Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Thế giới quan của Nguyễn Trãi qua tác phẩm Quân trung từ mệnh tập và Quốc âm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.34 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ HÀ





THẾ GIỚI QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI QUA
TÁC PHẨM “ QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”
VÀ “ QUỐC ÂM THI TẬP”




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


6 quyển – X
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







PHẠM THỊ HÀ


THẾ GIỚI QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI QUA
TÁC PHẨM “ QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”
VÀ “ QUỐC ÂM THI TẬP”



Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
6 quyển – XB 16

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hạnh

HÀ NỘI – 2014


0

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Hạnh.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với
các đề tài khác.
Hà nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả luận văn





Phạm Thị Hà













1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Triết học là một khoa học ra đời sớm dựa trên sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của sự phân hóa xã hội. Vấn đề lớn nhất mà mọi triết học
quan tâm là vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vì lẽ đó, nghiên cứu thế giới quan
và phương pháp luận triết học mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc định
hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người, từ đó con người xác lập lý
tưởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống của mình. Đây cũng là một trong những
tiêu chuẩn cơ bản đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của
mỗi cộng đồng xã hội.
Thế giới quan có thể hiểu đơn giản là cái nhìn về các mặt của thế giới,
là bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ của con người và tự nhiên, của con

người và con người. Thế giới quan bao gồm những nguyên tắc, quan điểm,
niềm tin, khái niệm, biểu tượng về toàn bộ thế giới, sự vật, hiện tượng, những
quy luật chung, là sự chỉ dẫn phương hướng hoạt động của con người.
Trong triết học phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, vấn đề
vũ trụ quan, nhân sinh quan có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng nặng về
vấn đề nhân sinh quan, xã hội quan hơn là các vấn đề về tự nhiên và các hình
thức của tư duy. Mục đích của thế giới quan triết học phương Đông nói chung
và triết học Việt Nam nói riêng là xây dựng lý lẽ cho chính trị - xã hội và luân
lý nhằm giáo dục đạo đức cho con người.
Ở Việt Nam, tư tưởng về thế giới quan được hình thành rất sớm tuy
chưa mang tính hệ thống song các nhà tư tưởng đã đưa ra những quan niệm sơ
khai về thế giới quan như quan niệm của Lý Thường Kiệt, Lý Công Uẩn…
Và đến Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tư tưởng về thế giới quan đã được hình
thành một cách rõ nét, và hệ thống. Bởi thông qua thế giới quan của mình,
Nguyễn Trãi đã phản ánh được tương đối hoàn chỉnh hiện trạng xã hội Đại


2
Việt cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Ngoài ra, thế giới quan của Nguyễn
Trãi còn mang lại những bài học giá trị về: cách xử thế của con người với tự
nhiên, về đạo thông qua mối quan hệ giữa con người với con người. Tuy
nhiên, tính đến thời điểm hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về thế
giới quan của Nguyễn Trãi, do đó chúng tôi quyết định chọn hai tác phẩm
“Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập” trong di sản của Nguyễn Trãi
làm đề tài nghiên cứu, bởi trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy ẩn
đằng sau những tư tưởng thiên mệnh, con người, đạo đức …đó chính là lòng
yêu nước, thương dân, là nỗi niềm đau đáu được ra giúp dân, giúp đời của
Nguyễn Trãi từ lúc ông còn trẻ đến lúc tuổi già. Đó là nhân cách cao quý của
một con người vĩ đại.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Thế giới quan của Nguyễn

Trãi qua tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập” làm đề
tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Nguyễn Trãi là một đề tài lớn
đối với các nhà nghiên cứu, việc nghiên cứu này chính thức được bắt đầu từ
năm 1464, khi Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, được chia thành
các loại công trình nghiên cứu sau:
- Loại công trình nghiên cứu thứ nhất: nghiên cứu triết học phương
Đông thì khá nhiều, song chưa có công trình nào cụ thể tìm hiểu về thế giới
quan triết học của phương Đông nói chung, ngoài công trình Luận án tiến sĩ
“Thế giới quan trong triết học Trung Quốc cổ đại”(2002) của Nguyễn Văn
Vịnh, nội dung chủ yếu là nghiên cứu thế giới quan của triết học Trung Quốc
bao gồm vũ trụ quan, xã hội quan và nhân sinh quan thông qua xem xét một
số học thuyết tiêu biểu làm nên đặc trưng của thế giới quan triết học Trung
Quốc. Trên cơ sở đó đưa ra sự so sánh và nêu rõ sự khác nhau về đặc trưng


3
của thế giới quan triết học Trung Quốc cổ đại với thế giới quan của các nền
triết học cổ đại khác. Công trình đã có vai trò khái quát chung nhất về về thế
giới quan triết học Trung Quốc.
- Loại công trình thứ hai nghiên cứu về một số luận điểm có tính chất
làm cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành: Lịch sử tư
tưởng Việt Nam; tập 1 (Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993), trong cuốn sách có phần trình bày, phân tích khái quát thân thế,
sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đồng thời đi nghiên cứu một số tư tưởng triết học
được thể hiện qua thơ văn của Nguyễn Trãi. Cuốn Đại cương triết học Việt
Nam (Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Chính trị quốc gia, 2010) nghiên cứu về tư
tưởng của các nhà triết học Việt Nam, trong đó có Nguyễn Trãi, nhằm góp
phần tìm về cội nguồn của dân tộc, tìm ra cái logich ngầm trong sự phát triển

của dân tộc.
- Loại công trình thứ ba là những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp
của Nguyễn Trãi.
+ Nhóm thứ nhất là tổng tập, tuyển tập thơ văn của Nguyễn Trãi được
sưu tầm, phiên âm và chú giải: Quốc âm thi tập (Trần Văn Giáp và Phạm
Trọng Điền phiên âm và chú giải, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956); Nguyễn
Trãi toàn tập (Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1976) ; Nguyễn Trãi toàn tập,
Tân biên tập1; 2, (Nxb Văn hóa, 2000). Trong luận văn của mình, chúng tôi
sử dụng bản Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1976) để
nghiên cứu thế giới quan của Nguyễn Trãi.
+ Nhóm thứ hai là các công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp
của Nguyễn Trãi: Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi: nhân kỉ
niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất (của nhiều nhà nghiên cứu, Nxb Khoa
học, Hà Nội, 1963). Đây là những bài viết, những nhận định sâu sắc về
Nguyễn Trãi nhân kỷ niệm 520 năm ngày mất của ông – người anh hùng dân


4
tộc, nhà quân sự lỗi lạc thông qua thơ văn của ông; Văn chương Nguyễn Trãi
(Bùi Văn Nguyên, Nxb Đại học và trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội, 1984);
Kỉ niệm sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (của Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982). Đây là tập kỷ yếu của hội thảo
khoa học nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, gồm các bài
viết, tham luận của các giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học đọc tại hội thảo, trong
đó có rất nhiều đánh giá xác đáng về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của
Nguyễn Trãi; Sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (của nhiều tác giả, Nxb thành
phố mới hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 1980); Tư tưởng Nguyễn Trãi trong
tiến trình lịch sử Việt Nam (Võ Xuân Đàn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
1996). Công trình này đưa đến một cái nhìn khái quát về tiến trình lịch sử
Việt Nam và vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi; Nguyễn Trãi cuộc đời và sự

nghiệp (Trần Huy Liệu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000). Cuốn sách tái
hiện lại bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, gia đình,
thân thế, sự nghiệp và các hoạt động của Nguyễn Trãi; nguồn gốc và nội dung
tư tưởng của Nguyễn Trãi, sự chỉ đạo chiến thuật trong thời kỳ kháng chiến
chống quân Minh và ý tưởng xây dựng đất nước của ông; Nguyễn Trãi và Nho
giáo, Nguyễn Trãi và văn hóa Việt Nam trung cận đại (Trần Đình Hượu, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000). Các công trình nghiên cứu này chủ yếu tìm
hiểu về cuộc đời, sự nghiệp về thế giới quan của Nguyễn Trãi, chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần dân tộc, đạo đức trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Cuốn
“Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước” (Nguyễn Lương Bích, NXB Quân đội
nhân dân, 1973). Tác phẩm trình bày toàn bộ sự nghiệp đánh giặc, cứu nước
và những hoạt động của Nguyễn Trãi trong suốt 15 năm từ khi chiến thắng
giặc Minh đến lúc ông mất. Nội dung trong tác phẩm thể hiện ở những điểm
sau. Thứ nhất, Nguyễn Trãi là một người yêu nước, thương dân. Ông tận
trung với nước, tận hiếu với dân. Đây là tư tưởng về đạo làm người lớn, hiếm
thấy trong thời đại trước. Thứ hai, Nguyễn Trãi không chỉ là nhà tư tưởng


5
quân sự mà ông còn là một nhà chính trị lỗi lạc.Tư tưởng chính trị của ông
ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng chính trị thời kỳ ông sống và cho đến tận
ngày nay. Thứ ba là, Nguyễn Trãi là một nhà yêu nước tha thiết, đồng thời là
một nhà dân chủ chính trị kiên cường. Ở ông, tư tưởng đi kèm với hành động.
- Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí: Nhân cách nhà Nho
trong con người Nguyễn Trãi, của Nguyễn Văn Bình, Tạp chí Triết học số 4
(104), T8 – 1998; Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, của Doãn Chính,
Tạp chí Triết học số 9 (220), 2009, Nguyễn Bá Cường (2013), Con người
trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Tạp chí Triết học, số 7 (266), tr. 61 – 67, Nguyễn
Bá Cường (2013), Quan niệm về tự nhiên trong tư tưởng của Nguyễn Trãi,
Tạp chí Khoa học xã hội tp Hồ Chí Minh, số 9 (181), tr. 6-12

Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp
văn thơ và tư tưởng của Nguyễn Trãi, rất ít công trình nghiên cứu chuyên về
tư tưởng thế giới quan của Nguyễn Trãi. Vì vậy, trên cơ sơ kế thừa và phát
triển những thành quả của các nhà nghiên cứu trước đó, nhưng do điều kiện
hạn chế, nên chúng tôi chỉ nghiên cứu thế giới quan của Nguyễn Trãi qua tác
phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập”.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Phân tích, làm rõ nội dung thế giới quan trong tư tưởng
Nguyễn Trãi thông qua hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm
thi tập”, từ đó đưa ra đánh giá về thế giới quan của Nguyễn Trãi.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu điều kiện, tiền đề hình thành thế giới quan của Nguyễn
Trãi.
- Phân tích nội dung các quan niệm trong thế giới quan của Nguyễn
Trãi.


6
- Đưa ra một số giá trị về thế giới quan của Nguyễn Trãi
4. Cơ sở lí luận và phạm vi nghiên cứu
* Cơ sở lí luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận Mácxít để nghiên
cứu những quan điểm, quan niệm trong thế giới quan của Nguyễn Trãi.
* Phạm vi nghiên cứu: trong luận văn của mình, chúng tôi nghiên cứu
thế giới quan của Nguyễn Trãi thông quan hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh
tập” và “Quốc âm thi tập”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu của khoa học xã
hội, phương pháp Logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp… để
hoàn thành nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn

* Về mặt lí luận: Luận văn chỉ ra và phân tích nội dung các quan niệm
về thế giới quan của Nguyễn Trãi, góp phần nghiên cứu cơ bản lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV.
* Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tham khảo cho những nghiên
cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi nói riêng, và nghiên cứu về tư tưởng
triết học Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm hai chương, sáu tiết.





7
NỘI DUNG
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CƠ BẢN HÌNH THÀNH THẾ GIỚI
QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1 Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội Đại Việt cuối
thế kỳ XIV đầu thế kỷ XV
Trải qua các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, triều đình phong kiến
tuy có lúc hưng lúc suy, song nhìn chung nó có những bước phát triển mạnh
mẽ, nhà nước phong kiến ngày càng được củng cố và trưởng thành về mọi
mặt, đặc biệt giai đoạn nhà Trần được đánh giá là một trong số thời kỳ hưng
thịnh của triều đại phong kiến.
Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIV, địa vị thống trị của nhà Trần có dấu
hiệu lung lay, xã hội bước vào giai đoạn khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực.
Về kinh tế, sau một thời gian phát triển, chế độ điền trang thái ấp và
chế độ nông nô, nô tỳ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Mặt khác, sự phát triển của địa chủ làm lung lay chế độ điền trang thái ấp.

Bên cạnh đó, từ giữa thế kỷ XIV, nước ta liên tiếp gặp thiên tai mất
mùa, nạn đói thường xuyên xảy ra, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ.
Theo tài liệu sử học ghi chép: nạn đói thường xuyên diễn ra, đặc biệt vào
những năm 1358; 1362; 1370; 1375, “chết đói nhiều nơi, triều đình phải kêu
gọi nhà giàu, các phủ nộp thóc để chuẩn cứu dân nghèo”. Ngô Thì Sĩ phải thốt
lên rằng “Mười năm năm đã sáu lần nhật thực, ba lần thủy tai, ba lần hạn hán,
một lần sâu cắn lúa, lại luôn năm mất mùa đói kém. Đến đây từ mùa xuân đến
mùa thu nào là núi lở, nào là động đất, không tháng nào không có tai biến”.
[15; 284].
Về chính trị - xã hội, tầng lớp quý tộc nhà Trần từ vua cho đến vương
hầu, quan lại sa vào ăn chơi sa đọa, chỉ lo bóc lột, vơ vét của nhân dân để
sống xa hoa, phóng túng. Trong khi đó, nông dân bị bóc lột tô thuế, lao dịch


8
nặng nề, ruộng đất bị địa chủ cướp. Điều này làm cho mâu thuẫn trong xã hội
trở nên gay gắt. Các cuộc khởi nghĩa xảy ra ở nhiều nơi, tuy thất bại, song đã
giáng những đòn đả kích quyết liệt vào nền thống trị của nhà Trần, vào chế độ
điền trang thái ấp và chế độ nông nô, nô tỳ.
Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng xuất hiện nhiều biến động. Phật giáo
sau một thời gian hưng thịnh đã bắt đầu suy thoái cùng với đó là sự ủng hộ
nhà chùa thái quá của triều đình. Những công thần như Trương Hán Siêu, Lê
Quát … bắt đầu công kích thế lực Phật giáo, tố cáo việc dựng chùa quá nhiều,
lãng phí nhân lực, vật lực, các ông muốn “dùng đạo Thánh để giáo hóa dân
chúng” nhưng không được Trần Minh Tông chấp thuận. Đến thời kỳ của Trần
Dụ Tông đã xây dựng xã hội theo mô hình của Nho giáo nhưng mang tính
chất kỳ thị, thay thế thái độ mềm dẻo bằng một thái độ cứng ngắc, thay thế
tinh thần khoan dung bằng một tinh thần nghiêm khắc, thay thế tinh thần hòa
đồng tự do bằng một tinh thần độc tôn.
Như vậy, tính đến cuối thế kỷ XIV, tình hình kinh tế - xã hội nhà Trần

đã khủng hoảng nay lại càng khủng hoảng hơn. Tình thế này đặt ra một yêu
cầu cấp thiết cần phải thủ tiêu chế độ điền trang thái ấp và quan hệ nông nô,
nô tỳ, thay đổi về đường lối trị nước để mở đường cho chế độ phong kiến tiến
lên một giai đoạn mới, cao hơn.
Trong hoàn cảnh đó, năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, dựng
triều Hồ, tiến hành cải cách về mọi mặt.
Hồ Quý Ly thi hành chính sách hạn điền hạn nô và thanh lọc sư tăng,
bắt nhà sư chưa đến năm mươi tuổi phải hoàn tục. Về ruộng đất, Hồ Quý Ly
ra quy định “Đại vương, trưởng công chúa không có hạn đình, dưới đến thứ
dân không được có quá mười mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép lấy
ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công” [15] .


9
Với chính sách này Hồ Quý Ly đã thu hẹp thế lực của quý tộc tôn
thất, phân tán quyền chiếm hữu ruộng đất của một số đại địa chủ, giải phóng
cho nông nô và nô tỳ trở thành những người dân được sử dụng đất công, tạo
đà cho sản xuất.
Ngoài ra Hồ Quý Ly còn tiến hành cải cách thuế, kiểm kê tài sản, cải
cách tiền tệ, phát hành tiền giấy. Những cải cách này đã tác động mạnh vào sở
hữu của quý tộc, địa chủ, làm suy yếu tầng lớp thương nhân.
Về văn hóa , tư tưởng, Hồ Quý Ly vừa muốn thanh lọc Phật giáo, vừa
muốn phê phán, xét lại Nho giáo, nhưng ông cũng chưa xây dựng được ý thức
hệ mới, làm cốt lõi cho nền văn hóa Việt Nam. Ông cho mở khoa thi đầu tiên,
Nguyễn Trãi ra thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ). Sau khi thi đỗ, Nguyễn Trãi
được Hồ Quý Ly trao chức Ngự sử đài chánh chưởng.
Những cải cách của Hồ Quý Ly mang tính nửa vời, thiếu triệt để,
không giải quyết được đời sống cực khổ của nhân dân, đặc biệt là bộ phận
nông dân, nông nô, không cố kết được nhân tâm, không lấy được lòng dân.
Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Họ Hồ dùng gian trí để cướp lấy nước, lấy gian trí

để hiếp lòng dân. Lệnh sao ban bố mà mọi người oán nỗi thương sinh, việc di
dân thi hành mọi người kêu bề thất sở. Gia dĩ thuế mà phiền, giao dịch nặng,
pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm, chỉ vụ ích kỷ, phì gia, chẳng nghĩ khổ dân,
lại nước, yêu gần vị tình riêng. Họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu
nhân mà nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt
giết. Người trung phải khóa miệng, kẻ lương thiện thì ngậm oan” [15; 237].
Sự thất bại của hai triều đại Trần – Hồ cho thấy vai trò to lớn của nhân
dân trong việc dựng và giữ nước. Bên cạnh đó là vai trò của nhà cầm quyền,
của quan lại trong việc hoạch định đường lối trị nước, nhằm đem lại cuộc
sống bình yên cho nhân dân và sự vững chắc của triều đại. Điều này đã được


10
Nguyễn Trãi nhận thấy và hoạch định trong “Bình ngô sách” dâng cho Lê Lợi
sau này.
Trước tình hình đất nước ngày càng rối ren do nhà nước và các tầng
lớp trong xã hội không có lợi ích thống nhất, năm 1406, quân Minh mang
quân sang xâm lược nước ta. Từ năm 1407 đến năm 1427, nhà Minh chính
thức đặt ách thống trị lên nước ta. Về chính trị - xã hội, chúng đổi tên nước ta
thành quận Giao Chỉ, tổ chức chính quyền gồm ba ty, lệ thuộc trực tiếp vào
triều đình nhà Minh. Bên cạnh đó, chúng ra sức đào tạo đội ngũ tay sai người
bản xứ gọi là thổ quan, nhằm phục vụ đắc lực cho việc áp bức, bóc lột nhân
dân ta.
Về kinh tế, chúng đặt ra vô số thứ thuế nặng nề đánh vào mọi hạng
người và mọi nghề nghiệp. Chúng nắm độc quyền mua bán một số ngành
nghề quan trọng như nghề làm muối. Ngoài ra, chúng còn bắt nhân dân ta đi
phu, đi lao dịch nhằm khai thác nguồn tài nguyên của đất nước.
Về văn hóa, chúng thủ tiêu nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta, đồng
thời tiến hành đồng hóa về mặt phong tục, tập quán. Chúng bắt nhân dân ta
thay đổi cách ăn mặc, phong tục tập quán theo phong tục và lễ giáo của nhà

Minh. Đối với Phật giáo, Đạo giáo chúng đốt kinh, sách, tuyên truyền mê tín
dị đoan trong nhân dân.
Về giáo dục, nhà Minh ra sức hạn chế việc học, việc thi, biến nhà
trường thành nơi đào tạo tay sai, phục vụ cho chính quyền đô hộ.
Dưới ách đô hộ của nhà Minh, xã hội Đại Việt bị kìm hãm sự phát
triển, đời sống nhân dân lâm vào tình trạng lầm than, cơ cực. Điều này làm
cho nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, như cuộc khởi nghĩa của Phạm Trân - một
thổ hào ở Đông Triều (Hải Dương) đã lãnh đạo nhân dân nổi lên lập Trần
Nguyệt Hồ làm vua, và tổ chức quân khởi nghĩa gọi là “Trung nghĩa Quân”.
Khởi nghĩa của Trần Giản Định (1407 – 1409) - một tôn thất nhà Trần, nổi


11
lên khởi nghĩa ở Yên Mô (Ninh Bình), sau lui về Nghệ An, được hào kiệt
khắp nơi theo về hưởng ứng rất đông, trong đó có cả những cựu thần nhà Trần
như Đặng Tất, Trần Triệu Cơ đã làm quan cho nhà Minh cũng quay lại tham
gia nghĩa quân. Tuy các cuộc khởi nghĩa đều thất bại song nó đã khơi gợi tinh
thần yêu nước trong nhân dân, đồng thời cho thấy sự khủng hoảng trong việc
tìm ra người có đủ đức, đủ tài đánh giặc cứu nước.
Năm 1396, khởi nghĩa Lam Sơn (Thanh Hóa) nổ ra, đã được toàn thể
nhân dân hưởng ứng. Khởi nghĩa đã tập hợp được những hào kiệt trong nước
tham gia. Trải qua hơn ba mươi năm chiến đấu gian khổ, năm 1427, khởi
nghĩa giành thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế, lập ra
nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền, lấy tên nước là Đại Việt. Đây là
một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình từ nền quân chủ quý tộc
thời Lý – Trần, mang đậm tính Phật giáo, sang nền quân chủ tập quyền thời
Lê sơ. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là chiến thắng của sự gắn bó sâu sắc và
kết hợp hài hòa trong thể thống nhất của tướng lĩnh với quân dân, của tập thể
anh hùng và toàn thể dân tộc, mà đứng đầu là Lê Lợi, và người tham mưu kiệt
xuất Nguyễn Trãi. Sau khi giành thắng lợi, Nguyễn Trãi tiếp tục cống hiến

sức mình giúp Lê Lợi xây dựng và quản lý đất nước.
Về mặt hành chính: Lê Thái Tổ chia đất nước thành năm đạo, sau đó
Lê Thái Tông cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi thành 13 thừa tuyên), đứng
đầu là các tuyên phủ sứ. Số lượng được bổ sung thông qua các kỳ thi. Như
vậy, chế độ phong kiến phân quyền quý tộc bị thủ tiêu, thay vào đó là chế độ
phong kiến trung ương tập quyền. Vua là biểu hiện tối cao của quyền lực, là
người toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong việc trị nước thì dựa
trên học thuyết của Nho giáo, bài xích Phật giáo và Đạo giáo, bên cạnh mặt lễ
giáo, các vua thời Lê Sơ còn rất chú trọng đến việc chế định pháp luật. Thời
kỳ này, nhà vua Lê Thánh Tông đã ban hành bộ luật Hồng Đức.


12
Song song với việc kiện toàn nhà nước về mặt hành chính, nhà nước
Lê sơ còn tiến hành cải cách về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Về kinh tế: Nhà
Lê kế thừa những cải cách của Hồ Quý Ly, hạn chế tối đa sự tồn tại và hình
thành của những điền trang, bằng cách ban hành chế độ lộc điền trong triều
đình và chế độ quân điền ở làng xã. Điều này đã góp phần tích cực làm ổn
định kinh tế tiểu nông, hạn chế việc phân hóa ruộng đất. Về thủ công nghiệp,
chủ yếu mở rộng quân xưởng chuyên sản xuất tiền tệ, vũ khí, đồ trang sức,
xác lập một nền sản xuất bao cấp. Về thương nghiệp, thi hành chính sách ức
thương.
Về văn hóa thì xa rời vốn liếng dân gian. Từ sách giáo khoa, việc học,
việc thi, việc “bảng vàng bia đá đề danh”, cho đến âm nhạc, mỹ thuật đều
nhất nhất mô phỏng theo thể chế nhà Minh.
Chính sách cai trị như vậy gây ra sự tranh giành địa vị, nạn tham ô
diễn ra ở nhiều nơi. Nhân dân lao động chưa vui mừng được bao nhiêu thì lại
phải hứng chịu sự vơ vét của quan lại và triều đình, trong hoàn cảnh này xuất
hiện một nhà tư tưởng lớn – Nguyễn Trãi. Tư tưởng của ông vượt qua ranh
giới của giai cấp, vượt lên trên tư tưởng của đại đa số các nhà Nho lúc bấy

giờ, để hướng tới con người, tới những người lao động cực khổ. Ông dành hết
cuộc đời mình đấu tranh chống bọn giặc cướp nước, chống bọn quan lại tham
ô, kêu gọi trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với nhân dân, trách nhiệm xây
dựng một xã hội tốt đẹp như xã hội Nghiêu, Thuấn.
1.2 Tiền đề tƣ tƣởng hình thành thế giới quan của Nguyễn Trãi
1.2.1 Khái luận chung về thế giới quan
Theo Từ điển Triết học Nga (chủ biên: Rodentan), Nxb Sự thật 1976
thì “Theo nghĩa tổng quát nhất, thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về
thế giới, về các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, các quan điểm triết học,
xã hội, chính trị, mỹ học, khoa học” [42; 960].


13
Giáo trình Triết học Mác – Lênin: “Thế giới quan là toàn bộ những
quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và
vị trí của con người trong thế giới đó” [2; 12].
Cuốn Triết học, hỏi và đáp của Trường Đại học Quốc gia Lômônôxốp
(Trần Nguyên Việt dịch), Nxb Đà Nẵng 2004, không đưa ra một khái niệm cụ
thể về thế giới quan. Nhưng trong chương “Con người trong vũ trụ: bức tranh
của triết học, của tôn giáo và khoa học thế giới” đã cho rằng “Cơ cấu của sự
hiểu biết thế giới có thể được hiểu là sự thống nhất bốn yếu tố: nguyên tắc
xuất phát của hệ thống hóa tri thức về thế giới, và về con người, phương thức
hay phương pháp nhận thức chỉnh thể, cơ sở triết học và định hướng thế giới
quan, đạo đức” [43; 171].
Công trình Luận án tiến sĩ “Thế giới quan trong triết học Trung Quốc
cổ đại”(2002) của Nguyễn Văn Vịnh đưa ra định nghĩa về thế giới quan như
sau: “Thế giới quan triết học là hệ thống lý luận về tồn tại và vận động của thế
giới khách quan, mang tính định hướng cho con người trong hoạt động thực
tiễn” [55; 20].
Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ

biên cũng phân tích khá rõ về thế giới quan triết học Việt Nam, chỉ rõ sự khác
biệt của thế giới quan triết học Việt Nam so với thế giới quan của triết học
phương Tây. Theo đó, “thế giới quan triết học Việt Nam thuộc loại thế giới
quan phức hợp, nó khác với thế giới quan phương Tây bởi nó là một thể kết
hợp Nho, Phật, Đạo”. “Thế giới quan triết học Việt Nam khác với các thế giới
quan khác. Nó nặng về các vấn đề xã hội và nhân sinh mà nhẹ về các vấn đề
tự nhiên và các hình thức của tư duy con người, nó chú trọng xây dựng lý lẽ
cho chính trị - xã hội và luân lý hơn là xét mối quan hệ giữa các chủ thể và
khách thể, giữa các thành phần của tư tưởng để hình thành nhận thức luận và
logich học, nó thiên về giáo dục đạo làm người hơn là cung cấp cho con
người những nhận thức mới mẻ về thế giới giới khách quan bên ngoài cũng


14
như thế giới nội tâm, nó thường xuất phát từ những định đề có sẵn hơn là từ
sự phát triển của thực tế khách quan để khái quát lên thành các nguyên lý
khác trước làm cơ sở cho luận chứng,…” [35; 22-23].
Trên cơ sở đưa ra các định nghĩa về thế giới quan trong dòng lịch sử
tư tưởng nhân loại, chúng tôi lấy định nghĩa “thế giới quan là toàn bộ những
quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và
vị trí của con người trong thế giới đó” làm cơ sở để từ đó tìm hiểu rõ hơn về
thế giới quan trong tư tưởng của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai tác phẩm
“Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tâp”.
1.2.2. Ảnh hưởng của truyền thống dân tộc đến thế giới quan của
Nguyễn Trãi
Chủ nghĩa yêu nước, ý thức về một dân tộc độc lập, có chủ quyền
được hình thành trong mỗi con người Việt Nam, trở thành tư tưởng chủ đạo
trong dòng chảy tư tưởng triết học Việt Nam. Tinh thần đó được thể hiện qua
các câu chuyện thần thoại về Thánh Gióng đánh giặc Ân, truyền thuyết Mỵ
Châu – Trọng Thủy; hay các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu,

của Lý Bí, Ngô Quyền… Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện trong khí tiết
khẳng khái của các anh hùng thời kỳ Lý – Trần. Tất cả chứng minh tinh thần
yêu nước, ý thức đoàn kết, đồng thời mang lại cho thế hệ con cháu những bài
học to lớn về nghệ thuật giành và giữ nước của cha ông.
Trong thời kỳ đó, cha ông ta đã hình thành quan niệm sơ khai về thế
giới quan, tiêu biểu trong số đó là quan niệm của Lý Thường Kiệt, thể hiện
qua bài thơ.
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rõ ràng phân định ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm


15
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”[15; 289]
Với trình độ nhận thức đương thời, Lý Thường Kiệt quy mọi sự về
mệnh trời. Ông cho rằng cơ sở để xác lập chủ quyền, ranh giới đó chính là ý
trời, mệnh trời. Lý Thường Kiệt đã khéo vận dụng tư tưởng mệnh trời để củng
cố niềm tin cho quân dân. Đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa quan niệm này
của cha ông, song đề cao hơn vai trò của con người trong cuộc đấu tranh
giành và giữ nước của dân tộc.
Tinh thần khoan dung, đạo lý nhân nghĩa, đặc biệt là tư tưởng lòng
dân và ý dân được coi là cơ sở của mọi quốc sách của mọi đất nước. Trong
Chiếu dời đô năm 1010, Lý Công Uẩn khẳng định việc dời đô là “trên vâng
mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu
dài, phong tục phồn thịnh” [56; 50]. Chiếu rời đô đánh dấu sự trưởng thành
trong tư duy chính trị Việt Nam, phản ánh ý chí, chủ quyền dân tộc.
Lý Thường Kiệt cũng khẳng định “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt
hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân” [44; 16].
Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn khẳng định nhân dân là cơ sở để
tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước “….khoan thư sức dân để làm kế

sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước” [14]. Như vậy, trong lịch sử tư
tưởng dân tộc, yêu nước đồng nghĩa với việc lấy ý dân làm gốc. Và đến với tư
tưởng Nguyễn Trãi chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, vì dân, ý dân
được ông tiếp thu và phát triển đến đỉnh cao.
1.2.3 Ảnh hưởng của Nho giáo đến thế giới quan của Nguyễn Trãi
Nho giáo là học thuyết do Khổng Tử sáng lập thế kỷ thứ 5 TCN. Sự
phát triển của Nho giáo trải qua các thời kỳ từ Nho giáo nguyên thủy (với các
tên tuổi tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử), đến thời kỳ Hán Nho (Đổng Trọng
Thư, Vương Sung), và đến thời Tống Nho (với tên tuổi của Chu Đôn Di,


16
Trương Tải, Trình Hạo,Trình Di) … dần dần đã biến đổi làm cho Nho giáo
trở lên phong phú, đa dạng so với hệ thống khác đương thời.
Vấn đề trọng tâm mà các nhà Nho ở các thời kỳ khác nhau quan tâm
đó chính là vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới, vạn vật và con người,
về sự vận động, biến hóa của vạn vật. Từ đó các nhà Nho đưa ra vai trò của
con người trong thế giới ấy, được biểu hiện qua các thuật ngữ mà các nhà
Nho sử dụng là trời, đất, càn khôn, mệnh trời, đạo.
Quan niệm của Nho giáo về nguồn gốc của thế giới, vạn vật. Trải qua
các thời kỳ khác nhau thì quan niệm của các nhà Nho chia làm hai quan điểm:
quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật.
Theo quan điểm duy tâm khẳng định nguồn gốc của thế giới, vạn vật
và con người “Vạn vật hồ thiên, nhân bản hồ tổ” nghĩa là thế giới, vạn vật có
nguồn gốc từ trời, gốc của con người là tổ tiên, mà tổ tiên của con người đều
có nguồn gốc từ trời. Như vậy gốc của thế giới, vạn vật và con người đều từ
trời.
Trên cơ sở đó, Khổng Tử trong tư tưởng của mình còn khẳng định
quyền năng của trời đất. Ông cho rằng trời là lực lượng hóa sinh ra muôn vật,
trời là thực thể có ý chí, có nhân cách và quyền năng vô hạn, tối cao. Số của

con người là do trời quyết định “Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời” [11].
Ông còn khẳng định tiêu chuẩn cơ bản để trở thành người quân tử là phải biết
“tri thiên mệnh, úy thiên mệnh”[11]. Bên cạnh đó, trời trong quan niệm của
Khổng Tử còn được hiểu như là quy luật của tự nhiên “Trời có nói gì đâu mà
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông xoay vần, vạn vật cứ sinh hóa mãi”[11].
Đến thời kỳ của Đổng Trọng Thư, quan niệm về trời tuy vẫn chịu ảnh
hưởng của các nhà Nho đi trước, nhưng đã mang tính chất duy tâm thần bí và
yếu tố cực đoan. Ông khẳng định “Trời là tổ của vạn vật, vạn vật không có
trời thì không sinh. Trời làm ra cái tính mệnh của con người, khiến người làm


17
điều nhân nghĩa”. Ông cho rằng trời đất sinh ra vạn vật để nuôi sống con
người. Hình dáng, tinh thần, đạo đức của con người đều do trời tạo ra theo
hình mẫu của trời “Cái đầu tròn của con người là tượng dung mạo của trời,
tóc là tượng các vì sao, tai mắt tượng mặt trời, mặt trăng, mũi miệng là tượng
gió, mưa. Lòng tốt, lòng xấu của con người là tương hợp với sự nóng lạnh,
ẩm ráo của trời”. Từ đây ông có quan niệm cực đoan khi cho rằng mọi hiện
tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội là biểu hiện của sự vui
buồn, mừng giận và là sự trừng phạt của trời.
Thời kỳ Tống Nho, đại diện tiêu biểu là Trình Hạo, Trình Di và Chu
Hy, với quan niệm về “lý” và “khí”. Nhị Trình đều đồng nhất “lý” với “trời”
“trên trời chỉ có một lý”, “cái gọi là trời chính là lý vậy”. Hai ông cho rằng
trời – “lý là cái tuyệt đối vĩnh cửu, ta không thể thêm bớt, không thể sờ thấy
cũng không thể nghe thấy, nhưng nó vẫn tồn tại. Lý như là hư không, chẳng
có gì mà lại đủ cả, cái ấy làm sao nói được còn mất, thêm bớt” [39]. Từ đây
hai ông khẳng định vũ trụ, giới tự nhiên, con người không chỉ có nguồn gốc
từ trời, mà bị chi phối bởi trời.
Tiếp tục phát triển tư tưởng của Nhị Trình về “lý” và “khí”, Chu Hy
cho rằng “lý” là nguồn gốc, là cơ sở tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng trong

vũ trụ. Cho nên loài người và muôn vật sinh ra phải bẩm thụ cái lý, cái khí ấy,
sau đó mới có hình và thể của người và muôn vật. “Lý” là cái bản nguyên, cái
có trước của trời đất, vạn vật.
Như vậy tư tưởng của đa số các nhà Nho từ thời kỳ của Khổng –
Mạnh qua thời kỳ Hán nho, Tống nho đều khẳng định thế giới vạn vật và con
người đều có nguồn gốc từ trời.
Đối lập với quan điểm duy tâm, một số nhà Nho theo quan điểm duy
vật có những lý giải khác về nguồn gốc của thế giới, van vật và con người.


18
Theo Kinh Dịch, nguồn gốc của thế giới vạn vật và con người được lý
giải như sau: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quát, bát quát sinh vạn vật, trong đó thái cực được hiểu là cực lớn, là
cái hỗn độn ban đầu, được gọi là khí, lưỡng nghi trong đó một nghi là những
khí đục, nặng rơi xuống tạo thành đất (âm), còn nghi kia là những khí nhẹ,
trong, lơ lửng trong không trung hợp thành trời (dương). Sự kết hợp âm
dương tạo ra vạn vật, con người. Trong Kinh dịch còn ghi có trời đất rồi mới
có muôn vật, có muôn vật rồi mới có gái trai, có gái trai mới có vợ chồng, có
vợ chồng mới có cha con, có cha con mới có vua tôi, từ đó mới có trên dưới,
và lễ nghĩa được.
Tuân Tử cho rằng toàn bộ thế giới gồm ba bộ phận “Trời có bốn mùa,
đất có sản vật, người có văn trị” [41], như vậy Tuân Tử cho rằng trời chỉ là
một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành biến hóa của
vạn vật. Đồng thời, ông khẳng định con người không thể tùy tiện thay đổi quy
luật của tự nhiên mà con người nên nhận thức và tuân thủ theo quy luật của tự
nhiên, như vậy con người sẽ có được hạnh phúc “Trời không vì người ta ghét
cái lạnh mà bỏ mùa đông, đất không vì người ta ngại xa mà bỏ bề rộng” [41].
Điều này đã được Nguyễn Trãi đã tiếp thu trong tư tưởng của mình sau này.
Từ đây ông đưa ra quy luật phát triển của thế giới vạn vật: mọi vật trong tự

nhiên đều nằm trong quá trình phát triển từ thấp đến cao, con người có nguồn
gốc từ giới tự nhiên, đồng thời là thực thể cao nhất “nước lửa có khí nhưng vô
sinh, cỏ cây có sinh nhưng vô tri, cầm thú có tri những vô lễ nghĩa, con người
có khí, có tri, có sinh và có cả lễ nghĩa” [41].
Như vậy đến với tư tưởng của Tuân Tử thì thế giới quan của Nho giáo
đã được bổ sung và phát triển mang nhiều yếu tố duy vật trong việc giải thích
nguồn gốc của thế giới vạn vật và con người.


19
Quan niệm của các nhà Nho về sự vận động, biến hóa của thế giới
vạn vật. Đây được coi là nội dung chủ yếu trong thế giới quan Nho giáo. Về
quan niệm này, nhìn chung các nhà nho đều khẳng định vũ trụ, vạn vật luôn
vận động và biến đổi không ngừng. Khổng Tử cho rằng quá trình biến đổi của
vạn vật như dòng chảy không ngừng, không có điểm khởi đầu hay kết thúc
“Cũng như nước sông chảy đi, mọi vật đều qua đi không có gì ngừng nghỉ”
[11].
Khi bàn về nguồn gốc của sự vật động và biến hóa ấy, các nhà nho có
các tư tưởng khác nhau. Trong Kinh Dịch thì cho rằng nguồn gốc là do sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập “cương, nhu tương thôi nhi sinh
biến hóa”. Có nhà nho như Đổng Trọng Thư thì luôn khẳng định nguồn gốc
của sự vận động và biến hóa ấy là từ trời “thiên bất biến, đạo diệc bất biến”.
Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng nó thể hiện một bước tiến quan
trọng trong thế giới quan Nho giáo thời kỳ bấy giờ.
Quan niệm của Nho giáo về vị trí và vai trò của con người trong thế
giới. Với quan niệm này, chúng ta xem xét ở hai khía cạnh. Một là vai trò của
con người đối với trời đất và vạn vật. Trong quan niệm của các nhà Nho, con
người là một bộ phận cao nhất của tự nhiên, con người đứng trên vạn vật. Vì
vậy, vai trò của con người có thể sánh ngang cùng trời đất hóa sinh muôn vật.
Tuy nhiên để có được vị trí đó con người cần phải “biết thực hành đúng theo

đạo trời, mệnh trời, kính trời, phải bẩm thụ được đạo đức nhân, lễ, nghĩa, tín
mà trời ban cho”[4; 26]. Như vậy trong quan niệm của Nho giáo, vai trò của
con người chỉ có thể có khi con người phục tùng theo quyền uy tối cao của
trời, phải tuân theo đạo, theo mệnh trời “Lớn thay đạo của thánh nhân! Mênh
mông vô bờ bến, phát dục muôn vật, cao vút tận trời, đầy đủ mà dồi dào thay”
[11]. Mệnh trời trong quan niệm của Nho giáo chính là quyền uy tối cao, thể
hiện vai trò của trời với sự sinh thành và phát triển của vạn vật, con người,
cho nên cái tính, cái đức của con người, việc con người trở nên thiện nhân và


20
sang – hèn, sinh – tử … đều do trời quyết định. “Người quân tử căn cứ vào
địa vị của mình mà hành động, không được ham cái ở ngoài bổn phận. Ở địa
vị giàu sang thì làm theo cách giàu sang, ở địa vị nghèo hèn thì làm theo cách
nghèo hèn, ở thân di dịch thì phải chịu thân di dịch… Quân tử dù ở cảnh nào
cũng tự tìm thấy niềm vui của mình” [12].
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về vai trò của con người trong mối
quan hệ với trời về cơ bản mang tính duy tâm. Trước trời con người chỉ là lực
lượng thụ động, con người chỉ có giới hạn ở việc đem cái đạo, cái mệnh của
trời lưu hành khắp vũ trụ mà thôi. Đây là điểm hạn chế trong thế giới quan
Nho giáo. Nguyên nhân cơ bản xuất phát từ quan niệm phân biệt đẳng cấp của
xã hội lúc bấy giờ. Và đến với Nguyễn Trãi, ông đã đưa ra những tư tưởng
khắc phục điều này khi thấy được vai trò của con người tác động trở lại trời
đất, vũ trụ. Tuy nhiên, tư tưởng thiên – nhân hợp nhất vẫn là tư tưởng chủ đạo
trong thế giới quan Nguyễn Trãi.
Hai là vai trò của con người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản. Nho
giáo đưa năm mối quan hệ cơ bản trong xã hội, trong đó mối quan hệ vua –
tôi, cha – con, chồng – vợ là ba mối quan hệ rường cột của Nho giáo. Từ đây,
Nho giáo đưa ra những quy phạm, chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách
nhiệm của con người trong xã hội, mà các nhà Nho gọi đó là đạo làm người,

với năm đức chủ yếu: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy, tuy chịu ảnh hưởng của Nho
giáo song Nho giáo của Nguyễn Trãi là một thứ “Nho học khai phóng”, với
nhiều nội dung vượt lên trên Nho giáo chính thống, không còn mang tính chất
kinh viện nữa mà luôn gắn với thực tiễn xã hội Việt Nam, luôn xuất phát từ
lòng yêu nước, thương dân không biết mệt mỏi của Nguyễn Trãi. Điều đó đã
làm nên những mới mẻ, tiến bộ trong tư tưởng về thế giới quan của ông.


21
1.2.4 Ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo gia đến thế giới quan của
Nguyễn Trãi
* Phật giáo và thế giới quan của Nguyễn Trãi.
Phật giáo được ra đời vào thế kỷ thứ VI TCN, dựa trên nền tảng xây
dựng một học thuyết giúp con người tìm ra nguyên nhân và cách thức diệt của
nỗi đau khổ nhân thế.
Theo Phật giáo, thế giới này do danh và sắc kết hợp với nhau mà
thành. Hai yếu tố này liên hệ mật thiết với nhau, không có cái này thì cũng
không có cái kia và ngược lại. Vì mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên
sinh nên thế giới này sinh ra không nhớ một đấng sáng tạo nào, mà do nhân
quả nối tiếp nhau thành.
Từ đây, Phật giáo đưa ra quan niệm về vô thường, vô ngã, vô tạo giả,
trong đó, vô thường tức là mọi vật thường hằng, thường sinh, có diệt, biến
đổi, trôi chảy không ngừng, không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn, có sống tất
có chết. Sự biến đổi này theo chu kỳ “thành – trụ - hoại – không”. Từ đây,
Phật giáo đi đến khái niệm vô ngã, tức là không có cái tôi, cái ta. Thế giới
quan Phật giáo phủ định con người là sản phẩm của Barhman, và giải thích về
các yếu tố hình thành nên con người theo thuyết Danh – Sắc. Theo thuyết này,
con người được cấu tạo bởi hai yếu tố danh và sắc, hay vật chất và tinh thần,
trong đó danh chỉ yếu tố tinh thần, sắc chỉ yếu tố vật chất. Thuyết lục đại cũng

giải thích nguồn gốc hình thành con người bởi sáu yếu tố: Địa – Thủy – Hỏa –
Phong – Không – Thức, trong đó năm yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu
tố thứ sáu thuộc về tinh thần.
Thuyết Ngũ uẩn cho rằng con người được cấu tạo bởi năm yếu tố: Sắc
– Thụ - Tưởng – Hành –Thức.
Phật giáo đưa ra quan niệm về cuộc đời con người, cách thức giải thoát
cho con người trong Tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.


22
Như vậy, từ quan niệm về thế giới quan đên nhân sinh quan của Phật
giáo đều hướng con người đạt tới một trạng thái thanh tịnh, an nhàn, ung
dung, tự tại. Tuy nhiên khi du nhập vào Việt Nam, thế giới quan Phật giáo
mang thêm những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, thế giới quan Phật giáo mang tính dân gian, có sự giao thoa
với tín ngưỡng bản địa.
Thứ hai, thế giới quan Phật giáo là sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đời và
việc đạo.
Thứ ba, thế giới quan Phật giáo có mối quan hệ chặt chẽ với thế giới
quan Nho – Đạo, tạo nên sự dung thông tam giáo.
Vì lẽ đó “Phật giáo Việt Nam xuất phát từ dân gian, ăn sâu vào tâm
thức quảng đại quần chúng, trở thành một yếu tố tâm lý dân tộc, và vì vậy
mang tính dân tộc xuyên suốt lịch sử. Đó là một sự thực khách quan” [16;
19]. Và đây cũng là lí do để Nguyễn Trãi - một nhà Nho đã lựa chọn triết lý
của Phật giáo, nhằm đem lại cho ông sự thư thái cũng như một triết lí nhân
sinh mới bổ sung cho nhân cách của một nhà Nho. Sau hơn ba mươi năm,
Nguyễn Trãi thấy được sự đời không diễn biến như những gì sách thánh hiền
đã xây dựng. Những lí tưởng mà ông và các nhà Nho không quản ngại khó
khăn xây dựng lại quá xa vời. Ông nhận ra rằng mọi công danh chỉ là hão
huyền, tỉnh rồi phải có những quyết định dứt khoát cho bước đi tiếp theo của

cuộc đời. Vì vậy, ông tự nhủ mình hãy lui vào thủ phận, để tìm ra cho mình
phương pháp tu thân mới là Phật giáo, là đạo Lão – Trang chứ không phải là
Nho giáo nữa. Từ đây ông đưa ra lẽ sống cho mình là trước hết phải chú ý đến
hành thiện, bởi vì “họa phúc gây mầm không một chốc”, mà cả một quá trình
lâu dài. Sửa mình làm điều thiện, dù là việc nhỏ hay việc lớn – đây cũng
chính là tinh thần của Phật giáo, khuyên con người nên hành thiện để tạo ra

×