Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quan niệm biện chứng trong duy thức học phật giáo (qua bát thức tâm vương và 51 hành tâm sở)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.52 KB, 110 trang )


i

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN







PHM TH QUC HUY
(Thớch Qung Trớ)






Quan niệm biện chứng
trong duy thức học phật giáo
(qua bát thức tâm v-ơng và 51 hành tâm sở)







LUN VN THC S TRIT HC











H NI 2014

ii


I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN






PHM TH QUC HUY
(Thớch Qung Trớ)





QUAN NIM BIN CHNG

TRONG DUY THC HC PHT GIO
(QUA BT THC TM VNG V 51 HNH TM S)


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
Mã số : 60.22.03.09





LUN VN THC S TRIT HC



Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Trn Th Kim Oanh



H NI 2014


iii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
với sự hƣớng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh, có sự kế thừa một số
kết quả nghiên cứu liên quan đã đƣợc công bố. Những tài liệu sử dụng trong

luận văn có xuất xứ cụ thể, rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc Hội đồng khoa học về Luận văn
của tôi.
Hà nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả



Phạm Thế Quốc Huy
(Thích Quảng Trí)

iv

LỜI CÁM ƠN

Trƣớc hết và trên hết, Con xin đê đầu đảnh lễ và tri ân Sƣ phụ
Thƣợng Toàn hạ Đức, Ân sƣ: thƣợng Chơn hạ Quang, Thƣợng Tọa thƣợng
Nguyên hạ Hạnh đã nuôi dạy và động viên cho con trong suốt quá trình tu
học !
Để hoàn thành tốt luận văn này.
Thứ đến, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
các Giáo sƣ, PGS.Tiến sĩ khoa Triết và bộ môn Tôn giáo học đã trang bị
những kiến thức và tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS Trần Thị Kim Oanh, một giáo viên dầy dạn
kinh nghiệm cũng nhƣ chuyên môn đã giúp đỡ tôi hoàn tất tác phẩm này!
Cám ơn chuyên gia Duy thức học, GS Nguyễn Hồng Sơn (Giải Minh)
ngƣời đã mang lại cảm hứng cho Con theo đuổi và nghiên cứu bộ môn này.
Cám ơn chƣ Huynh đệ đồng tu, Gia đình và quý Phật tử đã trợ duyên, giúp
đỡ cho Tôi trong quá trình học tập và hoàn tất luận văn này.
Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ quý Ngài thân tâm thƣờng lạc,

pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ, Phật sự viên thành! Kính chúc các Thầy
cô giáo, Gia đình cũng nhƣ chƣ Vị nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công
trong cuộc sống!
Hà nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả



Phạm Thế Quốc Huy
(Thích Quảng Trí)

v
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu: 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Ý nghĩa của luận văn 7
8. Kết cấu của luận văn: 7
Chƣơng 1: KHÁI LUẬN VỀ DUY THỨC HỌC PHẬT GIÁO VÀ BÁT THỨC
TÂM VƢƠNG VỚI 51 HÀNH TÂM SỞ 8
1.1. Khái luận về duy thức học Phật giáo 8
1.1.1. Một số khái niệm và sự truyền thừa 8
1.1.2. Nội dung cơ bản của Duy thức học Phật giáo 14
1.2. Bát thức Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở trong Duy thức học Phật giáo 23
1.2.1. Bát thức Tâm vƣơng 23

1.2.2. 51 hành tâm sở 30
1.2.3. Vị trí của Bát thức tâm vƣơng và 51 hành tâm sở 33
Tiểu kết chƣơng 1 39
Chƣơng 2: SỰ BIỂU HIỆN BIỆN CHỨNG TRONG DUY THỨC HỌC PHẬT
GIÁO (QUA BÁT THỨC TÂM VƢƠNG VÀ 51 HÀNH TÂM SỞ) 40
2.1. Vai trò quyết định của Bát thức Tâm vƣơng đối với 51 hành Tâm sở 40
2.2. Sự tác động trở lại của 51 hành Tâm sở đối với Bát thức Tâm vƣơng . 59
Tiểu kết chƣơng 2 78
Chƣơng 3: TÍNH NĂNG ĐỘNG VÀ SỰ KHÁC NHAU VỀ PHƢƠNG PHÁP
LUẬN GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC MÁC 79
3.1. Tính năng động của 51 hành Tâm sở. 79
3.2. Phƣơng pháp luận Duy thức học Phật giáo 84
3.3. Phƣơng pháp luận triết học Mác 90
Tiểu kết chƣơng 3: 97
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phật Thích Ca (Siddhattha, sinh vào khoảng năm 563 trƣớc Công
nguyên) – Ngƣời sáng lập ra đạo Phật ở Ấn Độ, cách đây hơn 2500 năm. Kế
thừa các tƣ tƣởng truyền thống của Ấn Độ về các vấn đề triết lý cao siêu
nhƣ: tƣ ngã (atman), bản thể tối cao (brahama), con đƣờng giải thoát
(mosha), luân hồi (samsara), nghiệp báo (korma), Trong kinh điển Vedha.
Upanishad, trong triết học Jaina, Lokayata. Song, Ngài là ngƣời đầu tiên phủ
nhận Thần Thánh, và đi tìm sự giải thoát ở ngay chính bản thân con ngƣời.
Ngài tránh những vấn đề quá trừu tƣợng và siêu hình để đi sâu vào các vấn
đề đạo đức nhân sinh.

Các tƣ tƣởng triết học của Phật Thích Ca về cơ bản là giải thích
nguyên nhân của mọi nỗi khổ đau và vạch ra con đƣờng để giải thoát chúng
sinh. Trong học thuyết cốt lõi “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên” Phật
Thích Ca cho rằng, cuộc đời là một bể khổ vô tận, nỗi khổ đó nằm ngay
trong con ngƣời. Vì không nhận thức đƣợc sự biến đổi vô thƣờng, vô định
của vạn vật theo luật nhân quả, không nhận thức đƣợc “cái tôi” có mà không,
nên ngƣời ta ngộ nhận rằng cái gì cũng thƣờng định, cái gì cũng của ta, do ta.
Do vậy, con ngƣời cứ khát ái, dục vọng. Để thỏa mãn lòng tham, sân, si,
ngƣời ta phải cố hành động để chiếm đoạt và gây nên những nghiệp báo, do
đó mắc vào bể khổ, đuổi theo cái ảo ảnh triền miên không dứt, chịu kiếp luân
hồi trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) và lục đạo (Thiên, nhân,
Atula, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh).
Con đƣờng giải thoát nỗi khổ là phải phá bỏ đƣợc sự mê muội, dứt bỏ
đƣợc sự ngộ nhận do vô minh để đạt tới sự gác ngộ của bản ngã. Trong 49
năm thuyết giảng, Phật Thích Ca đều kêu gọi và gợi nên bản chất thánh
thiện, từ bi, hỉ xả, của con ngƣời. Ngài coi giải thoát là cứu cánh, là động lực
duy nhất để nhận thức đƣợc chính mình và nhờ đó mà giải thoát đƣợc nỗi
trầm luân; đồng thời còn tin rằng, ngay cả thánh thần cũng không thể chuyển
bại thành thắng đối với một ngƣời đã chiến thắng bản thân mình.

2
Tiếp nối Phật Thích Ca, các vị Long Thọ Bồ Tát (Nagariuma) và
Thế Thân Bồ Tát (Vasubandhu) đã góp phần hoàn thiện hệ thống triết lý
Phật giáo.
Thế nhƣng triết lý Phật giáo có tiêu cực và bi quan không? Từ đó đến
nay đã có bao học giả nghiên cứu về vấn đề này nhƣng đều lý giải rất khác
nhau. Sở dĩ có tình trạng đánh giá khác nhau nhƣ vậy, vì văn bản Phậtt giáo
và bản chất hệ thống triết học của Phật giáo chƣa đƣợc nghiên cứu thật đầy
đủ và thật khách quan nhƣ các hệ thống triết học khác. Nhiều công trình
nghiên cứu bộc lộ khuynh hƣớng chủ quan, hoặc luận chiến, hoặc chống đối

Phật giáo, hoặc biện hộ… thậm chí có cả các công trình phủ nhận lịch sử
thực của giáo điều và triết học Phật giáo.
Chỉ khi 3 bộ phận hợp thành triết học Phật giáo (bản thể luận, nhận
thức luận và giải thoát luận) đƣợc nghiên cứu đầy đủ rõ ràng thì sẽ không
còn những phán xét không thật khách quan. Hay nói khác, chỉ khi lịch sử
phát triển của tƣ duy triết học Phật giáo đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ, rõ
ràng cả những thành tựu và khiếm khuyết thì khi đó Phật giáo mới giành
đƣợc vị trí của mình bên cạnh những hệ thống khác trong lịch sử tôn giáo và
triết học.
Duy thức học là vấn đề hết sức quan trọng trong hệ thống triết học
Phật giáo vì Duy thức học nêu rõ tánh tƣớng nhân sinh vũ trụ, nêu rõ tính
chất chỗ khởi điểm của tâm thức, những trạng thái, tƣ tƣởng, tình cảm, hành
động của con ngƣời, giải thích đầy đủ mối quan hệ giữa con ngƣời và các sự
kiện xung quanh cũng nhƣ muôn vật trong vũ trụ, xuất phát từ tâm thức mà
đều có ra. Nói về tâm thức là nói về tính chất đặc thù của mối quan hệ biện
chứng giữa "Tâm vƣơng" và "Tâm sở". Vì thế, Duy thức học Phật giáo đƣợc
nghiên cứu chi tiết sẽ làm phong phú và bổ sung những vấn đề cơ bản then
chốt cho triết học Phật giáo nói riêng, triết học Ấn Độ nói chung. Tuy nhiên
vấn đề này trƣớc kia cũng nhƣ hiện nay còn ít học giả lƣu ý tới và chƣa đƣợc
tiến hành nghiên cứu một cách đồng bộ. Bởi vậy, chúng tôi tập trung nghiên
cứu vấn đề này với đề tài: "Quan niệm biện chứng trong Duy thức học Phật
giáo (Qua Bát thức Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở)", nhằm đem lại phần

3
nào những giá trị đích thực của nhận thức Phật giáo trong hệ thống triết học
Phật giáo. Và chính những nghiên cứu này sẽ là những biện giải để chúng ta
nhìn rõ hơn về vị thế và vai trò của triết học Phật giáo trong thời đại mới có
tính nền tảng trong khoa học, triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Duy thức học không những đóng vai trò quan trọng trong hệ thống

triết học Phật giáo mà còn góp phần làm sáng tỏ tƣ duy biện chứng trong quá
trình nhận thức thế giới. Bởi thông thƣờng chúng ta thƣờng nghe nói: "Tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức" nhƣng giữa Tâm và Thức có khác nhau
không? Khác nhau ở chỗ nào? Sao gọi là Tâm? Sao gọi là Thức? Chính vì
vậy, vấn đề này luôn thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều học giả thuộc các lĩnh
vực khác nhau nhƣ: lịch sử, triết học, tôn giáo học, tâm lý học, văn hóa
học, Tuy nhiên trong luận văn này, các tác phẩm tiếp cận dƣới góc độ lịch
sử, triết học, tôn giáo học sẽ đƣợc chú ý. Căn cứ vào nội dung của các công
trình nghiên cứu có thể chia thành các chủ đề sau:
- Các tác phẩm kinh điển Phật giáo
- Các công trình nghiên cứu về lịch sử, giáo lý Phật giáo
- Các công trình nghiên cứu về triết học Phật giáo
- Các công trình nghiên cứu về Duy thức học
Trong chủ đề thứ nhất, các tác phẩm kinh điển liên quan đến việc
nghiên cứu luận văn là:
Kinh Lăng Già (1995)
Kinh Hoa Nghiêm (1966)
Kinh Lăng Nghiêm (1999)
Bách Pháp Minh Môn (2002)
Duy thức Nhị Thập Tụng (2002)
Duy thức Tam Thập Tụng (2002)
Bát thức Quy củ tụng (2002)

4
Đây là những bộ kinh cơ sở then chốt của việc nghiên cứu Duy thức
học, đặc biệt về mối quan hệ biện chứng của Bát thức tâm vƣơng và Hành
Tâm sở.
* Trong chủ đề thứ hai, ở khía cạnh nghiên cứu về lịch sử, giáo lý Phật
giáo từ thời kỳ hình thành cho đến sự hoàn thiện là: "Đại cương lịch sử triết
học Phương Đông cổ đại" (2003) của Doãn Chính (Chủ biên), "Lịch sử Phật

giáo Việt Nam" (1989) của Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên), "Việt Nam Phật giáo
sử luận (3 tập)" (2008) của Nguyễn Lang, "Lịch sử Phật giáo Việt Nam"
(2001) của Lê Mạnh Thát (2 tập), "Tư tưởng Phật giáo Việt Nam" (1999) của
Nguyễn Duy Hinh Các công trình nghiên cứu này không chỉ đề cập về mặt
sử học Phật giáo mà còn đề cập đến những vấn đề triết học Phật giáo nhƣ:
Vô tạo giả, vô thƣờng, vô ngã, nhân quả tƣơng tụ, Tứ diệu đế, chân lý cho
sự giải thoát nỗi khổ. Bởi vậy con ngƣời hành đạo pháp dù Đại thừa hay
Tiểu thừa, đều sống một cuộc đời vƣợt ra khỏi Thất tình, Lục dục. Hơn nữa
các tác giả của các công trình này đều có những nhận định về thế giới quan,
nhân sinh quan Phật giáo trên một số phƣơng diện nhƣ: bản thể luận, nhận
thức luận và giải thoát luận.
Các công trình nghiên cứu về triết học Phật giáo đó là: các công trình
nghiên cứu nhƣ: "Triết học Ấn Độ một cách tiếp cận mới" (2006) của
Henrich Zimnrer, "Triết học và tôn giáo Phương Đông" (2006) của tác giả
Diane Morgan, "Triết học Phật giáo Việt Nam" (2006) của PGS Nguyễn Duy
Hinh, "Nhận thức Phật giáo" (2007) của tác giả Tịnh Không Pháp Sƣ, "Vô
ngã là Niết Bàn" (1990) của Thích Thiện Siêu, "Phật giáo và những vấn đề
triết học" (2007) của Nguyễn Hùng Hậu và Ngô Văn Doanh (chủ biên), "Đại
cương triết học Phật giáo Việt Nam (tập 1)" (2002) của Nguyễn Hùng Hậu,
"Vai trò triết học trong giáo dục Phật giáo" (2012) của Hoàng Thị Thơ Các
công trình này, theo chúng tôi là sự phân tích tổng hợp, đã khái quát những
nội dung cơ bản liên quan đến lĩnh vực: Triết học Phật giáo là một hệ thống
triết lý vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo. Cũng
nhƣ các hệ thống triết học khác, Phật giáo cũng bàn đến các vấn đề bản thể
luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, nhƣng mục đích của hệ thống lý

5
luận đó không phải là tri thức về thế giới và con ngƣời mà nhằm củng cố,
làm bền vững hơn niềm tin con ngƣời vào trạng thái tuyệt đối siêu nhiên.
Tuy triết học Phật giáo không bàn đến vấn đề cơ bản của triết học thông

thƣờng: mối quan hệ giữa tồn tại và tƣ duy, vật chất và ý thức, mà xây dựng
vấn đề cơ bản của mình ở bình diện khác, vƣợt khỏi phạm vi đối tƣợng
nghiên cứu của Triết học: mối quan hệ giữa tồn tại và không tồn tại (hƣ
không). Chính vì lẽ đó mà điểm đáng chú ý là: quá trình nhận thức của Phật
giáo nhƣ thế nào? Nó bắt nguồn từ đâu? Tác động đến thế giới muôn vật nhƣ
thế nào? Đều đƣợc lý giải ít nhiều trong các công trình trên. Hay nói khác,
các công trình này đã phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề trong sự biện
chứng của Duy thức học Phật giáo nói chung, sự tác động qua lại của Tâm
vƣơng và Tâm sở nói riêng.
* Liên quan trực tiếp đến nghiên cứu về Duy thức học Phật giáo có
các công trình tiêu biểu sau:
"Duy thức học" (1992) của Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa, đây là cuốn
giáo trình Phật học với tổng số 420 trang, tác giả đã trình bày những nét cơ
bản về Duy thức học Phật giáo và tác giả cũng chỉ ra những khó khăn khi
nghiên cứu về Duy thức học, "Duy thức học yếu luận" (2000) của Hòa
thƣợng Thích Từ Thông, cuốn sách này tác giả chỉ rõ cho ngƣời đọc hiểu
đƣợc Duy thức học là sự nghiên cứu, tìm hiểu nguyên ủy của hiện tƣợng vạn
pháp để xác lập một luận cứ, Duy thức học là phƣơng tiện chỉ nam hƣớng
dẫn phƣơng pháp nhận thức về mặt cụ thể của vạn pháp và khái niệm tƣ duy
bên mặt trừu tƣợng.
"Duy thức học cương yếu" (1995) của Hòa thƣợng Thích Thiền Tâm,
"Khảo nghiệm Duy thức học - tâm lý học thực nghiệm" (1998) của Hòa
thƣợng Thích Thắng Hoan, "Duy thức học" của Tuệ Quang, Đại sƣ Thái Hƣ
(2009 - Thích Tâm Hoan dịch), tác phẩm "Khái luận về Pháp tướng duy
thức học, Duy thức tam thập tụng lược giải" (2005) của Thích Trí Châu
Các công trình nghiên cứu trên đây đều đã khái lƣợc toàn diện đƣợc những
vấn đề cơ bản của Duy thức học Phật giáo dƣới nhiều góc độ nghiên cứu
khác nhau.

6

Bàn về Duy thức học thì không thể bỏ qua tác giả Giải Minh, ngƣời đã
dày công viết và dịch rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về Duy thức học, các
công trình tiêu biểu nhƣ: "Thuật ngữ Duy thức học" (2011) - là cuốn sách
hƣớng dẫn chỉ rõ những yếu lý sâu sắc về các thuật ngữ trong các tác phẩm
Duy thức học. Với cuốn "Duy thức Triết học" (2012), ông khẳng định: Tâm
thức của con ngƣời chi phối mọi vật (Pháp), còn ngoại cảnh chỉ là thứ yếu,
do sự phân biệt của tâm thức mà hình thành cảnh, vui, buồn, lớn, nhỏ, tốt,
xấu, nên, hƣ
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu chuyên sâu dƣới góc độ triết học
Tôn giáo về vấn đề biện chứng trong Duy thức học Phật giáo thì còn bỏ ngỏ.
Chính vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: Quan niệm biện chứng trong
Duy thức học Phật giáo (Qua Bát thức Tâm vương và 51 hành Tâm sở)
làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận Mác-xít, luận văn tìm
hiểu về quan niệm biện chứng trong Duy thức học Phật giáo, cụ thể qua Bát
thức Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
Thứ nhất: Luận văn khái luận về Duy thức học Phật giáo và Bát thức
Tâm vƣơng, cùng 51 hànhTâm sở.
Thứ hai, Phân tích về quan niệm biện chứng trong Duy thức học Phật
giáo thể hiện trong sự tác động qua lại giữa Bát thức Tâm vƣơng và 51 hành
Tâm sở.
Thứ ba, Trên cơ sở đã phân tích ở trên, luận văn đƣa ra ý nghĩa mang
tính phƣơng pháp luận của sự biện chứng trong Duy thức học Phật giáo đƣợc
thể hiện qua Bát thức Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Sự biện chứng trong Duy thức học Phật giáo
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sự biện chứng trong Duy thức học Phật

giáo, chủ yếu là Đại Thừa thể hiện qua mối quan hệ Bát thức Tâm vƣơng và
51 hành Tâm sở.

7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở vận dụng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử.
Luận văn có kế thừa thành quả của các công trình đã nghiên cứu trong
và ngoài nƣớc về Duy thức học Phật giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng hệ thống phƣơng
pháp của Tôn giáo học, kinh điển và chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phƣơng pháp thống nhất giữa lôgic và lịch sử, phân tích và khái quát, đối
chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích sự biện chứng trong Duy thức học Phật giáo, luận
văn đã luận giải một số vấn đề về Duy thức học Phật giáo mà cụ thể là vai
trò, sự tác động qua lại của Bát thức Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở trong
quá trình nhận thức của con ngƣời theo quan niệm Phật giáo. Thông qua đó,
luận văn cũng đã chỉ ra những giá trị có ý nghĩa phƣơng pháp luận trong Duy
thức học Phật giáo.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn phân tích những nội dung cơ bản của duy
thức học Phật giáo và chỉ ra tƣ tƣởng biện chứng của nó thông qua Bát thức
Tâm vƣơng và 51 hành Tâm sở, qua đây thấy rõ những giá trị khoa học của
Duy thức học Phật giáo nói riêng và triết học Phật giáo nói chung trong hệ
thống triết học xã hội.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo học về Phật giáo và các ngành khoa học
liên quan.

8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết.




8
Chƣơng 1:
KHÁI LUẬN VỀ DUY THỨC HỌC PHẬT GIÁO VÀ BÁT THỨC
TÂM VƢƠNG VỚI 51 HÀNH TÂM SỞ

1.1. Khái luận về duy thức học Phật giáo
1.1.1. Một số khái niệm và sự truyền thừa
Duy thức nguyên tiếng Phạn ở Ấn Độ gọi là Vijmana matravada.
Vijmana là nhận thức, matravada là duy; nhƣng theo phép đặt chữ của Hán
văn, ngƣời ta phải sắp đảo lại thành Duy thức “Duy thức là một pháp môn tối
yếu, tối thắng nghĩa của Phật tự tìm ra để chứng quả vô thƣợng chính đẳng
chính giác. Bởi lẽ, không có nhận thức ắt không có trí tuệ thì sẽ không thể
tìm hiểu đƣợc bản thể của vũ trụ, căn nguyên của sự đau khổ về luân hồi sinh
tử, để tinh tiến tu trì, phát đại hùng đại lực tiến tới đại viên tính trí, thân
chứng tâm trí tuệ Đại quang minh mà thành Phật đạo”[4;94-109].
Thông thƣờng ngƣời ta hay nói: "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức”, nhƣng thực ra thì Tâm và Thức chỉ là một và có khi gọi là “Tâm
thức”. Tâm chỉ cho sự tĩnh lặng, thanh tịnh, sự bất động, nên gọi là Tâm.
Thức chỉ cho sự phân biệt, nhận thức hiện tƣợng, sự vật, chính vì đó mà có
ra mọi hình thái trong vũ trụ, tức là các pháp trong vũ trụ mà các pháp ấy chỉ
là "giả danh, giả tƣớng”, do hƣ vọng phân biệt mà có ra, nên gọi là Thức. Từ
sự phân biệt, nhận thức mọi hiện tƣợng, sự vật trong vũ trụ, nên gọi là "Minh
liễu phân biệt”.

Sở dĩ gọi là “Duy thức" chứ không gọi là “Tâm thức” là vì chữ “Duy”
tức là duy nhất, chỉ có một, muốn nói ngoài "Thức" ra không có một vật nào
tồn tại, hay nói một cách khác tất cả muôn sự muôn vật, từ thức biến hiện ra
mà có, nên gọi là "Duy thức".
Duy thức học bắt nguồn từ thời đức Phật, Ngài đã diễn giải qua các
Kinh nhƣ: Lăng Già, Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật Sau khi đức Phật nhập
Niết Bàn khoảng 900 năm - 1000 năm, có các Tôn Đức: Di Lặc Bồ Tát,Vô
Trƣớc, Thế Thân đã đúc kết hệ thống hóa lời của đức Phật qua các kinh, hình
thành Duy thức học, tạo nên một "Tông", gọi là “Pháp tƣớng Tông”.Từ đó,
Duy thức học đƣợc phát triển mạnh mẽ.

9
Giáo lý của Phật có đến tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn tu tập,
đƣợc chia ra làm mƣời tông, chung quy chỉ có hai loại: Pháp tính và Pháp
tƣớng. Duy thức tông thuộc về Pháp tƣớng. Nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu
Duy thức tông gọi là Duy thức học.
Khởi điểm thuyết minh về “Duy thức học” ngƣời đầu tiên là ngài Di
Lặc Bồ Tát, Ngài đã ứng hóa thỉnh giảng nơi giảng đƣờng Du Gìa Na tại
miền trung Ấn Độ, thuyết bộ Du Gìa Sƣ Địa Luận. Bồ Tát Vô Trƣớc, Thế
Thân tiếp thu chuyển thành lời văn 100 quyển. Chính vì thế, có thể nói ngài
Di Lặc Bồ Tát đƣợc xem là Thủy tổ của Duy thức học, hay còn gọi ngài là
“Tông” của “Pháp tƣớng Duy thức học”. Chính vì thế mà về mặt hệ thống
hóa từ lập thành, triển khai và hƣng thịnh thì phải khẳng định rằng : Di Lặc
Bồ Tát, Vô Trƣớc, Thế Thân là những vị Tổ sƣ danh tiếng đƣơng thời đã
truyền thừa Pháp tƣớng Duy thức học thời đức Phật cho đến sau này, rồi từ
đó truyền bá khắp nơi, là những vị có công lao to lớn nhất lúc bấy giờ.
Về phƣơng diện lịch sử, tƣ tƣởng, văn học bắt nguồn từ Tông Du Gìa
(yogacàra) đƣợc hình thành, y cứ nơi tƣ tƣởng giáo nghĩa bộ Du Gìa Sƣ Địa
luận (yoga- càra-bhami) vào cuối thế kỷ IV đến đầu thế kỷ V do Di Lặc Bồ
Tát thuyết giảng. Ngài Vô Trƣớc, Thế Thân tiếp thu và chuyển thành lời văn

100 quyển.
Bào đệ của ngài Vô Trƣớc là ngài Thế Thân trƣớc kia tu theo phái
Tiểu thừa, sau đƣợc sự cảm hóa của ngài Vô Trƣớc, ngài chuyển sang Đại
thừa, ngài phát huy những yếu lý then chốt về Duy thức, đồng thời truyền bá
sâu rộng khắp nơi. Từ đó, đƣợc hình thành Pháp tƣớng tông hay còn gọi là
Pháp tƣớng Duy thức học, thay thế cho Tông Du Gìa đã đƣợc hình thành từ
trƣớc và kế tiếp là Bồ Tát Luận Sƣ Vô Trƣớc, Bồ Tát Thế Thân, từ đó các
ngài Trần Na Bồ Tát, Hộ Pháp, Giới Hiền đã hoàn thiện Duy thức Pháp
tƣớng tông một cách hoàn bị, vững chắc. Sau đó lần lƣợt các Luận sƣ phổ
biến sâu rộng về Duy thức học, nêu rõ tất cả nhân sinh vũ trụ trong thế gian
và ngoài thế gian đều từ Tâm thức mà hiện hữu, ngoài ra không một pháp
nào tồn tại. Riêng về ngài Thế Thân là bào đệ của ngài Vô Trƣớc, sơ khởi
xuất gia tu theo môn phái Tiểu thừa, ngài đã mang hết khả năng đề cao ca
tụng và viết ra 500 bộ luận để ca tụng giáo pháp Tiểu thừa. Sau khi quy
hƣớng về Đại thừa, ngài đã chú tâm tu tập và viết nên 500 bộ luận, tán dƣơng

10
giáo lý uyên thâm của Đại thừa, vì thế mà Thế ngài Thân đƣợc gọi là ngài
Thiên Bộ Luận Sƣ, ngài đã viết nhiều bộ luận có giá trị, thuộc các bộ luận
nổi bậc nhất, có bộ "Duy thức Tam Thập Tụng" bộ này đƣợc 10 Luận sƣ
1

Thích Nghĩa giải thích sâu rộng. Qua đó thấy đƣợc tính chất thù thắng từ
hiện tƣợng đến bản thể, tâm lý, vật lý, đạo đức cho đến quả vị tu chứng qua
bộ Duy thức Tam thập tụng.
Cho nên, Theo Đại sƣ Thái Hƣ, trong “Khái luận về Pháp tƣớng Duy
thức học” do Hòa thƣợng Thích Tâm Hoan dịch, cho rằng: “Pháp tƣớng Duy
thức học trong Phật học có chỗ gọi là Pháp tƣớng học và cũng có chỗ gọi là
Duy thức học. Nội dung của hai danh xƣng này hợp lại với nhau nên đƣợc
gọi chung là Pháp tƣớng Duy thức học”[40;2]. Duy thức là cách nói ngắn

gọn, gọi đầy đủ là Pháp tƣớng Duy thức học, là nói về các "Pháp" ( bao gồm
cả nhân sinh và vũ trụ) chỉ do "Thức" mà ra.
Pháp tƣớng là hình tƣớng của các pháp, theo định nghĩa trong Thành
Duy thức luận về pháp tƣớng: "Nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải”. Tức là
giữ đƣợc tự tính của các pháp, nhìn vào hình tƣớng ta có thể hiểu đƣợc đó là
"Pháp" gì. Ngoài ra “Pháp” còn có nghĩa bao hàm mọi vật, cụ thể hay trừu
tƣợng, khi nhìn vào ta có thể có một khái niệm về vật ấy, đều gọi là "Pháp".
“Pháp” theo thuật ngữ Duy thức học thì chữ "Pháp”, là chỉ cho những
vật mang một đặc tính rõ ràng, cụ thể, không thể nhầm lẫn giữa vật này với
vật khác, mỗi pháp mang một khuôn khổ riêng biệt. Chính "Pháp" ấy nó có
thể làm phát sinh trong trí óc một khái niệm rõ ràng (quỹ sinh vật giải).
"Pháp chỉ chung cho tất cả những hiện tƣợng sự vật cụ thể hay trừu tƣợng có
tự tính, có bản chất riêng biệt làm căn cứ, khuôn mẫu khiến ngƣời ta nhìn
vào là có thể nhận thức và giải thích đƣợc" [48;281].
Trong thuật ngữ Phật học, “Pháp” phiên là Đạt - ma, Đàm - ma, Đàm -
vô, là khái niệm chỉ mọi sự vật, hiện tƣợng từ vật chất đến tinh thần, từ hữu
hình đến vô hình, từ cực đại đến cực tiểu, từ cái có thể nghe, thấy, ngửi, biết,
cảm nhận cho đến cái chỉ tồn tại trong tƣởng tƣợng; từ cái phàm tục đến
thánh thiện, từ hữu vi đến vô vi: "Từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật hiện
tƣợng dù là to nhỏ hữu hình , vô hình, chân thực, hƣ vọng. Sự vật cũng là


1
Hộ Pháp, Đức Huệ, An Huệ, Thân Thắng, Nam Đà, Tịnh Nguyện, Hỏa Biện, Thắng Hữu, Thắng Tử, Trí Nguyệt

11
vật, đạo lý cũng là vật, tất thảy đều là pháp cả. Duy thức luận giải thích hai ý
nghĩa của pháp: "Tự thể nhậm trì và quỹ sinh vật giải""[21;957].
Triết học Phật giáo cho rằng, Pháp là căn nguyên của thế giới. Thế
giới luôn luôn tồn tại “vạn pháp” hay “hằng hà sa số” các pháp. Pháp là

danh từ gốc tiếng Phạn – Dharma nguyên nghĩa là vật mang, đƣợc dùng để
chỉ tất cả các sự vật, hiện tƣợng của thế giới vật chất từ cái “bé nhƣ hạt
bụi” đến cái “lớn nhƣ quả núi”. Theo từng văn cảnh, Phật giáo chia làm
các loại Pháp nhƣ:
- Pháp hữu vi: là những sự vật hiện tƣợng mà các giác quan có thể
nhận thức, cảm giác đƣợc.
- Pháp vô vi: là những sự vật hiện tƣợng mà các giác quan không nhận
thức, cảm giác đƣợc.
- Pháp hữu tình: là những sự vật có sự sống.
- Pháp vô tình: là những sự vật vô tri, vô giác.
- Pháp thiện: là những pháp thúc đẩy sự giải thoát,
- Pháp ác: là những pháp cản trở sự giải thoát.
“Vạn pháp” trong vũ trụ chính là các sự vật hiện tƣợng tạo nên thế giới.
Các sự vật, hiện tƣợng, các pháp trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn
chuyển động không ngừng nghỉ, các pháp bị chi phối bởi luật “vô
thƣờng”(Anicca). Trong kinh Pháp Cú Thí Dụ có lời nói kệ của đức Thế Tôn:
Sở hành phi thƣờng
Vị hƣng suy pháp
(Các hành đều vô thƣờng
Đó là pháp thịnh suy)[12;2]
"Vô thƣờng” là lý thuyết chỉ sự vận động, biến đổi của các pháp trong
thế giới và chi phối bởi giáo lý nhân duyên. Phật giáo quan niệm, nhân là
mầm tạo quả, duyên là phƣơng tiện, điều kiện các sự vật hiện tƣợng (các
pháp) trong vũ trụ do nhân duyên mà thành nhân duyên hòa hợp thì các pháp
sinh, nhân duyên tan rã các pháp diệt. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có viết:
"Chƣ pháp trùng duyên sinh
Diệc trùng nhân duyên diệt
(Các pháp do nhân duyên sinh
Cũng từ nhân duyên diệt)[35;104]


12
Hay trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn cũng viết:
"Xa lìa các nhơn duyên
Chỉ có vi tâm trụ
Thân kia tùy chuyển biến
Cũng lìa tất cả sự
Tƣởng sở tƣởng đều lìa
Ta nói là vô sanh" [14;460]
Tuy nhiên, các pháp không phải do một nhân duyên mà có nhiều nhân
duyên. Do đó, các pháp quan hệ mật thiết với nhau, tác động chi phối lẫn
nhau. Kinh Đại Phƣơng Quảng Phật Hoa Nghiêm có viết:
Một thế giới để vào tất cả
Tất cả thế giới để vào một [15;8].
Trong nhận thức các pháp, Phật giáo còn đƣa ra thuyết "Sắc – Không".
Sắc là danh từ Phật học chỉ sự vật, hiện tƣợng ở trạng thái có hình tƣớng
trong không gian mà con ngƣời nhận biết đƣợc, còn gọi là "Có". "Không" là
chỉ sự vật, hiện tƣợng ở trạng thái không có hình tƣớng mà con ngƣời không
nhận biết đƣợc. Theo lý thuyết "Sắc – Không", thế giới luôn chuyển động,
biến đổi nên không phải khi sự vật tồn tại ở trạng thái có hình tƣớng mới gọi
là Sắc, mới là Có; ở trạng thái không (diệt) mới là Không. Thực tƣớng, cái
gọi là Không đã là có và cũng là Có; cái gọi là Có đã là không và cũng là
Không. Trong cái "có" có cái "không", trong cái "không" có cái "có". Sắc tức
nhị Không, Không tức nhị Sắc, có đấy mà không đấy, không đấy mà có đấy.
Sắc, Không là hai dạng tồn tại của thế giới vạn pháp. Kinh Thủ Lăng
Nghiêm viết: "Nhƣợc phục sắc trần sinh nhãn kiến giả, quán không phi sắc,
kiến tức tiêu vong. Vong tắc đô vô, thùy minh không sắc? Có nghĩa: Lại nữa
nếu sắc trần sinh ra cái thấy. Khi thấy hƣ không chẳng có sắc tƣớng, thì cái
thấy liền bị tiêu mất. Tiêu rồi thì tất cả đều không, còn ai để rõ đƣợc không
và sắc tƣớng" [37;54]. Vì thế mà "Tƣớng" tức là chỉ hình tƣớng của sự kiện,
sự vật hay tƣớng trạng của một pháp, nó tiêu biểu hay biểu hiện ở bên ngoài

mà ngƣời ta có thể nhìn thấy hay rờ mó và có thể tƣởng tƣợng hình dung nó
ở trong trí. Từ điển Phật học có viết: "Tƣớng là hình tƣớng, tƣớng trạng của
sự vật, biểu hiện ở bên ngoài và tƣởng tƣợng ở trong lòng"[21;1480]. Trong
Kinh Phật thuyết cũng nói: "Thế tôn, Bồ - tát - Ma - ha - tát đối với Bát nhã

13
Ba - la - mật, quán tƣởng nhƣ vậy rồi, đối với sắc, thụ, tƣởng, hành, thức
không có cái đƣợc nhận, không có cái đƣợc sinh, không có cái bị diệt, cho
đến tất cả các pháp, tất cả tƣớng cũng nhƣ vậy. Vì sao? Nếu sắc, thụ, tƣởng,
hành, thức vô sinh, vô diệt tức không phải sắc, thụ, tƣởng, hành, thức. Sắc,
thụ, tƣởng, hành, thức này cũng vô sinh, vô diệt, không hai, không khác. Nên
nói sắc, thụ, tƣởng, hành, thức tức là hai pháp vô sinh, vô diệt"[50 ;42].
Còn Thể tƣớng: Là những tƣớng trạng có thể chất là một thực thể, là
đối tƣợng của Tiền ngũ thức: Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, biểu hiện trong
thức thứ sáu là Ý thức và thức thứ bảy lấy Đệ lục ý thức làm Căn. Hình
tƣớng là có thật thể, kích thích khả năng cảm giác ví nhƣ âm thanh có thể
nghe, mùi vị có thể ngửi. "Cảm giác của Ý thức và năm thức trƣớc hợp tác
cũng có thể gọi là chữ "Tƣớng" của thể tƣớng, vì trong thể tƣớng có thêm
nghĩa tƣơng ứng của ý thức. Chỗ hiểu biết của thức thứ tám (Alaya thức) là
chữ tƣớng của thể tƣớng, lý do chỗ hiểu biết thức thứ tám cũng có thực thể"
[40;5].
Và Mạo tƣớng: là chỉ cho tất cả hình sắc, diện mạo bên ngoài những
sự vật, mà chúng ta có thể thấy hoặc tiếp xúc, thu nhận hằng ngày, có sự
phân biệt của Đệ lục Ý thức. Theo Thành Duy thức luận thì Mạo tƣớng gồm
có ba dạng: Hiển sắc, Hình sắc, Biểu sắc. Theo Đại sƣ Thái Hƣ thì: "Sắc
Trần là do nhãn thức và ý thức cùng nhau hiểu biết. Còn Hiển sắc (màu sắc
của sự vật, hiện tƣợng: xanh, đỏ, tím, vàng ) và Hình sắc (hình dạng sự vật,
hiện tƣợng: chiều dài, ngắn, vuông, tròn ) cho đến Biểu sắc (hoạt động của
sự vật, hiện tƣợng: đi, đứng, co lại ) đều hoàn toàn do ý thức" [40 ; 4].
Nghĩa tƣớng: là những tƣớng trạng không phải là đối tƣợng của tiền

ngũ thức, mà chỉ dành cho nhận thức của Đệ lục ý thức: suy nghiệm, phán
đoán, nhận thức, nó hoạt động độc lập, không cùng với tiền ngũ thức, nó là
đối tƣợng của Đệ lục và Đệ nhất, Đệ bát: "Nghĩa tƣớng là hình tƣớng của ý
thức thứ sáu và ý căn thứ bảy cùng nhau nhận thức. Ma na thức thứ bảy nhận
thức hình tƣớng tự ngã trong kín đáo, không thể hiểu biết" [40;4].
Bởi vậy, "Pháp tƣớng" hay "Pháp" là từ chỉ chung cho mọi sự kiện, sự
vật trong vũ trụ, mọi hoạt động trong đời sống, dù lớn hay bé, tốt hay xấu,
hữu hình hay vô hình, chân thật hay hƣ vọng, giả tƣớng hay giả danh, tất cả
đều là Pháp hay một pháp. Nên chữ "Pháp" bao hàm phạm vi rất rộng lớn.

14
Cái có của sự vật khả dĩ gọi là "Pháp" và cái "Không" của sự vật, mặc dù chỉ
là khái niệm về "Không", cũng có thể là "Pháp". Sắc bất dị không, không bất
dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Chính lẽ đó mà hình tƣớng hay
pháp tƣớng các pháp đều thể hiện ở các yếu tố. Nên tất cả mọi sự vật trong
vũ trụ dù có muôn hình vạn trạng, hoặc những tính trạng mang tính chất trừu
tƣợng thì đều là những đối tƣợng của tâm thức, và đƣợc gọi là "Pháp".
Qua luận bàn nhƣ vậy, cho thấy sự ra đời của Duy thức học gắn liền
với lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, gắn
với vai trò của Phật Thích Ca và các đệ tử của Ngài. Từ đó, Pháp tƣớng Duy
thức tông dần dần phát triển sâu rộng và lan ra các xứ cận đông nhƣ Nhật
Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ
Khi ngài Huyền Trang từ Trung hoa đến Tây Trúc(Ấn Độ) tham học
tiếp thu những giáo lý Đại thừa, nhất là trực tiếp với Ngài Giới Hiền và các
Luận sƣ danh tiếng. Sau 17 năm du học, ngài trở về Trung Hoa mang theo
các bộ: Kinh, Luận. Trong đó có các bộ Luận về Pháp tƣớng và ngài mở ra
phong trào dịch thuật kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán, chú ý nhiều đến bộ
môn Pháp tƣớng Duy thức học, tiêu biểu nhƣ:
Duy thức Tam Thập Tụng
Duy thức Thập Nhị Tụng

Đồng thời ngài thu nhặt tổng hợp các yếu lý tinh hoa trong bộ Duy
thức Tam Thập Tụng và những lời chú giải Duy thức Tam Thập Tụng của 10
luận sƣ trƣớc tác ra bộ “Thành Duy thức luận” là một bộ phận giải thích giáo
nghĩa yếu lý của Duy thức Tam thập tụng. Sau đó Sƣ phụ của ngài là Đại sƣ
Khuynh Cơ, Huệ Chiếu phổ biến truyền bá tƣ tƣởng Pháp tƣớng Duy thức
học ngày càng thịnh hành đánh dấu sự thành công của pháp tƣớng Duy thức
học là 1 Tông trong 10 Tông phái Phật giáo tại Trung Quốc thời xƣa.
1.1.2. Nội dung cơ bản của Duy thức học Phật giáo
Nhƣ trên đã nói "Thức" là bản thể của tâm, ngoài sự biến hiện của
Thức, không có bất cứ một vật gì thật sự tồn tại, nên gọi là Duy thức học.
Nghĩa là các hiện tƣợng của tâm, vật bên ngoài đều do Kiến phần và Tƣớng
phần (chủ quan và khách quan) của tự thể tâm thức biến hiện ra, sự biến hiện
của Thức, có thể đƣợc chia ra làm hai loại: 1) Nhân năng biến, cũng gọi là
Năng biến. Tất cả các pháp tồn tại, đều từ hạt giống (chủng tử) trong thức

15
Alaya biến hiện ra; 2) Quả năng biến, cũng gọi là Quả biến, Duyên biến là
kết quả của Nhân biến, là do sự phân biệt chủ quan, khách quan của Tâm
thức, nhắm vào tác dụng đối tƣợng. Do vậy, nội dung chủ yếu của Duy thức
học là các pháp hiện hữu đều do Tâm thức biến hiện và các Pháp ấy không
thật thể, thật dụng, nó chỉ là giả thể, giả dụng, giả danh. Nó đƣợc tồn tại theo
lý duyên khởi, tức là do duyên sinh, các duyên phối hợp mà có, các duyên
tan rã nó trở về "không", nhƣng vì do hƣ vọng ta chấp nó nhƣ "thật thể thực
dụng". Nhƣng con ngƣời thì bất cứ lúc nào cũng cho nó là thật có, vì các
hiện tƣợng đang diễn ra trƣớc mắt, mà không biết nó chỉ là "giả có" mà thôi.
Vì thế giới chỉ hiện hữu trong thức, còn bản thân thế giới ngoại tại thì không
hiện hữu nhƣng nội thức phát hiện giả tƣớng của nó nhƣ là thế giới ngoại tại.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm viết: "Tuần nghiệp phát hiện, thế gian vô tri, hoặc vi
nhân duyên, cập tự nhiên tánh, giai thị tức tâm phân biệt kế đạt. Đãn hữu
ngôn thuyết, đô vô thật nghĩa. Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới

hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất
cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không
có nghĩa chân thật"[37;239]. Nhận thức đƣợc điều này là do bản thân con
ngƣời không thể tìm đâu ra một cái "Ngã" hay pháp chân thực nào cả. Điều
mà con ngƣời luôn cho là chân thực chẳng phải là chân thực; mà chỉ là một
biểu lộ ngoại tại của cái thực. Toàn thể thế giới do đó là tạo nên do ảo tƣởng
hay do nhân duyên, và không có thực tại thƣờng tồn nào cả. Duy thức học
quan niệm "Vạn vật duy thức", tức mọi hiện tƣợng khách quan (tức tồn tại,
thế giới) đều do ý thức chủ quan con ngƣời mà có, chứ không phải thực sự
tồn tại độc lập với chủ quan con ngƣời. Kinh Hoa Nghiêm viết: "Tất cả
những pháp rộng lớn kia
Vì lợi chúng sinh nên khai diễn
Tại sao Phật - nhãn là vô - lƣợng
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng nhƣ vậy"[71;273].
Nhƣ vậy sự tồn tại của các vật ở thế giới này theo Duy thức học Phật
giáo là do các thức (Nhãn , Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý, Mạt na, Alaya thức)
chuyển động biến hóa, vì thế mà phân biệt thành những biểu tƣợng ảo của
đối tƣợng vào trong chủ quan của con ngƣời, do đó Nó (chỉ tồn tại) đều là
không, mọi cái đều do Thức mà có.

16
Cho nên, nói về nội dung Duy thức học thì không thể bỏ qua nội dung
về Pháp tƣớng vì:
1) Tất cả các Pháp trong vũ trụ hiện có, nó đƣợc thể hiện qua lý Duyên
khởi, tức là do các duyên phối hợp mà có ra muôn hình vạn trạng, vì hƣ vọng
ta chấp nó là thật ngã thật pháp, mà không biết các duyên tan rã, các pháp
không còn tồn tại nữa.
2) Vì hƣ vọng ta chấp cho là thật có, nên yếu lý Duy thức với chủ yếu
cần phải phá trừ "Chấp ngã Chấp pháp". Có phá trừ Chấp ngã pháp, ta mới
đạt đƣợc lý Duy thức, thấu rõ các pháp nó chỉ là "Không", vì không thật thể,

nó chỉ là "giả ngã, giả pháp".
3) Các hiện tƣợng trong vũ trụ, đều do Tâm thức biến hiện, ngoài Ý
thức ra không một Pháp nào tồn tại, do mê tính hƣ vọng ta chấp chặt rồi đặt
cho nó một cái tên, tên ấy chỉ là giả danh. Vì thế cần phải dứt trừ Ngã pháp,
có đƣợc nhƣ thế, ta mới thấu đạt đƣợc lý Duy thức. Tâm thức luôn là bản thể
của nhân sinh và vũ trụ. Từ đó "Thức" là cơ sở phát sinh các pháp trong thế
gian và xuất thế gian (đạo pháp). Theo Kinh Đại Thừa, A Tỳ Đạt Ma nói
"Thức có một năng lực từ vô thủy đến nay, tất cả các pháp trong vũ trụ đều y
cứ vào đấy, từ đó mà có ra các cõi trong 6 đƣờng (lục đạo), kể cả Niết Bàn
chứng đắc" [49;25].
4) Cũng có thể diễn đạt theo một hình thức khác: "Thức" là một
"Chủ nhân ông" có năng lực biến hiện qua "Tam năng biến". Dù vậy, năng
lực biến hiện vẫn là "Thức"; vì thế năng lực phân biệt (tâm thức) hay sở phân
biệt (vạn vật), cũng đều Thức. Thức biến hiện, trực giác phân biệt trong một
năng lực tổng thể vô tận. Trên cơ sở, về chân lý tuyệt đối là bản thể thanh
tịnh, nó không phải là hai mà chỉ là một (bất nhị bất dị), mà chính là mặt
tƣớng của các pháp. Đứng về mặt Tục Đế, ta thấy nó có 8 thức Tâm vƣơng,
51 Tâm sở, Sắc pháp, tâm Bất tƣơng ứng và Vô vi pháp, hay nói gọn là
"Tâm, Ý, Thức"; nhƣng đứng về mặt Chân Đế thì nó chỉ có một, tức là tâm
Chân nhƣ thanh tịnh, vƣợt ra ngoài trí phân biệt của thế nhân. "Chƣ thiện
nam tử ngã thƣờng thuyết ngôn. Sắc Tâm chƣ duyên cập Tâm sở Sử chƣ sở
duyên pháp duy Tâm sở hiện. Này các thiện nam tử! Nhƣ Lai thƣờng nói:

17
"Sắc, tâm, các duyên, các Tâm sở sử cùng các pháp sở duyên, đều do tâm
biến hiện"
Giảng: "Sắc" là chỉ cho các Sắc pháp, và "Tâm" là chỉ cho Tâm pháp.
Theo Bách pháp Minh môn luận, có 11 Sắc pháp và 8 Tâm pháp. Tâm pháp
thuộc về 8 thức Tâm vƣơng. Có 51 thứ thuộc về Tâm sở pháp, 24 thứ thuộc
về Tâm bất tƣơng ƣng Pháp, có nghĩa là không tƣơng ƣng với Sắc pháp,

không tƣơng ƣng với Tâm pháp, hay với Vô vi pháp. Cùng với 6 pháp vô vi,
tạo thành tất cả 100 pháp" [36;37].
Nói tóm lại, tất cả các Pháp trong vũ trụ có thể chia ra làm hai loại:
Duy thức tính và Duy thức tƣớng.
Duy thức tính, tức là Pháp tính thanh tịnh xa rời ngôn ngữ (ly ngôn
tuyệt tƣớng) không thể nói năng luận bàn, tức chỉ cho chân nhƣ thật thể
thanh tịnh.
Duy thức tƣớng, là những pháp có hình tƣớng, dáng mạo, có thể luận
bàn, tức là Pháp tƣớng phân biệt theo lý tục đế. Về hình tƣớng của các pháp,
bao gồm có: Thật-Đức-Nghiệp-5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, kể cả nhân sinh vũ trụ
trong thế gian.
"A - nan nhữ du vị minh nhứt thiết phù trần chƣ huyễn hóa tƣớng.
Đƣơng xứ xuất sanh tùy xứ diệt tận huyễn vọng xƣng tứng. Kỳ tánh chơn vi
diệu giác minh thể.
A - nan, ông còn chưa rõ tất cả các tướng huyễn hóa nơi tiền trần,
ngay đó sinh ra, ngay đó diệt mất. Huyễn vọng nên gọi là tướng, nhưng tánh
chân thật vốn là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm màu.
Giảng:
" Huyễn vọng nên gọi là tƣớng". Nó có tên gọi là huyễn vọng.
Nhƣng tánh chân thật vốn là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm màu. Nó đƣợc gọi
là hƣ vọng, nhƣng căn nguyên các hƣ vọng nảy sinh khởi là ở đâu? Cũng
vậy, nó lƣu xuất từ thể tánh chân thật sáng suốt nhiệm màu. Nó sinh khởi từ
chân tâm của chúng ta. Do chân tâm mà khởi vọng. Từ hƣ vọng mà có kiến
phần và tƣớng phần. Kiến phần là khả năng thấy. Tƣớng phần là tất cả các
hiện tƣợng, vật thể, đối tƣợng của cái thấy. Tƣớng phần và kiến phần cũng
đều lƣu xuất từ thể tánh chân thật sáng suốt nhiệm màu, đều lƣu xuất từ chân

18
tâm thƣờng trụ thể tánh thanh tịnh sáng suốt. Nó chẳng đến từ đâu
cả"[36;291- 292].

Hay: "Nhƣ thị nãi chí ngũ ấm lục nhập. Tòng thập nhị xứ chí thập bát
giới. Nhân duyên hòa hợp hƣ vọng hữu sanh. Nhân duyên biệt ly hƣ vọng
danh diệt.
Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát
giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời hư
vọng gọi là diệt.
Giảng:
Đạo lý mà Nhƣ Lai đã giảng giải cũng giống nhƣ vậy đối với mọi
phần loại khác nhau của Ngũ ấm - sắc, thọ, tƣởng, hành, thức, lục nhập - có
nghĩa là 6 căn: mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân, ý - từ thập nhị xứ - 6 căn: mắt, tai,
mũi, lƣỡi, thân, ý cùng với 6 trần: sắc, thanh hƣơng, vị, xúc, pháp - cho đến
thập bát giới - 6 căn, 6 trần và 6 thức phát sinh ra do khi căn và trần tiếp xúc
nhau: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Sáu căn và
sáu trần kết hợp thành 12 xứ, cùng với 6 thức tạo thành 18 giới. Các thứ Sắc
pháp và Tâm pháp này đều do nhân duyên hòa hợp mà hƣ vọng sinh ra"
[36;293-294].
Tóm lại: Tƣớng hay hình tƣớng tức chỉ cho muôn pháp do các duyên
mà sinh khởi, rồi cuối cùng quay về Alaya thức. Cho nên gọi các hình tƣớng
là Pháp sở sinh, và để phân biệt danh tƣớng, nên gọi là Pháp tƣớng. Do vậy
Pháp tính và Pháp tƣớng phải đƣợc hiểu:
Pháp tính: là bản tính của các pháp, Pháp tính này đối với phƣơng diện
hữu tình gọi là Pháp tƣớng, đối với phƣơng diện vô tình thì gọi là Pháp tính.
Pháp tính chính là thật tƣớng, Chân nhƣ Pháp giới là biệt danh của Niết bàn.
Pháp tƣớng: đối lại với Pháp tính, tức chỉ hình tƣớng, tƣớng trạng
hoặc trạng thái của sự vật. Theo Pháp tƣớng Duy thức thì tƣớng là hình dáng
mỗi sự vật hiện tƣợng khác nhau, mắt ta có thể thấy đƣợc, nhƣ sắc chất.
Tƣớng chia làm hai loại: Tổng tƣớng và Biệt tƣớng:
- Tổng tƣớng: là "Tƣớng" chung của tất cả các pháp nhƣ vô thƣờng.
Còn Biệt tƣớng là "Tƣớng" riêng của mỗi pháp nhƣ tƣớng cứng, mềm, nóng,
lạnh mỗi loại đều khác nhau. Lại lấy "Tính" làm bản thể của sự vật, còn


19
"Tƣớng" thì là tƣớng dạng (dáng mạo) có thể biết, có thể thấy, chúng ta có
thể hiểu. Tƣớng không cũng gọi là Tự tƣớng không, Tự cộng tƣớng không,
tức các tƣớng "Tổng biệt đồng dị" đều có tính chất bất khả đắc của các pháp.
Nói rõ hơn, "Tƣớng" là Sở thủ phần chỉ cho bóng dáng của sự vật ở
ngoại giới, ảnh hiện vào tâm, là Tâm pháp trong 4 loại tâm.
Tâm sở: là tác dụng của tâm đƣợc chia ra 4 loại:
1) Thực tƣớng: Danh tƣớng các Tƣớng chân thật, Thể tƣớng là Chân
nhƣ thật thể.
2) Cảnh tƣớng: Danh tƣớng đối cảnh của Căn và Tâm.
3) Trạng tƣớng: Danh tƣớng chỉ cho các tƣớng dạng của hữu vi. Trong
3 loại cảnh chung cho cả: Tính cảnh, Độc ảnh cảnh và Đới chất cảnh, là do
thức biến hiện ra.
4) Nghĩa tƣớng: Danh tƣớng chỉ cho nghĩa Năng thuyên và Sở thuyên.
Nhƣng thông thƣờng chỉ cho 3 tƣớng trong 4 tƣớng đã nêu ở trên, thuộc về
Tƣớng phần. Tƣớng phần đƣợc chia làm hai loại:
a) Bản chất Tƣớng phần tức là "Sắc pháp", do chủng tử của thức
Alaya hiện khởi.
b) Ảnh tƣợng Tƣớng phần tức là các thức duyên theo Cảnh biến ra
bóng dáng, chứ không có bản chất để nƣơng gá. Lại từ tƣ tƣởng này tiến
bƣớc, mà có thuyết "Sinh Phật Nhất Nhƣ" tức Chúng sinh và Phật là một.
Ngoài ra, các từ ngữ nhƣ: "Tất cả do Tâm chuyển" hay nhất thiết do
Tâm tạo đều là những từ ngữ điển hình thƣờng thấy trong Kinh-Luận để
biểu hiện tƣ tƣởng trên (Tâm và Tƣớng).
Tuy nhiên theo Duy thức học, con ngƣời muốn nhận thức rõ chân lý
ngoài "Tâm" không có "Cảnh" (lý Duy thức), thì phải Quán Duy thức theo
thứ tự cao thấp, theo năm lớp nhƣ sau:
- Thứ nhất là , "khiển hƣ tồn thật thức", nghĩa là trừ bỏ cái biến kế sở
chấp giả dối mà để lại Y tha và Viên thành thật có. Đó là phép Quán Duy

thức "không" và "hữu" tƣơng đối.
- Thứ hai là, "xả lạm lƣu thuần thức", nghĩa là trong lớp thứ nhất con
ngƣời để lại hai tính Y tha và Viên thành. Trong thức Y tha gồm có bốn
phần: Tƣớng phần thuộc về "Cảnh", sợ không khỏi xen lẫn với cảnh ngoài
tâm, cho nên con ngƣời phải bỏ. Kiến phần, Tự Chứng phần, Chứng tự,

20
Chứng phần thuộc về Tâm năng duyên chủ quan, nên phải lƣu lại. Đó là
phép Quán Duy thức tâm và Cảnh tƣơng đối.
- Thứ ba là, "nhiếp mạt quy bản thức", nghĩa là trong lớp thứ hai, con
ngƣời đã bỏ sự lộn xộn về "Cảnh", lƣu lại phần thuần túy của tâm. Tuy
nhiên, con ngƣời phải xét tự chứng phần tâm ấy, là bản thể Năng biến, tức là
Tƣớng phần và Kiến phần là sự tác động gọi là "Dụng" từ trong tự chứng
phần mà hiện ra, tức là Mạt na thức. Bản thể của "Tâm" chính là phép Quán
Duy thức "Thể" và "Dụng" tƣơng đối.
- Thứ tƣ là, Ẩn liệt hiển thắng thức, nghĩa là trong lớp thứ ba, tuy rằng
con ngƣời đã quy tự về gốc là bản thể, nhƣng Tâm thể gồm có Tâm vƣơng
và Tâm sở. Tâm vƣơng là chủ năng biến, cho nên thắng Tâm sở và phát khởi
phần liệt nhƣợc. Chính vì vậy, con ngƣời phải tìm cách tiêu diệt phần liệt
nhƣợc của Tâm sở, hiển bày phần ƣu thắng của Tâm vƣơng. Đó là phép
Quán Duy thức Vƣơng và Sở tƣơng đối.
- Thứ năm là, Khiển tƣớng chứng tính thức, nghĩa là trong lớp thứ tƣ
tuy rằng con ngƣời chỉ lƣu lại Tâm vƣơng, nhƣng Tâm vƣơng lại có đủ Lý
tƣớng và Lý tính. Sự tƣớng là Y tha khởi tính; lý tính là viên thành Phật tính.
Cho nên, con ngƣời phải thủ tiêu những sự "Tƣớng y tha", cầu chứng nhập lý
tính và viên thành. Có thể sơ đồ hóa năm phép quán đó nhƣ sau:
Hình 1: Sơ đồ Quán Duy thức
Nhƣ vậy, theo sơ đồ trên ta thấy, tất cả muôn pháp không rời lìa Tâm
thức. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có viết: "Bất tri sắc thân ngoại bạc sơn hà
hƣ không đại địa. Hàm thị diệu minh chơn tâm truy vật". Có nghĩa là: Chẳng

biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông, hƣ không và thế giới đều là vật ở trong
diệu minh chân tâm [36;44]. Tuy theo Quán Duy thức có thứ tự năm lớp,
Một là, khiển hƣ tổn thật thức – không hữu tƣơng đối
Hai là, xả lạm lƣu thuần thức – tâm cảnh tƣơng đối
Ba là, nhiếp mạt qui bổn thức – thể dụng tƣơng đối
Bốn là, ẩn liệt hiển thắng thức – vƣơng sở tƣơng đối
Năm là, khiển tƣớng chứng tính thức – sự tƣớng tƣơng
đối – tính duy thức
Năm lớp Quán Duy
thức

Tƣớng Duy thức

×