Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số vấn đề về người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.62 KB, 17 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề tranh chấp về thừa kế xảy ra
ngày càng nhiều, đòi hỏi sự phát triển sâu rộng của chế định về quyền thừa
kế. Việc nghiên cứu về quyền thừa kế có ý nghĩa quan trọng đối với lý luận
và thực tiễn. Đặc biệt, để giải quyết các vấn đề tranh chấp về thừa kế, cần xác
định được đâu là đối tượng có quyền hưởng thừa kế, đâu là đối tượng không
được quyền hưởng thừa kế. Để hiểu rõ hơn về những đối tượng được hưởng
hay không được hưởng quyền thừa kế, em xin chọn đề tài: “Một số vấn đề về
người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ
luật Dân sự”.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng bài làm của em vẫn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy
cô giáo để bài làm của em có kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. ĐỊNH NGHĨA NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
Người không được hưởng di sản được quy định trong Điều 643 BLDS
2005 gồm cả những người thuộc diện hưởng di sản theo pháp luật hay theo di
chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản do thuộc hàng thừa kế
của người để lại di sản hoặc là người đã được người lập di chúc cho hưởng di
sản nhưng bị pháp luật tước quyền hưởng di sản do có hành vi vi phạm
nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội bao gồm:
a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản;
1
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người
thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng;
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại


di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di
chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người
để lại di sản.
Tính trái pháp luật và trái đạo đức trong hành vi của người được thừa
kế phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc
bằng một quyết định. Mặt khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu
lực pháp luật bởi nó có thể bị sai sót hoặc có thể bị một cấp xét xử khác sửa
đổi hoặc hủy bỏ. Vì vậy, hành vi của một người thừa kế dù đã bị kết án bằng
một bản án thì vẫn chưa thể kết luận là người đó phạm tội và bị tước quyền
hưởng di sản được. Bản án hoặc quyết định đó chỉ được coi là căn cứ để tước
quyền hưởng di sản của người có tên trong di chúc khi đã có hiệu lực pháp
luật. Do đó, việc tranh chấp thừa kế trong những trường hợp này chỉ được tiến
hành giải quyết chừng nào bản án nói trên đã có hiệu lực pháp luật.
2. CÁC TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
2.1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe hoặc có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di
sản, xâm phạm nghiêm trong danh dự, nhân phẩm của người đó
(Điểm a Khoản 1 Điều 643 BLDS)
Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản
án có hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, người không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc không bị kết án thì sẽ không bị ràng buộc bởi điều này. Mặt
khác, nếu một người đã bị kết án, sau đó được xóa án tích thì vẫn không được
quyền hưởng di sản theo quy định tại điều này.
2
2.1.1. Người bị kết án về hành vi xâm phạm đến tính mạng của người
để lại di sản
Hành vi xâm phạm đến tính mạng là hành vi có khả năng gây ra cái
chết cho con người, chấm dứt sự sống của người đó, mà trong trường hợp này
là người để lại di sản.
Khi người thừa kế xâm phạm đến tính mạng của người để lại di sản thì

họ sẽ bị tước bỏ quyền hưởng di sản dù không vì động cơ trục lợi hay không
phải với mục đích để được hưởng di sản. Tuy nhiên, xét về mặt chủ quan thì
hành vi đó phải là lỗi cố ý. Nếu họ vô ý làm thiệt hại đến tính mạng của người
để lại di sản và dù đã bị kết án hình sự có hiệu lực pháp luật thì họ vẫn không
bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Tức là, hành vi cố ý xâm phạm đến
tính mạng của người để lại di sản phải là hành vi được thực hiện một cách trái
pháp luật. Những hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng của người để lại di
sản trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại đến
tính mạng của người để lại di sản do bị cưỡng bức về thể chất hoặc tinh thần...
hay trong trường hợp thi hành án tử hình thì người thực hiện hành vi không bị
pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Như vậy, trong trường hợp trên thì việc
xem xét hình thức lỗi của người có hành vi xâm phạm đến tính mạng của
người để lại di sản có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định người đó có
được hưởng di sản hay không.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là C, D, E.
Tháng 1/2006, do muốn nhanh chóng được hưởng di sản, C giết B và sau đó
đã bị Tòa án kết án về tội giết người theo Khoản 1, Điều 93 BLHS. Trong
trường hợp này, C là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của B. Nhưng C đã
có hành vi giết B, nên theo điểm a Khoản 1 Điều 643, C sẽ không được quyền
hưởng di sản của B. Cũng trường hợp này, nếu C giết B vì phòng vệ chính
đáng (B đang đe dọa và có những hành vi khẳng định rằng B muốn giết A) thì
C vẫn được hưởng thừa kế của B.
3
2.1.2. Người bị kết án về hành vi ngược đãi, vi phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản.
Sự ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của con
người là những hành vi cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng về nhân
phẩm, danh dự, mà trong trường hợp này là người để lại di sản. Đó là những
hành vi trái pháp luật, trái đạo đức thường được thực hiện thông qua hành
động như: Chửi mắng, nhục mạ, ghẻ lạnh... hoặc cũng có thể là hành động

hiếp dâm, mua bán người
(1)
để lại di sản… làm cho họ đau đớn về mặt tinh
thần, danh dự bị xúc phạm, giày vò và khốn khổ về mặt thể xác.
Tuy nhiên, như thế nào được coi là nghiêm trọng thì luật dân sự Việt
Nam chưa quy định và giải thích cụ thể bằng văn bản. Dù vậy, theo pháp luật
quy định thì người có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của người để lại di sản chỉ bị tước quyền hưởng di sản khi hành vi đó đã
bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, khi những hành vi
nói trên thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và đã bị kết án
thì hành vi đó đã hàm chứa trong nó tính chất nghiêm trọng. Nghĩa là bằng
việc truy cứu trách nhiệm hình sự và kết án hành vi nói trên, bản án hình sự
kết án người có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
người để lại di sản tự nó đã xác định tính nghiêm trọng của hành vi này. Cơ
quan có thẩm quyền khi giải quyết việc thừa kế trong trường hợp này không
cần xác định tính nghiêm trọng của các hành vi đó nữa mà có quyền tuyên bố
những người có hành vi đó không được quyền hưởng di sản.
Ví dụ: A có bốn người con là C, D, E, F. Từ năm 2007, do A luôn thiên
vị D, E, F nên C luôn xỉ nhục, miệt thị hạ thấp danh dự của A công khai trước
hàng xóm. Năm 2008, C bị Tòa án kết án về tội làm nhục người khác theo
Khoản 2, Điều 121 BLHS. Trong trường hợp này, C là người thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của A. Nhưng C đã bị Tòa án kết án về tội làm nhục A, nên theo
điểm a Khoản 1 Điều 643, C sẽ không được quyền hưởng di sản của B.
1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự, Hà Nội, 2010, tr. 323
4
2.2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản (điểm b Khoản 1 Điều 643 BLDS)
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản với người thừa
kế theo pháp luật khi người để lại di sản còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng,

chăm sóc nhau khi còn sống giữa các thành viên trong gia đình không những
là thông lệ của xã hội mà còn được pháp luật hôn nhân và gia đình ghi nhận.
Phổ biến nhất là quan hệ nuôi dưỡng nhau giữa cha – mẹ và con; anh, chị, em
ruột với nhau; ông – bà nội, ngoại đối với cháu...
Người thừa kế bị coi là có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng là người được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sau đây gọi tắt là
Luật HNGĐ 2000) xác định là có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó. Theo quy định trong Luật HNGĐ
2000 thì người thừa kế được xác định là người có nghĩa vụ cấp dưỡng người
để lại di sản trong những trường hợp sau:
2.2.1. Người để lại thừa kế là cha, mẹ hoặc con của họ
Theo Khoản 1 Điều 36 LHNGĐ 2000: “1. Cha mẹ có nghĩa vụ và
quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Như vậy, cha mẹ luôn là người thừa kế theo pháp luật đối với di sản do
con để lại. Tuy nhiên, cha mẹ sẽ không được hưởng thừa kế theo pháp luật
đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con
khi người con đó chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình.
Trong trường hợp thừa kế theo di chúc, cha mẹ có thể là người thừa kế
của con trong ba trường hợp sau: Con đã thành niên có năng lực hành vi dân
sự, con đã tròn 15 tuổi, con đã thành niên nhưng tàn tật (không mất năng lực
hành vi dân sự) lập di chúc và chỉ định cha, mẹ là người thừa kế di sản của
5
người con đó. Trong đó, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con (người để lại
di sản) trong hai trường hợp là: Con đã tròn 15 tuổi hoặc con đã thành niên
nhưng tàn tật (không mất năng lực hành vi dân sự). Như vậy, chỉ có thể tước
quyền hưởng di sản theo di chúc của cha, mẹ đối với di sản thừa kế của con

trong hai trường hợp này nếu họ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Theo Khoản 2 Điều 36 Luật HNGĐ 2000: “Con có nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật;
trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ”.
Như vậy, bổn phận của con là phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ trong
mọi trường hợp. Do đó, nếu con không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ
bất kể trường hợp nào thì khi cha, mẹ chết, người con đó không được hưởng
di sản thừa kế của cha, mẹ theo pháp luật.
Ví dụ: A có một người con là C. Năm 2006, anh C tròn hai mươi tuổi
và đang làm việc cho một công ty nước ngoài; còn A – cha của C – sức khỏe
đã bắt đầu giảm sút. Do công việc quá bận rộn nên C thường xuyên trốn tránh
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng A. Do không có ai chăm sóc, lại ở một mình
nên một thời gian sau, ông A qua đời. Trong trường hợp này, C đã vi phạm
nghiêm trọng Khoản 2 Điều 36 Luật HNGĐ. Theo Điểm b Khoản 1 Điều 643,
C sẽ không được hưởng di sản của A. Ngược lại, với giả định khác, nếu C bị
tàn tật nặng, cần phải có sự chăm sóc của người thân mà A cố tình bỏ mặc C
dẫn đến việc C chết thì đương nhiên, A cũng không được hưởng di sản của C.
2.2.2. Người để lại thừa kế là anh, chị hoặc em của họ:
Theo Điều 48 LHNGĐ 2000: “Anh, chị, em có bổn phận thương yêu,
chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau
trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”.
Như vậy, nếu trong trường hợp anh chị hoặc em của người để lại di sản
không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với người để lại di sản trong trường hợp
6

×