã hội.
Với tất cả những lý do nêu trên, tác giả đã chọn “Giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên trƣờng Cao đẳng Dƣợc Phú Thọ hiện nay"
để làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đạo đức nghề nghiệp là một vấn đề rất quan trọng, nó góp phần không
nhỏ vào việc thành công hay thất bại của nghề nghiệp. Vì vậy, việc giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên cũng là một vấn đề cần được đặt lên hàng
4
đầu tại các trường Đại học và Cao đẳng. Đã có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề này như:
- Ngô Hướng trong bài “Đạo đức nghề nghiệp sao không được dạy tại
các Nhà trường?” đăng trên báo Sài Gòn giải phóng, số ra ngày
27/10/2003 đã khẳng định cần phải đưa giáo dục đạo đức trở thành một
môn học được giảng dạy trong các nhà trường.
- Nguyễn Anh Tuấn trong “Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (
Luận án tiến sỹ Giáo dục học, Đại học sư phạm Hà Nội) đã phân tích thực
trạng đạo đức nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm Hà
Nội, Đại học Hùng Vương - Phú Thọ, Cao đẳng sư phạm Lào Cai trong
nền kinh tế thị trường và đưa ra những biện pháp nhằm giáo dục đạo đức
cho sinh viên sư phạm trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
- Trần Như Tiến, Giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật quân sự cho
học viên trường Cao đẳng kỹ thuật Vin Hem Pích - thực trạng và giải pháp
(Luận văn Thạc sỹ Khoa học giáo dục, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh) đã phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật
quân sự và đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ
thuật quân sự cho học viện trường Cao đẳng kỹ thuật Vin Hem Pích.
- Trong bài “Giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học nghề
một vấn đề cơ bản và cấp bách” (Hội thảo về những vấn đề giáo dục và
tâm lý của học sinh, sinh viên, NXB Nông nghiệp, Hà Nội) Mạc Văn
Trang đã khẳng định việc giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học
nghề là một vấn đề cơ bản và cấp bách. Tác giả cũng đã đưa ra một số giải
pháp nhằm giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học nghề.
- Phan Thị Mai với công trình “Tìm hiểu thực trạng định hướng nghề
nghiệp của sinh viên trường Đại học Cần Thơ” (Luận án Tiến sỹ, Đại học
sư phạm Hà Nội) đã phân tích thực trạng định hướng nghề nghiệp cho sinh
5
viên trường Đại học Cần Thơ và đưa ra những biện pháp nhằm định hướng
tốt về nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Cần Thơ trong thời gian
gần đây.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi sâu vào
nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành Dược nói
chung và sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ nói riêng.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đạo đức và hoạt động giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên của trường Cao đẳng Dược Phú Thọ, tác giả
luận văn đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức của nhà trường cho đối tượng này.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về đạo đức nghề nghiệp và
giáo dục đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp nghề Dược .
- Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao
đẳng Dược Phú Thọ và nguyên nhân của thực trạng ấy.
- Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ trong những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu là một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn:
Luận văn được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xã hội và con người, những quan điểm, chính sách của Đảng cộng sản Việt
Nam về giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật của
Triết học Mác - Lênin kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học
7
khác như: Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, diễn
dịch - quy nạp, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò của việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ.
- Phân tích một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ hiện
nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm hai chương, 7 tiết.
Chương 1. Lý luận chung về đạo đức nghề nghiệp và giáo dục đạo
đức nghề nghiệp, với 3 tiết.
Chương 2. Thực trạng và giải pháp của việc giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ hiện nay, với
4 tiết.
8
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là là một vấn đề dành được sự quan tâm của nhiều lĩnh vực
khoa học và của nhiều nhà khoa học. Mỗi lĩnh vực khoa học, nhà khoa học
lại đề cập đến đạo đức ở những khía cạnh với những phạm vi nội dung khác
nhau:
Trong các Giáo trình về đạo đức học, có đưa ra một số định nghĩa, quan
điểm về đạo đức như sau:
Một là: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy
tắc, những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã
hội” [10; tr.8].
Hai là: “Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã
hội và quan hệ với tự nhiên” [10; tr.9].
Ba là: “Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự
tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với bản thân mình” [10; tr.9].
Còn trong Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Nguyễn Anh Tuấn, Đạo
đức được định nghĩa: “Đạo đức bao gồm những chuẩn mực hành vi đạo
đức của con người theo hướng thiện, tránh hướng ác. Mỗi một xã hội, mỗi
một nhóm xã hội và một cá nhân có thể lý giải cái thiện và cái ác theo
những cách khác nhau tùy thuộc vào quan niệm sống và lợi ích của mình”
[40; tr.32].
9
Trong Từ điển Triết học thì “Đạo đức là một trong những hình thái
sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý (đạo lý), qui tắc,
chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong mối quan hệ với người
khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hay toàn bộ
xã hội). Căn cứ vào những qui tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá
của mỗi người bằng các quan niệm về thiện và ác, chính nghĩa và phi
nghĩa, nghĩa vụ, danh dự” [33, tr.145].
Trong Giáo trình Triết học Mác - Lênin thì “ý thức đạo đức là toàn
bộ những quan niệm về thiện và ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc,
công bằng và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa
cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội” (3, tr.444).
Có thể liệt kê rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức,
nhưng tựu chung lại, dù theo cách định nghĩa nào thì đạo đức cũng được
xem là một hiện tượng xã hội, thực hiện các chức năng cơ bản sau: Chức
năng định hướng giáo dục, chức năng điều chỉnh hành vi và chức năng kiểm
tra, đánh giá.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có quan hệ chặt chẽ với các
hình thái ý thức xã hội khác: Chính trị, pháp luật, khoa học, tôn giáo. Đạo
đức thề hiện ở các quan niệm về thiện và ác, hạnh phúc, nghĩa vụ, lương
tâm, danh dự, lẽ công bằng, Những phạm trù này xoay quanh hạt nhân là
những nguyên lý và các khái niệm, phạm trù triết học cơ bản và biểu thị cụ
thể thành một hệ thống chuẩn mực đạo đức. Hệ thống quan niệm về đạo
đức này cũng thay đổi tùy theo sự thay đổi của chế độ chính trị - xã hội và
sự biến đổi của điều kiện kinh tế. Tuy nhiên, giữa các hình thái kinh tế -
xã hội, chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì vẫn có ít nhiều quan niệm về
đạo đức giống nhau, hoặc là về ngôn từ hoặc là cả về nội dung chủ yếu. Về
cơ bản, “xã hội nào thì đạo đức ấy”. Trong đạo đức của các chế độ chính trị
- xã hội khác nhau cũng có một số vấn đề được gọi là “tính nhân loại phổ
10
biến của đạo đức”. Ví dụ như: Lòng nhân ái, lương tâm; lòng tự trọng,
khiêm tốn, lễ độ Hệ thống các quan niệm, chuẩn mực đạo đức được biểu
hiện, tồn tại dưới hình thức những hành vi và thực tiễn đạo đức sống động
của những cá nhân cụ thể vận hành ý thức đạo đức ấy và kết đọng biểu
hiện trong nền văn hóa - xã hội, đặc biệt trong lối sống, phong tục tập
quán, ca dao, tục ngữ, cách đối nhân xử thế, trong học thuyết (tư tưởng)
về đạo đức.
Đạo đức của mỗi con người được thể hiện thông qua hành vi đạo
đức. Hành vi đạo đức là hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ
có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hành vi đạo đức chịu sự quy định bởi các yếu
tố tâm lý: Chủ thể hành vi đạo đức (toàn thể nhân cách cụ thể và giáo dục
đạo đức thông qua tổ chức cho người được giáo dục tham gia vào các hành
vi đạo đức và giáo dục toàn bộ nhân cách cho con người); tính sẵn sàng
hành động có đạo đức; niềm tin đạo đức; xu hướng đạo đức; phẩm chất, ý
chí và và phương thức hành vi. Hành vi đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ
với nhu cầu đạo đức. Nhu cầu đạo đức là một bộ phận trong hệ thống nhu
cầu cá nhân. Trong mỗi một điều kiện nhất định, nhu cầu đạo đức sẽ nổi
bật lên và dần xác định được đối tượng để thỏa mãn nhu cầu đó. Khi đối
tượng được xác định tức là động cơ đạo đức được hình thành. Động cơ
đạo đức chính là yếu tố thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi đạo đức. Trong
quá trình đó, nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành.
1.1.2. Khái niệm nghề nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Nghề nghiệp là một công việc mà người
ta thực hiện trong suốt cuộc đời” [7; tr.456]. Ví dụ: Nghề dạy học, nghề Y,
nghề kinh doanh Nghề nghiệp không chỉ đảm bảo cuộc sống mà còn tôn
vinh con người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó.
11
Bất cứ một loại hình nghề nghiệp nào cũng có đối tượng quan hệ
trực tiếp của nó. Dựa trên điểm này, người ta đã chia nghề nghiệp thành bốn loại
sau:
- Nghề quan hệ với kỹ thuật (thợ lắp máy, sửa chữa máy móc, gia công);
- Nghề quan hệ với tín hiệu (thợ sắp chữ, sửa bản in, đánh máy, mật mã);
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên (chăn nuôi, thú y, địa
chất);
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người (cán bộ quản lý, tuyên huấn,
thầy thuốc, bán hàng, sư phạm, hướng dẫn viên du lịch)
Dựa trên trình độ chuyên môn đòi hỏi, có thể phân loại nghề nghiệp
như sau:
- Các nghề không chuyên môn hóa: Những nghề này chỉ cần sự thích
ứng trong khoảng thời gian ngắn với những yêu cầu của lao động thấp (chỉ
cần đạt được một số ít tri thức và kỹ xảo nghề nghiệp). Ví dụ: Nghề bốc
dỡ; vận chuyển nguyên liệu; vật liệu. Đây là những nghề sử dụng việc
mang, vác trực tiếp hoặc nhờ các phương tiện nửa cơ giới;
- Các nghề nửa chuyên môn hóa (là những nghề đòi hỏi một trình độ
chuyên môn hạn chế, các tri thức và kỹ xảo nghề nghiệp chỉ đủ để thực
hiện những thao tác đơn giản hay những thao tác được chuyên biệt hóa một
cách chặt chẽ);
- Các nghề chuyên môn hóa (là những nghề đòi hỏi một quá trình
đào tạo nghề nghiệp chính quy, cá nhân được nhận chứng chỉ công nhận
tay nghề do các cơ sở đào tạo cấp. Trên cơ sở đó, người lao động được
nhận vào làm việc thuộc lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Các chứng chỉ
nghề nghiệp có thể chứng nhận một trình độ chuyên môn ở mức cơ sở,
trung cấp và đại học).
Lựa chọn nghề nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng không
chỉ đối với cá nhân mà đối với cả xã hội. Nó không chỉ đơn thuần là sự lựa
12
chọn một công việc cụ thể nào đó để nuôi sống bản thân, đóng góp cho gia
đình và xã hội, mà đó là sự lưạ chọn một cách sống, lối sống cho tương lai.
Thực tế cho thấy, không phải tất cả thanh niên, sinh viên đều lựa chọn
đúng đắn nghề nghiệp.
Theo các chuyên gia về tư vấn nghề nghiệp, có hai nguyên nhân dẫn
đến sai lầm trong lựa chọn nghề nghiệp, đó là:
Thứ nhất, thái độ không đúng đối với các tình huống khác nhau của
việc chọn nghề nghiệp, cụ thể: Thái độ đối với việc chọn nghề nghiệp như
là đối với việc lựa chọn một nơi cư trú suốt đời; những thành kiến về nghề
nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của nghề nghiệp, sự say mê chỉ
xuất phát từ mặt bên ngoài hay một mặt cục bộ nào đó của nghề nghiệp.
Thứ hai, thiếu tri thức, kinh nghiệm, thông tin về các tình huống
nghề nghiệp, cụ thể đồng nhất môn học với nghề nghiệp, những biểu tượng
lỗi thời về tính chất lao động của lĩnh vực nghề nghiệp; không hiểu về năng
lực và động cơ của bản thân; không đánh giá đúng về những đặc điểm thể
chất, thiếu xót của bản thân khi lựa chọn nghề nghiệp. Việc lựa chọn nghề
nghiệp là rất quan trọng và phức tạp. Về phía cá nhân phải có sự lựa chọn
một cách tự giác, có suy nghĩ chín chắn. Về phía xã hội cần có sự hướng
dẫn, định hướng nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp các yếu tố: Nguyện vọng,
năng lực của cá nhân; những đòi hỏi của nghề nghiệp; những yêu cầu của
xã hội đối với các loại hình nghề nghiệp.
Đào tạo nghề nghiệp được hiểu là toàn bộ các quá trình học tập của
con người và những tích lũy của cá nhân về kiến thức, kỹ xảo và các đặc
điểm tâm lý. Ngoài ra, đào tạo nghề nghiệp còn được hiểu là toàn bộ các
hoạt động, được triển khai theo cá nhân hay tập thể, một cách ngẫu nhiên
hay có tổ chức. Đào tạo nghề nghiệp được tiến hành thông qua các hình
thức sau: Dạy nghề, hoàn thiện nghề nghiệp, chuyên môn hóa nghề nghiệp,
đào tạo bằng kinh nghiệm thông tin nghề nghiệp. Ba hình thức đầu được
13
xem là các giai đoạn của việc đào tạo nghề nghiệp chính quy. Hai hình
thức sau có thể gặp cả trong việc đào tạo nghề nghiệp chính quy và trong
đào tạo nghề nghiệp phi chính quy. Trong các hình thức trên, dạy nghề là
quan trọng nhất. Dạy nghề là hoạt động trang bị cho người học kiến thức
tối thiểu, các kỹ năng, kỹ xảo và những đặc điểm nhân cách để thực hiện
một loại hình nghề nghiệp nhất định.
1.1.3. Đạo đức nghề nghiệp
Mỗi một loại hình nghề nghiệp luôn đặt cho những người trong lĩnh
vực nghề nghiệp đó những yêu cầu, quy tắc, chuẩn mực mà họ phải tự giác
thực hiện. Vậy, đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực đạo đức
phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối
với người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp họ hoàn thành
nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất. Như vậy, có bao nhiêu loại nghề
nghiệp thì cũng có bấy nhiêu loại đạo đức nghề nghiệp. Ví dụ: Đạo đức
nghề nghiệp của người giáo viên, công an nhân dân, bác sỹ, kỹ sư, huấn luyện
viên, vận động viên thể thao. Đạo đức nghề nghiệp luôn thể hiện thông qua
hành vi nghề nghiệp và kết quả lao động. Đạo đức nghề nghiệp thực hiện các
chức năng sau đây:
- Định hướng giáo dục những người làm trong nghề nghiệp để họ
có được những phẩm chất phù hợp với xã hội, với nghề nghiệp;
- Điều chỉnh hành vi của người làm việc trong nghề nghiệp phải
tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực của lĩnh vực đó.
Đạo đức nghề nghiệp có quan hệ chặt chẽ với năng lực nghề nghiệp,
chúng kết hợp với nhau, biểu hiện thông qua nhau, tạo nên nhân cách cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp nào đó. Các phẩm chất nghề
nghiệp là cơ sở để hình thành các năng lực nghề nghiệp. Ví dụ: Tình yêu
đối với nghề nghiệp làm cho cá nhân hăng say, tích cực, sáng tạo trong
nghề nghiệp, là một trong những cơ sở để hình thành các năng lực nghề
14
nghiệp. Đồng thời năng lực nghề nghiệp sau khi được hình thành và rèn
luyện lại có ảnh hưởng đối với việc hình thành các chuẩn mực về đạo đức
trong lĩnh vực nghề nghiệp nào đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có
thể phân biệt một cách rõ ràng đâu là đạo đức nghề nghiệp, đâu là năng lực
nghề nghiệp, vì chúng thường đan xen, hòa quyện vào nhau tạo nên một
chỉnh thể thống nhất là nhân cách của cá nhân hoạt động trong lĩnh vực
nghề nghiệp đó.
1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là một bộ phận nền tảng, hợp thành nội dung của
giáo dục đạo đức toàn diện nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý
thức, tình cảm đạo đức tạo nên mặt thế giới quan, nhân sinh quan làm cơ sở
cho hành vi đạo đức của con người. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một
vấn đề lớn trong chiến lược con người của Đảng, được toàn xã hội quan
tâm và có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Giáo dục đạo đức cho thế hệ học sinh, sinh viên có những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Giáo dục tri thức đạo đức: Cung cấp cho học sinh, sinh viên những
tri thức cơ bản về các phẩm chất và chuẩn mực đạo đức để từ đó giúp học
sinh, sinh viên hình thành niềm tin đạo đức.
- Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức: Đây là nhiệm vụ hết sức khó
khăn và tinh tế vì nó phải khơi dậy ở học sinh, sinh viên những rung cảm,
cảm xúc đối với hiện thực xung quanh làm cho họ biết yêu, ghét rõ ràng và
có thái độ đúng đắn.
- Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức: Là tổ chức cho học sinh, sinh
viên lặp đi, lặp lại nhiều lần những hành động đạo đức trong học tập, sinh
15
hoạt và trong cuộc sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn và từ đó
có thói quen đạo đức đúng đắn.
Nội dung giáo dục đạo đức có quan hệ chặt chẽ với những yêu cầu
đạo đức - xã hội đề ra cho người công dân trong một xã hội nhất định, thể
hiện những mối quan hệ sau: Quan hệ với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,
quan hệ với Tổ quốc, lao động, người khác và với bản thân. Để thực hiện
nội dung trên, giáo dục đạo đức có thể tiến hành thông qua các biện pháp
sau: Thông qua việc dạy học các môn học, việc tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên hiện nay đang gặp
rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, dưới ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị
trường, giáo dục đạo đức đang trở nên phức tạp. Trong tình hình đó, công
tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên hiện nay có một số đặc điểm
đáng chú ý: Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội; đạo
đức của một bộ phận học sinh, sinh viên đang trên đà suy thoái. Cho nên,
nội dung đạo đức hiện nay cần có sự điều chỉnh; sự quản lý và giáo dục của
gia đình và xã hội một cách liên tục, thực chất và có hiệu quả ngày càng có ý
nghĩa quan trọng.
1.2.2. Khái niệm giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Để người học nghề có khả năng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp
nào đó thì trường đào tạo nghề phải tiến hành ba nhiệm vụ sau:
- Trang bị những kiến thức nghề nghiệp cần thiết;
- Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo mà nghề nghiệp đòi hỏi;
- Giáo dục để người học có đủ những tri thức cơ bản và những phẩm
chất đạo đức đặc thù của lĩnh vực nghề nghiệp.
Trường dạy nghề phải tiến hành 3 nhiệm vụ trên trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau: Nhiệm vụ này là tiền đề, là cơ sở cho việc thực hiện
16
nhiệm vụ kia. Nếu bỏ hoặc thực hiện không tốt bất cứ nhiệm vụ nào cũng
sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả của quá trình đào tạo nghề. Trong thực
tiễn đào tạo nghề hiện nay có một thực trạng là, các trường đào tạo nghề
quá chú trọng tới việc thực hiện hai nhiệm vụ đầu mà chưa hoặc ít quan
tâm tới nhiệm vụ thứ ba - nhiệm vụ giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Về mặt
lý luận và thực tiễn cho thấy, nếu việc thực hiện hai nhiệm vụ đầu đã rất
khó thì việc thực hiện nhiệm vụ thứ ba còn khó khăn và phức tạp hơn
nhiều.
Có thể xem giáo dục đạo đức nghề nghiệp là sự tác động qua lại giữa
các hoạt động giáo dục đạo đức nghề nghiệp với người học nghề nhằm
hình thành ở người học nghề những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết. Như
vậy, nếu xem dưới góc độ lý thuyết hệ thống thì giáo dục đạo đức nghề
nghiệp bao gồm nhiều thành tố: Mục đích và yêu cầu, nội dung và phương
pháp, mục đích, phương tiện, các lực lượng tham gia, người dạy nghề,
người học nghề và kết quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể: Mục
đích và yêu cầu giáo dục đạo đức nghề nghiệp sau khi được xây dựng, nó
quy định những nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cụ thể cần hình
thành ở người học nghề. Sau khi xác định nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp, nó sẽ quy định phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Trong
mối quan hệ giữa lực lượng tham gia giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
người học nghề thì lực lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp giữ vai trò chủ
đạo trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động của người học nghề. Dưới tác
động giáo dục đó, người học nghề phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
mình trong quá trình tự rèn luyện, tự bồi dưỡng các phẩm chất nghề
nghiệp. Sự vận động của tất cả các thành tố trên tạo nên kết quả giáo dục
đạo đức nghề nghiệp. Kết quả này phản ánh sự vận động đúng hay không
đúng quy luật khách quan của các thành tố và của cả hệ thống.
17
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống mở vì các
thành tố cấu thành của nó còn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội: Chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa.
1.2.3. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên nghề Dược trong nhà trường
Nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên nghề
Dược khi còn học tập tại trường được gắn với việc tu dưỡng phẩm chất đạo
đức của người dược sỹ tương lai, được cụ thể hoá theo yêu cầu nghề
nghiệp trong thời đại mới. Nội dung giáo dục đạo đức phải bao gồm cả ba
mặt: Phát triển ý thức đạo đức, hình thành nhu cầu, động cơ, tình cảm đạo
đức phù hợp với nền đạo đức mới, xây dựng hành vi và thói quen đạo đức.
- Phát triển ý thức đạo đức nhằm trang bị cho mọi người những hiểu
biết về các chuẩn mực, quy tắc đạo đức.
- Hình thành nhu cầu, động cơ, tình cảm đạo đức phù hợp để thúc
đẩy hành vi đạo đức.
- Xây dựng hành vi và thói quen đạo đức là xây dựng những hành vi
đạo đức ổn định, trở thành nhu cầu đạo đức được thể hiện trong mọi tình
huống, hình thành thói quen đạo đức bền vững trong mỗi cá nhân.
- Giáo dục lí luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn và lí tưởng của
chủ nghĩa cộng sản.
- Giáo dục chủ nghĩa tập thể, tinh thần đoàn kết cộng đồng.
- Giáo dục lòng nhiệt tình và hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài
sản XHCN.
- Giáo dục dân chủ và pháp chế XHCN.
- Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
giáo dục ý thức công dân và các nội dung đạo đức mới XHCN.
18
Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vì mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Giáo dục đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với giáo dục tư tưởng chính
trị nhằm xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng định hướng chính trị xã hội theo
quan điểm, đường lối của Đảng.
Các nội dung giáo dục đạo đức nêu trên phải được thể hiện trong các
mối quan hệ cụ thể của cá nhân với xã hội, với người khác, với bản thân,
cũng như đối với lao động, với nghề nghiệp.
Như trên đã chỉ rõ trong nhà trường, nội dung giáo dục đạo đức
được gắn với việc tu luyện phẩm chất đạo đức của người dược sỹ tương lai,
được cụ thể hoá theo yêu cầu nghề nghiệp. Tuy vậy về cơ bản, giáo dục
đạo đức nghề Dược vẫn không tách rời những mối quan hệ chủ yếu trong
xã hội, bao gồm các mối quan hệ sau:
* Mối quan hệ của cá nhân với xã hội và pháp luật
Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu CNXH, tha
thiết với lợi ích của nhà nước, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, tự hào về thành
tựu văn hoá xã hội của đất nước, quí trọng quá khứ vẻ vang và những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tinh thần ấy phải được gắn vào điều kiện,
tình hình xã hội cụ thể của địa phương mình đang sống để có những hành
động thiết thực mang lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội như: Gương mẫu
thực hiện và tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, các biện pháp chăm sóc, bảo
vệ sức khỏe và cứu chữa người bị nạn,…
Giáo dục cho học sinh, sinh viên biết tuân thủ pháp luật và những
quy định của nghề Dược do đặc thù nghề nghiệp, việc làm của người dược
sỹ có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe con
người. Để tránh hậu quả nặng nề có thể xảy ra đòi hỏi người học phải nhận