Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.81 KB, 120 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==============




LÊ HUY HOÀN



KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN
Microsoft Office Word 2003.lnk
VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học





Hà Nội - 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==============



LÊ HUY HOÀN


KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
MÃ SỐ: 60.22.03.01



Ngƣời hƣỡng dẫn khoa học: PGS.TS Dƣơng Văn Thịnh





Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn Thạc sỹ với đề tài “Kinh tế tƣ nhân
trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam hiện nay”
được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Dương Văn Thịnh là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Học viên


Lê Huy Hoàn



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến thức trong những năm học qua, giúp
tôi nắm vững những vấn đề lý luận và phương pháp luận để hoàn thành luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Dương Văn Thịnh đã
nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian hoàn thành đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014


Học viên


Lê Huy Hoàn


1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 10
6. Ý nghĩa của luận văn. 10
7. Kết cấu của luận văn 11
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1.1. Kinh tế tƣ nhân và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN ở Việt Nam hiện nay 11
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN và kinh tế tư nhân 12
1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam 24
1.2. Phát triển kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN ở Việt Nam 29
1.2.1. Khái niệm và nội dung phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 30
1.2.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế tư nhân
ở Việt Nam .41

Kết luận chương 1: 54
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP ĐIỀU TIẾT SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 55
2.1. Thực trạng kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN ở Việt Nam hiện nay 55

2
2.1.1. Những thành tựu và đóng góp tích cực của kinh tế tư nhân 55
2.1.2. Một số khó khăn, hạn chế của kinh tế tư nhân và nguyên nhân 70
2.2. Xu hƣớng phát triển của kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam hiện nay 85
2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng vận động, phát triển
của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay 86
2.2.2. Một số xu hướng vận động, phát triển chủ yếu của kinh tế tư
nhân ở Việt Nam hiện nay 89
2.3. Một số giải pháp điều tiết sự phát triển kinh tế tƣ nhân trong
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam hiện nay 95
2.3.1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước 96
2.3.2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp tư nhân 104
Kết luận chương 2: 107
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111

3
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNCS – Chủ nghĩa cộng sản
CNH – Công nghiệp hóa
CNTB – Chủ nghĩa tư bản

CNXD – Công nghiệp - xây dựng
CNXH – Chủ nghĩa xã hội
CSCN – Cộng sản chủ nghĩa
DNNN – Doanh nghiệp nhà nước
DNNVV – Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNTN – Doanh nghiệp tư nhân
HĐH – Hiện đại hóa
LLSX – Lực lượng sản xuất
NLTS – Nông - lâm - thủy sản
NSNN – Ngân sách nhà nước
QHSX – Quan hệ sản xuất
TBCN – Tư bản chủ nghĩa
TLSX – Tư liệu sản xuất
TNHH – Trách nhiệm hữu hạn
XHCN – Xã hội chủ nghĩa

4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong chế độ kinh tế ở
thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại đan xen những thành phần, những bộ
phận, những “mảng” của cả CNTB lẫn CNXH. Ở những nước nông nghiệp
lạc hậu, thì trong kết cấu kinh tế còn có cả những bộ phận tiền tư bản (như
kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa nhỏ). Vận dụng sáng tạo quan điểm ấy
vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã xác định: con đường đi lên
CNXH của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế có tính chất quá độ.
Như vậy, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá

độ lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan. Điều đó do nhiều
nguyên nhân khác nhau chi phối, song nguyên nhân cơ bản là do tính chất
và trình độ của LLSX quyết định. Vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu,
Việt Nam quá độ lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ
biến. Vì vậy, cho đến nay, LLSX nước ta vẫn còn ở trong tình trạng kém
phát triển lại tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau. Do đó trong nền kinh tế
thời kỳ quá độ tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau về TLSX, dẫn đến
sự cùng tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế tương ứng. Bên
cạnh các thành phần kinh tế XHCN (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể) đang
được định hình, còn có sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế
khác như: Kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân),
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có quan hệ
mật thiết, tác động lẫn nhau cùng vận động, phát triển. Điều đó cho thấy
trình độ phát triển của LLSX lúc này còn thấp, chưa cho phép xây dựng
được ngay một chế độ công hữu hoàn toàn về TLSX. Chúng ta không thể
tự ý, vội vàng xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư nhân khi chúng còn

5
phù hợp và có vai trò thúc đẩy LLSX phát triển. Chỉ khi nào LLSX phát
triển đến một trình độ nhất định, mà quan hệ sở hữu tư nhân về TLSX
không phù hợp với trình độ của LLSX đó, thì nó sẽ phá vỡ hình thức sở
hữu trói buộc để chuyển sang hình thức sở hữu mới cao hơn, phù hợp với
trình độ mới của LLSX. Để làm được điều đó, trước mắt chúng ta cần phải
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần (trong đó có kinh tế tư nhân) nhằm
giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực,
thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển toàn diện, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế tư nhân là một vấn đề khá nhạy
cảm. Đã từng có một thời kỳ do chủ quan, nóng vội, duy ý chí nên ở nước
ta tồn tại phổ biến quan điểm đối lập các thành phần kinh tế tư nhân với các
thành phần kinh tế XHCN, coi kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế phi

XHCN cần phải cải tạo và xóa bỏ. Việc làm trái với quy luật QHSX phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX đã khiến chúng ta
phải trả giá. Đó là thời điểm những năm sau khi giành được độc lập đến
1986, với việc vội vàng xóa bỏ sở hữu tư nhân, phát triển kinh tế kế hoạch
hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào trì trệ, khủng hoảng
sâu sắc.
Kịp thời nhận ra và sửa chữa sai lầm, với tư duy đổi mới, từ sau Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần (tức là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN) với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm phát
triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân là một
vấn đề có tính chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với tính chất và trình độ phát triển của LLSX ở nước ta hiện

6
nay, sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một nhu cầu khách quan và tất yếu.
Thứ hai, kinh tế tư nhân đang tiếp tục chứng tỏ vai trò là động lực quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đắc lực thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp một phần không
nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cấp
bách của đất nước như: Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống
nhân dân, nâng cao nội lực của đất nước, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhận thức được vai trò to lớn của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta, Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX khẳng định:

Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN và thể hiện
tinh thần dân chủ về kinh tế, theo đó tư nhân được phép kinh doanh, không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm. Phát triển hơn nữa quan điểm đó, Đại hội X (2006) của
Đảng còn cho phép và khuyến khích đảng viên làm kinh tế tư nhân, đi tiên
phong trong sự nghiệp làm cho dân giàu, nước mạnh. Và gần đây, Đại hội
Đảng lần thứ XI (2011) chủ trương: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền
kinh tế.” [18, tr. 209].
Hơn nữa, kinh tế thị trường được xác định như một giai đoạn phát
triển cao của kinh tế hàng hóa. Ngày nay, nền kinh tế theo mô hình kinh tế
thị trường đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận. Thực tế cho
thấy chưa có nước nào thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường lại
thiếu sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Mặt khác, với trình độ phát triển của
LLSX mà nhân loại đạt được như hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân
của bản thân con người vẫn chưa thể mất đi, do đó, nó đòi hỏi phải hình
thành một cơ chế vừa có thể kích thích con người, vừa có thể thực hiện

7
mục tiêu xã hội. Đó chính là cơ chế thị trường với sự tồn tại khách quan
các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó, sở hữu tư nhân và tương ứng với
nó là thành phần kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng của sự
phát triển. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của
nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy.
Ở Việt Nam, vai trò và vị trí của kinh tế tư nhân đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại hình
kinh tế khác nhau, trong đó kinh tế tư bản của tư nhân xếp ở vị trí thứ tư
trên cả kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản của tư nhân tuy có bóc lột

công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế”
[Trích theo 32, tr. 95 - 98].
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
xác định: Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế cần
phải được khuyến khích, đầu tư phát triển.
Như vậy, cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đều chứng tỏ sự tồn
tại khách quan và vai trò to lớn của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Và trên thực tế trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp kinh tế tư nhân phát
triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hiện nay do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan khác nhau tác động đã khiến cho kinh tế tư nhân Việt Nam đang
đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức. Trong khoảng ba năm trở lại
đây đã có hàng ngàn DNTN bị phá sản, hàng ngàn DNTN khác đang trong
tình trạng sản xuất đình trệ, kinh doanh thua lỗ và đứng trước nguy cơ phá
sản hoặc buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất. Đó là chưa kể đến khả năng
sự phát triển của kinh tế tư nhân trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay
cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm chệch hướng XHCN.
Xuất phát từ các lý do trên đây cho thấy việc cần thiết phải nghiên
cứu, lý giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về thành phần kinh tế tư nhân,

8
xem xét lý do tồn tại, thực trạng phát triển bao gồm cả những thành tựu lẫn
những khó khăn, hạn chế, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân cũng như xu
hướng vận động của nó. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể tìm ra các giải pháp
hữu ích để vừa giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, thực sự đóng vai
trò là động lực của nền kinh tế, vừa đảm bảo tốt định hướng XHCN. Đây là
một vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Với lý do
đó, chúng tôi chọn đề tài: “Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân là một vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều bài báo, sách chuyên
khảo, tham khảo, các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về vấn đề này
theo các hướng tiếp cận khác nhau. Cụ thể là:
a) Đánh giá về vai trò và sự phát triển của kinh tế tư nhân có các bài
viết và sách tham khảo:
Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ
đổi mới - thực trạng và những vấn đề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác
giả đã trình bày thực trạng phát triển, những thành tựu mà kinh tế tư nhân
đạt được sau 20 năm tiến hành đổi mới đất nước, cũng như những hạn chế,
bất cập cần phải khắc phục.
Trịnh Thị Mai Hoa (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong quá trình
hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác giả cuốn sách đã trình bày một cách
khá cụ thể, chi tiết sự vận động của kinh tế tư nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cả những thời cơ và thách thức lớn.
Vũ Đình Ánh (2004), Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5. Qua
việc luận giải về mặt lý luận cũng như thực tiễn về sự tồn tại và những
đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân, tác giả đã làm nổi bật vai trò, tác dụng
của nó, đồng thời nêu các giải pháp phát triển thành phần kinh tế này.

9
Hồ Văn Vĩnh (2007), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển
kinh tế tư nhân ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5. Tác giả bài viết
đã phân tích quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường nói
chung, về kinh tế tư nhân nói riêng. Bài viết cũng đã đề cập đến thực trạng
phát triển, những đóng góp tích cực cũng như những hạn chế của kinh tế tư
nhân; vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân; vấn đề công bằng xã hội; quan
hệ giữa nhà nước và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN.
b) Về xu hướng vận động của kinh tế tư nhân cũng được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm:
Nguyễn Đình Kháng (2002), Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển
của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Tạp chí
Lý luận chính trị, số 4. Từ việc nghiên cứu vai trò, tác dụng, thành tựu, hạn
chế của kinh tế tư nhân, tác giả tập trung vào việc tìm hiểu các xu hướng
vận động, phát triển cơ bản của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Lương Đình Hải (2005), Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 3. Tác giả khẳng định: Xu hướng
phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta là khá đa dạng, phong phú, song xu
hướng chung, cơ bản nhất của nó là sẽ vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước và theo định hướng XHCN.
Đặng Minh Tiến (2007), Phát triển kinh tế tư nhân - xu thế tất yếu
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 3.
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả đã khẳng định sự tồn tại
khách quan của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam, luận giải những đóng góp tích cực, hạn chế, xu thế tất yếu và biện
pháp phát huy vai trò của kinh tế tư nhân.
c) Về giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, một số tác giả đưa ra ý
kiến:

10
Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt
Nam - thực trạng và giải pháp, Nxb Lao động, Hà Nội. Tác giả đã trình bày
khá hệ thống, chi tiết sự hình thành, đổi mới và phát triển của kinh tế tư
nhân Việt Nam, đặc biệt từ sau Đại hội VI (1986) đến nay, đồng thời đề
xuất một số giải pháp khắc phục những khó khăn, hạn chế của nó. Tác giả
cho rằng kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển nền kinh

tế quốc dân.
Võ Văn Đức (2004), Để đưa kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng
và vững chắc, Tạp chí Tài chính, số 10. Trên cơ sở đánh giá vai trò to lớn
của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tác giả đã đưa ra một
số giải pháp tích cực nhằm phát triển thành phần kinh tế này theo định
hướng XHCN, trong đó nhấn mạnh nhóm giải pháp từ phía nhà nước và
các cơ quan chức năng.
Các tác giả phần nào khái quát được thực trạng phát triển, xu hướng
biến đổi, vai trò quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, phần lớn các công trình
chưa có cái nhìn bao quát, tổng thể về sự phát triển chung của thành phần
kinh tế tư nhân, nhiều tác giả nhìn nhận thành phần kinh tế này dưới góc độ
kinh tế học. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn về thành phần kinh tế tư nhân
dưới góc độ triết học là một việc làm cần thiết và mang tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng sự vận động,
phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần
thúc đẩy sự phát triển tốt hơn thành phần kinh tế này theo định hướng
XHCN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của kinh tế

11
tư nhân; những nhân tố ảnh hưởng và nội dung phát triển kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tìm hiểu thực trạng phát triển, vai trò, đóng góp tích cực, cũng như
một số khó khăn, hạn chế và xu hướng biến đổi của kinh tế tư nhân.
Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư
nhân theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu dưới góc độ triết học vị trí, vai trò, sự
vận động, phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta, cụ thể là từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung và
về thành phần kinh tế tư nhân nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh…
6. Ý nghĩa của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm phong phú hình thức thể hiện nội dung
lý luận quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Về thực tiễn, từ việc luận giải làm rõ thực trạng, xu hướng vận động,
phát triển của kinh tế tư nhân, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm thúc
đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế này theo định hướng XHCN. Luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và những ai quan tâm
nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

12
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Kinh tế tƣ nhân và vai trò của nó trong nền kinh tế thị

trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN và kinh tế
tư nhân
* Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Kinh tế thị trường: là giai đoạn cao của
kinh tế hàng hóa được quy định bởi thị trường, là sự hoạt động và mở rộng
khách quan của quan hệ tiền - hàng và những quy luật giá trị, quy luật cung
- cầu, quy luật cạnh tranh trong đó quy luật giá trị là đặc trưng nhất” [70,
tr. 949]. Về thực chất kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động và phát
triển tuân theo quy luật thị trường. Mọi chi phí đầu vào (vốn, TLSX, sức
lao động) kết tinh trong sản phẩm hàng hóa và quy định giá trị của nó. Việc
sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? đều do thị trường
quyết định.
Có thể nói rằng, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế, tồn tại
khách quan do trình độ của LLSX quyết định, trong đó toàn bộ quá trình từ
tổ chức quản lý sản xuất đến phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được
thực hiện thông qua thị trường. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi quốc gia
muốn phát triển được đều phải trải qua trình độ tổ chức kinh tế này.
Ở Việt Nam, trước khi xây dựng nền kinh tế thị trường, chúng ta đã
áp dụng máy móc cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong tổ chức và quản
lý nền kinh tế, không tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, phủ nhận sự
tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đối lập CNXH với kinh
tế thị trường, phủ nhận vai trò của các thành phần kinh tế được coi là phi
XHCN để độc tôn kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Điều đó đã làm triệt
tiêu động lực của sự phát triển, không phát huy hết nội lực của nền kinh tế,
khiến đất nước lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng toàn diện.

13
Thực tế là, chúng ta đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng:
QHSX phải đi trước mở đường cho LLSX phát triển. Điều đó, dẫn tới một

kết quả tất yếu là các QHSX, các thành phần kinh tế tư nhân bị đối xử như
là những vật cản cần phải cải tạo và xóa bỏ để đảm bảo cho sự thành công
của CNXH. Điều này trái ngược với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
khi cho rằng: việc xác lập chế độ công hữu về TLSX không thể tùy tiện,
bởi vì “bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến
nào về QHSX cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX
mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa” [33, tr. 467]. Bởi
vậy, không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức, cũng như không thể làm
cho LLSX hiện có tăng lên ngay lập tức để xây dựng ngay một nền kinh tế
công hữu. “Cho nên…chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần,
và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng TLSX cần thiết cho việc cải
tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”[33, tr. 469]. Quan điểm
trên cho thấy, vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX, trước hết là
quan hệ sở hữu về TLSX với tư cách là nhân tố quyết định mục đích phát
triển của nền sản xuất và bản chất của chế độ kinh tế - xã hội.
Phát triển làm sáng tỏ hơn nữa quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin cho
rằng: Đối với một nước có nền kinh tế sản xuất nhỏ cũng hoàn toàn có khả
năng tiến lên CNXH, bởi đó là con đường tất yếu của sự phát triển xã hội
loài người. Theo Lênin, CNXH là một bước tiến liền ngay sau chế độ độc
quyền TBCN của nhà nước. Bởi vì CNTB độc quyền nhà nước là “sự
chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH, là
nấc thang lịch sử, mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là
CNXH thì không có một nấc thang ở giữa nào cả” [29, tr. 256]. “Nấc
thang” mà Lênin nói tới ở đây chính là thời kỳ quá độ, mà ở đó còn tồn tại
đan xen giữa những yếu tố cũ và mới, là thời kỳ đấu tranh “ai thắng ai”
giữa CNTB và CNXH trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng.

14
Như vậy, có thể nói thời kỳ quá độ lên CNXH là cả một quá trình lâu

dài, ở đó phương thức sản xuất cũ chưa hẳn mất đi và phương thức sản xuất
mới đã phát sinh nhưng còn rất non yếu. Do vậy, ở thời kỳ này tồn tại tất
yếu nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh các thành phần kinh tế XHCN còn
có các thành phần kinh tế đối lập. Lênin còn cho rằng: “bước quá độ từ CNTB
lên CNXH có thể có những hình thức khác nhau, tùy thuộc ở chỗ quan hệ đại
tư bản hay nền kinh tế nhỏ chiếm ưu thế trong nước”[29, tr. 285].
Vì vậy, Lênin cho rằng: “Ở một nước mà trong đó những người sản
xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số nhân khẩu, mà muốn thực hiện cách
mạng XHCN thì cần phải trải qua một loạt các biện pháp quá độ đặc biệt,
hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển”[29, tr. 273-274].
Đối với những nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu muốn đi lên
CNXH tất yếu phải khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị
trường. Vì vậy, trong nền kinh tế có sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế là điều không thể tránh khỏi.
Theo Lênin, đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN không có nghĩa là
phải bỏ qua tất cả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới xã hội tư
bản, mà “Chúng ta phải lợi dụng CNTB, nhất là bằng cách hướng nó vào
con đường CNTB nhà nước, làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất
và CNXH, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để
tăng LLSX lên” [28, tr. 276]. Với ý nghĩa ấy, CNTB tư nhân đóng vai trò
trợ thủ đắc lực cho CNXH là một sự thật kinh tế không thể chối bỏ được.
Những luận điểm trên đây của C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin có ý
nghĩa to lớn đối với nước ta - một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ của LLSX còn thấp. Việc đa dạng hóa
các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế là điều khách quan và cần
thiết, thích ứng với quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Trong điều kiện đó, việc Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế thị
trường là tất yếu và thích hợp nhất.

15

Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã
hội vào tình hình thực tiễn nước ta, Hồ Chí Minh coi việc phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ nhằm xây dựng nền tảng vật
chất kỹ thuật của CNXH, xây dựng CNXH có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn vậy, chúng ta phải tôn
trọng và phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế. Với quan điểm
ấy, năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại hình kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung nhân dân)
B - Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH)
C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thợ thủ công nghệ (có thể tiến
dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH)
C - Tư bản của tư nhân
D - Tư bản của Nhà nước (Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh)” [36, tr. 247-248].
Trong năm loại hình kinh tế trên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò
của kinh tế nhà nước: “loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả.
Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH” [36, tr. 248]. Đối với
các thành phần kinh tế khác cũng cần được duy trì ở mức độ cần thiết trong
thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, để đảm bảo định hướng XHCN thì kinh tế nhà
nước phải giữ vai trò lãnh đạo, dẫn đường cho các thành phần kinh tế khác.
Có như vậy thì các nhà tư sản: “Dù cho họ buôn bán to mấy cũng không
thể chống lại công ty mậu dịch, không thể cạnh tranh nổi với nền kinh tế
quốc doanh” [37, tr. 227]. Trên cơ sở đó, chúng ta cần tiến hành từng bước
việc cải tạo các thành phần kinh tế TBCN thành CNTB nhà nước bằng cách
cho các nhà tư sản hùn vốn với chính phủ, làm cho công tư cùng có lợi.
Theo phương hướng đó thì: “Các nhà tư sản sẽ thấy công tư hợp doanh có lợi,
không có hại, dần dần họ thấy nhất định phải tiến lên CNXH” [37, tr. 227].
Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tính chất đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH có


16
sự tồn tại tất yếu nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường với nhiều
hình thức sở hữu khác nhau, chúng vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
để tồn tại và xác lập địa vị kinh tế - xã hội của mình.
Những luận điểm nêu trên của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã thực sự trở thành nền tảng, cơ sở lý luận để Đảng và Nhà
nước ta nhận thức rõ hơn về mô hình kinh tế tổng quát trong thời ký quá độ
lên CNXH. Theo tinh thần ấy, việc thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một tất yếu. Đây là một chủ trương đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như xu thế khách quan của thời đại.
Bên cạnh những cơ sở lý luận đã nêu ở trên, thì tính tất yếu của việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam còn xuất
phát từ các yêu cầu thực tiễn khách quan sau đây:
Kinh tế thị trường là một trình độ tổ chức kinh tế tồn tại khách quan,
là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, nó được sử dụng ở
chế độ xã hội nào thì mang bản chất của xã hội đó. Thực tế cho thấy, hầu
hết các nước giàu có, đi đầu trong mọi lĩnh vực đều là những nước có nền
kinh tế thị trường phát triển. Việc tôn trọng sự tồn tại và đẩy mạnh kinh tế
thị trường giúp các quốc gia phát triển nhanh LLSX, đạt tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được
cải thiện.
Ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã áp dụng mô hình kinh tế bao
cấp, dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong tổ chức, quản lý và vận hành
nền kinh tế. Đó là nguyên nhân sâu xa nhất gây ra khủng hoảng kinh tế - xã
hội một cách toàn diện. Để vượt qua khó khăn, không còn cách nào khác là
phải tiến hành đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, chuyển sang
xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (tức kinh tế thị trường). Thực
tế đã chứng minh, từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, các nguồn lực của
xã hội được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, người lao động tích cực,

năng động, sáng tạo hơn trong sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế nước ta đã

17
khởi sắc và đạt được những thành tựu rất quan trọng trên mọi lĩnh vực, tạo
tiền đề đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất
của CNXH.
Mặt khác, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, mặc dù kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng, nhưng chúng còn non yếu chưa hoàn
thiện. Trong khi đó, kinh tế tư nhân vẫn có vai trò to lớn và có khả năng
phát triển, sự tồn tại của chúng là cần thiết để sản xuất và đời sống không
bị gián đoạn. Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân phát triển mạnh
mẽ và có đóng góp to lớn cho nền kinh tế (chiếm 42% GDP năm 2011),
giúp khai thác tốt hơn các tiềm năng về vốn (39% tổng số vốn), TLSX, sức
lao động (tạo ra 90% việc làm), kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất,
kinh doanh.
Hơn nữa, nước ta quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh CNXH thế giới
lâm vào thoái trào, chúng ta phải tự lực cánh sinh trong điều kiện kinh tế
đất nước thiếu vốn, yếu về khoa học, công nghệ, trình độ lao động thấp,
trong khi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều thời cơ cũng
như thách thức lớn. Do đó, chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường
không chỉ xuất phát từ yêu cầu của LLSX trong nước mà còn do yêu cầu
khách quan của nền kinh tế khu vực và thế giới quy định. Vì vậy, chúng ta
cần phải phát triển kinh tế thị trường để mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn đầu tư của nước ngoài
để xây dựng đất nước. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự tồn tại của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một yêu cầu khách
quan của lịch sử, xuất phát từ quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX. Kinh tế thị trường định hướng XHCN được coi là

phương tiện để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Đó là nền kinh tế lấy việc phục vụ lợi ích của nhân dân lao

18
động làm mục tiêu của mình. Phát triển kinh tế thị trường dựa trên chế độ
công hữu về TLSX với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, phát triển
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hướng đến mục
tiêu cao cả nhất là giải phóng và phát triển toàn diện con người.
Tuy nhiên, việc hình thành quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường
định hướng XHCN là cả một quá trình tìm tòi, đúc kết kinh nghiệm cả về
mặt lý luận cũng như thực tiễn trong suốt quá trình xây dựng CNXH.
Với quyết tâm đổi mới đất nước, Đại hội VI (12/1986) đã thừa nhận
sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản
lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh. Hội
nghị Trung ương 6 Khóa VI (3/1989) đưa ra quan điểm phát triển kinh tế
hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên CNXH, coi đó là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH. Đại hội VI đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong nhận
thức của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam.
Đến Đại hội VII (6/1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới đất nước, tại Đại hội VIII (1996)
đưa ra kết luận quan trọng: sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà
là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loai, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và ngay cả khi CNXH đã được xây
dựng. Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi

nguồn lực bên trong và bên ngoài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đến Đại hội IX (4/2001), Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm
“kinh tế thị trường định hướng XHCN”, đồng thời khẳng định: Phát triển

19
kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, đặc biệt thành tựu 5 năm 2001 -
2005, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường ở nước ta tiếp tục được
nâng lên tầm cao mới. Trên cơ sở đó, Đại hội X (2006) khẳng định: Thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bước đầu đã được xây dựng, với
hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ. Tại Đại hội này,
Đảng tiếp tục làm rõ hơn chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đại hội XI khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH” [18, tr. 204-205].
Khái quát lại có thể thấy, kinh tế thị trường định hướng XHCN mà
chúng ta đang xây dựng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Về mục đích phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN: Là
nhằm giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển LLSX xã hội, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH; “Cơ chế thị trường phải được
vận dụng đầy đủ và linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm

nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”[18, tr. 205].
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Thực hiện nhất quán,
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều hình thức sở

20
hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu (nhà nước,
tập thể và tư nhân) hình thành nên các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng tồn tại lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh.
- Về quản lý: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. “Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà
nước pháp quyền XHCN bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế” [18, tr. 35].
- Về chế độ phân phối: “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội” [18, tr. 35].
- Về chính sách xã hội: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo…giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu trung tâm là phát triển toàn diện con người.
Như vậy, có thể nói, mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
là sự kết hợp giữa cái chung (kinh tế thị trường) và cái đặc thù (định hướng
XHCN ở Việt Nam). Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở

Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những nguyên tắc, quy
luật phổ biến của kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh ), vừa dựa trên sự dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên tắc
và bản chất của CNXH thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ

21
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhằm mục tiêu đi lên CNXH. Việc đưa ra mô hình
kinh tế tổng quát - kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta là một bước đột phá về lý luận có tính sáng tạo,
cách mạng và khoa học của Đảng và Nhà nước ta.
* Khái niệm kinh tế tư nhân
Cùng với việc thừa nhận sự tồn tại tất yếu, khách quan của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, thì vai trò của kinh tế tư nhân
cũng dần dần được khẳng định, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ngược lại, sự hình thành và
phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN liên quan chặt chẽ với
sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đó là mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy
lẫn nhau vận động, phát triển.
Kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước và kể cả ở nước ta cho thấy: Sự
phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển
của kinh tế tư nhân, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển sang nền
kinh tế thi trường. Ở Việt Nam, việc đưa ra một khái niệm thống nhất về
kinh tế tư nhân đang trở thành một vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Sự đánh
giá đúng đắn của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân
không chỉ giúp ta hiểu rõ về thành phần kinh tế này, mà còn giúp xác định
được xu hướng vận động, phát triển của nó, để từ đó có thể đưa ra những
chủ trương, chính sách hợp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư
nhân phát triển, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó, góp phần tham

gia có hiệu quả vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay đang có mặt ở hầu hết các vùng,
miền trong cả nước, ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực. Đây là thành phần
kinh tế đã và đang có nhiều đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện tại trong các văn bản quy phạm pháp
luật chưa đưa ra một định nghĩa chính thức nào về khái niệm kinh tế tư

×