Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Một số đặc điểm Truyện Kiều dưới cái nhìn của một người Pháp qua bài viết Truyện Kiều và xã hội Á Đông của René Crayssac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.52 KB, 89 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRNH TH THANH HUYỀN



̣
T SÔ
́
ĐĂ
̣
C ĐIÊ
̉
M TRUYÊ
̣
N KIÊ
̀
U DƢƠ
́
I CA
́
I
NHN CỦA MỘT NGƢỜI PHP : QUA BA
̀
I VIÊ
́


T
“TRUYÊ
̣
N KIÊ
̀
U VA
̀
XA
̃

̣
I A
́
ĐÔNG”
CỦA REN CRAYSSAC



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam




Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRNH TH THANH HUYỀN



̣
T SÔ
́
ĐĂ
̣
C ĐIÊ
̉
M TRUYÊ
̣
N KIÊ
̀
U DƢƠ
́
I CA
́
I
NHN CỦA MỘT NGƢỜI PHP : QUA BA
̀
I VIÊ
́
T
“TRUYÊ
̣
N KIÊ

̀
U VA
̀
XA
̃

̣
I A
́
ĐÔNG”
CỦA REN CRAYSSAC


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Nho Thìn



Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan những luận điểm được trình bày trong Luận văn này là kết
quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này.


Người thực hiện


Trịnh Thị Thanh Huyền

















LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả sau thời gian học tập và nghiên cứu của tôi tại
khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc
gia Hà Nội. Để hoàn thành luận văn này, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến thầy – PGS.TS Trần Nho Thìn, người đã hết lòng giúp đỡ,
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn


Người thực hiện


Trịnh Thị Thanh Huyền
1

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục đích nghiên cứu
5
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
7
3.1. Cơ sở lý luận
7
3.2. Phương pháp nghiên cứu
7
4. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
8
6. Đóng góp của luận văn
8
7. Cấu trúc của luận văn
8

Chƣơng 1: Nhìn qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều và vấn đề
nghiên cứu so sánh
9
1.1. Lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều
9
1.2. Vấn đề nghiên cứu so sánh
17
Chƣơng 2: Vấn đề con ngƣời cá nhân và con ngƣời cộng đồng trong
Truyện Kiều………………………………………………………………
24
2.1. Con người trong văn học phương Đông nhìn từ góc độ lý thuyết…….
24
2.2. Ý kiến của René Crayssac về con người cá nhân qua bài viết
“Truyện Kiều và xã hội Á- Đông”
42
Chƣơng 3: Vấn đề thi pháp Truyện Kiều
53
3.1. Nhìn qua về đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam………….
53
3.2. Nhìn qua về lịch sử nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều………………….
61
3.3. Ý kiến của René Crayssac về thi pháp Truyện Kiều, thi pháp văn
học trung đại Việt Nam qua bài viết “Truyện Kiều và xã hội Á

70
2

Đông”…………………………………
KẾT LUẬN
79

PHỤ LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
81




















3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của
Việt Nam. Nó ăn sâu vào căn cơ văn hóa dân tộc, nó đi vào lối sống, vào các

câu ca, vào cả trong tiềm thức của con người Việt Nam. Truyện là tác phẩm
đỉnh cao của truyện Nôm, được viết bằng nghệ thuật điêu luyện nhất, và cũng
chứa đựng những giá trị hiện thực, nhân đạo vô cùng sâu sắc. Nội dung chính
của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của
Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái “sắc nước hương trời” và
có tài “cầm kỳ thi họa”. Ngay từ khi ra đời, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã
khẳng định được vị thế của mình trong tâm hồn dân tộc Việt Nam. Tác phẩm
đã trở thành mảnh đất lí tưởng cho bao nhà nghiên cứu tìm tòi, “đào xới”.
“Truyện Kiều từng là niềm say mê lớn trong hàng trăm năm, đối với hàng
triệu người. Truyện Kiều sẽ mãi mãi là một niềm say mê lớn”. Theo thống kê
của Trần Đình Sử, có khoảng 661 bài viết về Truyện Kiều. Truyện Kiều từ
trước tới nay đã được nghiên cứu trên rất nhiều phương diện: khảo đính, chú
giải, tìm hiểu khám phá những giá trị nội dung và nghệ thuật, dịch và giới
thiệu ra nước ngoài Trong quá trình tiến hành những nghiên cứu đó, các nhà
nghiên cứu chắc chắn không ít thì nhiều đều từng làm công việc so sánh.
Hiện nay, văn học so sánh đang là xu hướng phổ biến trong nghiên cứu
văn học, nhất là văn học trung đại. Vì trong mỗi thời kì văn học trung đại, các
nhà văn khi sáng tác dù bằng chữ Hán hay chữ Nôm cũng ít nhiều có sử dụng
nguồn văn liệu ngoại nhập. Văn hoá Trung Hoa và các nước quanh vùng trở
thành nguồn ảnh hưởng chủ yếu trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt
Nam nói riêng và các nước đồng văn nói chung. Nghiên cứu văn học Việt
Nam, đặc biệt là văn học viết, không thể không có cái nhìn của văn học so
sánh. Vì chỉ có so sánh mới có thể khẳng định được mức độ sáng tạo, trình độ
4

văn hoá, bản sắc dân tộc thể hiện trong tác phẩm. Chỉ có so sánh như thế mới
thấy đâu là tư tưởng của Nguyễn Du gửi gắm trong Truyện Kiều, đâu là sự
ảnh hưởng của văn hoá, văn học các nước vào sáng tác của ông. So sánh áp
dụng trong nghiên cứu Truyện Kiều có thể diễn ra theo nhiều hướng như sau:
So sánh các văn bản Truyện Kiều; so sánh Truyện Kiều với các tác phẩm văn

học trung đại trong nước; hoặc so sánh Truyện Kiều với các hiện tượng văn
học nước ngoài…[58]. Bất cứ phương pháp so sánh nào cũng đều rất cần
thiết cho việc nghiên cứu, đánh giá Truyện Kiều.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu Truyện Kiều từ góc độ so sánh: So
sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân; so sánh Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương của Hàn Quốc, so
sánh Truyện Kiều và Truyện Evgeny Onegin của Pushkin…Nhưng so sánh
Truyện Kiều với văn học Pháp thì chưa có công trình nghiên cứu nào thật sự
có ý nghĩa. Bài viết “Truyện Kiều và xã hội Á- Đông” có lẽ là công trình
nghiên cứu Truyện Kiều từ điểm nhìn so sánh với văn học phương Tây (Pháp)
đầu tiên ở Việt Nam. René Crayssac đã đặt Truyện Kiều trong tầm nhìn so
sánh văn hóa, văn học Đông- Tây để đưa ra những kiến giải mới lạ về Truyện
Kiều. Bài viết này của Crayssac tuy đã ra đời hơn 90 năm nhưng với điểm
nhìn so sánh mới lạ, những kiến giải của ông vẫn gợi mở ra những hướng
nghiên cứu mới, hấp dẫn, mới mẻ, có giá trị nhất định trong việc tiếp nhận
Truyện Kiều. Cho đến nay chưa có một ai đi sâu phân tích cụ thể, chi tiết vấn
đề nêu ra trong bài viết này, có rất nhiều luận điểm bài viết đưa ra, có thể là
những hướng tìm tòi mới cho việc tiếp nhận tác phẩm Truyện Kiều.
Tính cấp thiết và cái mới của đề tài này chính là khai thác nhận thức của
một trí thức phương Tây nửa đầu thế kỷ XX về Truyện Kiều- Tập đại thành
của văn học dân tộc từ điểm nhìn văn học so sánh Đông- Tây. Qua đó ta cũng
thấy được ý nghĩa vô cùng to lớn của phương pháp so sánh tác phẩm qua so
5

sánh liên văn hóa (chữ dùng của PGS.TS Trần Nho Thìn). Đồng thời, với
phương pháp so sánh này, luận văn cũng khái quát một số nét đặc trưng của
thi pháp văn học trung đại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu, bàn luận Truyện Kiều theo hướng so sánh hiện nay
không còn là việc làm mới, đã có không ít công trình nghiên cứu lớn nhỏ bàn

về điều này. Nhưng các công trình này đều thể hiện cái nhìn của người Việt
Nam đương đại, mà ý thức về văn hóa và văn học dân tộc của lớp người Việt
đương đại có phần khác với điểm nhìn của các thế hệ phê bình văn học trước
Cách mạng tháng Tám. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng
lợi đã mang lại sự tự tin và niềm tự hào dân tộc, từ đó, xuất hiện xu hướng tìm
kiếm và khẳng định văn học trung đại Việt Nam có sự tương đồng với những
gì có trong văn học phương Tây, ví dụ như sự hiện diện của chủ nghĩa hiện
thực, của con người cá nhân…
Ta cần nói thêm: khái niệm văn học trung đại dùng ở đây nhằm chỉ nền
văn học Việt Nam truyền thống, nằm trong khung thời gian từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX. Nhưng nếu chỉ gọi tên nền văn học này dựa vào khung thời
gian mười thế kỷ như vậy thì rất khó xác định bản chất của nó vì ở những
thập niên cuối thế kỷ XIX, đã manh nha những yếu tố của nền văn học hiện
đại, trước hết là những yếu tố của nền văn học viết bằng chữ quốc ngữ, nền
văn học báo chí. Theo Giáo sư Lê Trí Viễn thì có thể ông thuộc những người
đầu tiên sử dụng khái niệm này. Trong mục Khái niệm văn học trung đại của
sách Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, ông cho hay chính nhà nghiên
cứu người Nga Niculin đã là người trước nhất dùng khái niệm “văn học trung
đại”, một khái niệm dựa trên cơ sở văn hóa trung đại. “Văn học trung đại
nằm trong văn hóa trung đại. Cách gọi ấy phát xuất trước tiên từ bản chất
của văn học, sau đó mới tới lịch sử, chính trị, xã hội ngụ trong khái niệm
6

trung đại” [54, 672]. Nhận thức này đã được nhiều nhà nghiên cứu tán đồng
và khái niệm “văn học trung đại” cho đến hôm nay đã được sử dụng rộng
rãi. Trong một cuốn sách gần đây, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cũng giải
thích ý nghĩa của cách định danh này một cách cụ thể: “Văn học Việt Nam từ
thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX” trong sách này còn được định danh là văn học
trung đại. Cách định danh như vậy không chỉ vì sự ngắn gọn mà chủ yếu vì lý
do học thuật. Khái niệm trung đại tự nó đã ẩn chứa một nghĩa so sánh với

khái niệm hiện đại, giúp người đọc nhớ đến đặc trưng có tính loại hình của
văn học trung đại vốn mang những đặc điểm của văn học phương Đông so với
văn học hiện đại vốn là sản phẩm của giao lưu văn hóa, văn học giữa phương
Đông và phương Tây [45, 7].
Trở lại với nội dung luận văn, chúng ta đều biết: điểm nhìn của nhà phê
bình có ý nghĩa to lớn đối với nội dung những vấn đề mà nhà phê bình nêu
lên. Cũng với mục đích tìm hiểu đặc điểm của Truyện Kiều dưới góc nhìn so
sánh, nhưng một nhà phê bình người nước ngoài hẳn sẽ quan tâm đến những
vấn đề không hoàn toàn tương đồng với những quan tâm của nhà phê bình
trong nước. Vấn đề quan tâm trong luận văn này là điểm nhìn rất riêng của
một độc giả phương Tây về Truyện Kiều và về thi pháp văn học trung đại Việt
Nam trong thế đối chiếu giữa văn học phương Đông và văn học phương Tây.
Ai cũng biết những năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn diễn ra tiến trình hiện đại
hóa nền văn học dân tộc. Trong mấy thập kỷ nửa đầu thế kỷ XX, giữa bối
cảnh ảnh hưởng văn hóa và văn học Pháp,nhà phê bình này đã chọn điểm
nhìn so sánh văn học trung đại Việt Nam với văn học phương Tây, lấy văn
học phương Tây làm hệ quy chiếu để đánh giá, phân tích văn học trung đại.
Cái nhìn so sánh Đông- Tây của ông đã đem đến những nhận thức rất khác lạ
về tác phẩm với các điểm nhìn khác. Qua bài viết của nhà phê bình này, người
ta đã phát hiện nhiều vấn đề của Truyện Kiều nói riêng và của nền văn học
7

trung đại Việt Nam nói chung nhờ có lý thuyết đọc của phương Tây mà cách
đọc theo lý thuyết phản ánh hiện thực cũ không thấy được. Tóm lại, tính cấp
thiết và cái mới của đề tài luận văn chính là khai thác những nhận thức của
một trí thức phương Tây nửa đầu thế kỷ XX về đặc trưng của văn học trung
đại Việt Nam (tác phẩm tiêu biểu “Truyện Kiều”) qua việc họ so sánh văn học
trung đại Việt Nam và văn học phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp.
3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận

- Lý luận văn học so sánh: Trước hết, luận văn điểm qua các ý kiến về văn
học trung đại của một số nhà phê bình Tây học giai đoạn 1900- 1945 trên cơ
sở liên hệ so sánh với văn học phương Tây, mà trước hết là văn học Pháp. Sau
đó, tìm hiểu, phân tích chi tiết bài viết “Truyện Kiều và xã hội Á Đông” của
René Crayssac dựa trên cơ sở so sánh văn hóa, văn học Đông- Tây. Qua phép
so sánh, luận văn chỉ ra một số đặc điểm của Truyện Kiều dưới điểm nhìn đặc
biệt của trí thức phương Tây, khái quát hơn là một số đặc trưng thi pháp trung
đại biểu hiện qua Truyện Kiều.
- Lý luận xã hội học: Mỗi tác phẩm văn học được viết lên trong một hoàn
cảnh xã hội nhất định và việc tiếp nhận bình phẩm tác phẩm ấy cũng thay đổi
theo từng giai đoạn lịch sử. Việc nghiên cứu tác phẩm từ góc nhìn xã hội học
sẽ cho ta những nhìn nhận đầy đủ nhất, cặn kẽ nhất về tác phẩm.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh văn hóa- văn học
-

P
hương p
h
áp phân tích, thống kê, tổng hợp, bình luận văn học
- Phương pháp lịch sử xã hội: Chú ý đến ngữ cảnh lịch sử, mục tiêu văn hóa
cụ thể của nhà phê bình phương Tây khi nhận xét về Truyện Kiều và về văn
học trung đại Việt Nam nói chung.
8

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Luận văn đặt vấn đề tìm hiểu ý kiến của
nhà phê bình Pháp trong ngữ cảnh giao lưu văn hóa Đông- Tây với tất cả
những cuộc tranh luận về Đông- Tây hồi đầu thế kỷ XX cả ở phương Đông và
Việt Nam, nhất là Việt Nam.
4. Đối tƣợng nghiên cứu

- Bài viết: “Truyện Kiều và xã hội Á Đông”- tạp chí Nam Phong, 1926.
- Một số đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam được tìm hiểu qua bài
viết.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Từ những kiến thức về văn học so sánh, luận văn phân tích những đặc điểm
của Truyện Kiều qua cái nhìn của một người Pháp. Qua đó cũng chỉ ra một số
đặc trưng tiêu biểu của thi pháp văn học trung đại Việt Nam.
6. Đóng góp luận văn
- Luận văn khai thác cụ thể ý kiến của René Crayssac về Truyện Kiều qua
cách nhìn so sánh văn học Đông- Tây
- Lý giải vì sao Réne Crayssac lại đưa ra những ý kiến nhận xét như vậy.
- Bước đầu nhận xét về ý kiến của René Craysac trên cơ sở lý thuyết văn học
so sánh.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở Đầu và Kết Luận, luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Nhìn qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều và vấn đề nghiên
cứu so sánh.
Chương 2: Vấn đề con người cá nhân và con người cộng đồng trong
Truyện Kiều.
Chương 3: Vấn đề thi pháp Truyện Kiều.

9

NỘI DUNG
Chƣơng 1: Nhìn qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều và vấn đề nghiên
cứu so sánh
1.1. Lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc Việt Nam với vị trí và tầm
vóc khó có ai sánh nổi. Tên tuổi và sự nghiệp của ông được thế giới biết đến
nhiều nhất trong số tất cả các nhà thơ Việt Nam, bởi một lẽ đơn giản ông là

người thể hiện tài hoa nhất tính dân tộc và tâm hồn Việt. Trong số các tác
phẩm của Nguyễn Du Truyện Kiều là kiệt tác hết sức đặc biệt, vừa mang tính
văn chương bác học, vừa mang tính phổ cập bình dân, vì thế được đông đảo
quần chúng hơn hai thế kỷ qua nồng nhiệt đón nhận và nhiều thế hệ các nhà
nghiên cứu không ngừng bình luận, khám phá.
Trong các hướng nghiên cứu Truyện Kiều, việc so sánh Truyện Kiều với
Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thu hút khá nhiều ý kiến từ
giới phê bình bởi cả hai tác phẩm đều thuộc nền văn học phương Đông, đều
mang những đặc điểm chung của nghệ thuật phương Đông. Hơn nữa nền văn
học Trung Hoa và Việt Nam xưa nay luôn có sự giao lưu, tiếp thu và ảnh
hưởng lẫn nhau, vì thế xoay quanh hai tác phẩm này luôn đặt ra những vấn đề
so sánh để khẳng định nét riêng và nét chung trong nền văn học của mỗi
nước. Đa phần các nhà phê bình đều so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều
Truyện ở các phương diện: chủ đề, cốt truyện, nhân vật…
Điều mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là Nguyễn Du sáng tác Truyện
Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của một tiểu thuyết chương hồi Trung
Quốc ra đời khoảng cuối Minh đầu Thanh- Kim Vân Kiều truyện. Nhưng các
nhà nghiên cứu đã khẳng định hết sức đúng đắn: đây không phải là hiện tượng
dịch văn học mà là sự sáng tạo mới, là hiện tượng “hoán cốt đoạt thai”.
10

Khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Du khi mượn cốt truyện Kim Vân
Kiều truyện là điều đã được giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm tìm hiểu từ
khá lâu. Muốn hay không, việc so sánh hai tác phẩm đã được đặt ra và thực
hiện ở các mức độ khác nhau. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu so sánh này dẫu sơ
lược, là rất hữu ích vì từ điểm nhìn so sánh, ta có điều kiện hiểu biết sâu hơn
về Truyện Kiều.
Người thuộc lớp đầu tiên đưa ra những quan sát so sánh Truyện Kiều với
văn học Trung Quốc (chứ không riêng gì Kim Vân Kiều truyện) có lẽ là Phạm
Quỳnh. Trong bài diễn thuyết năm 1924 (sau đó đăng trên tạp chí Nam

Phong, số 86/ 1924), ông nói : “Cứ thực thì Truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái
tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương
Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự
“kết cấu”. Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ văn nho nhỏ ngăn ngắn,
phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sánh kết cấu. Biên tập là cóp
nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành
một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt
được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế”. Phạm Quỳnh đã
nêu ra một vấn đề quan trọng nhưng rõ ràng những lời vắn tắt như thế không
đủ sức thuyết phục. Giai đoạn đầu tiên trong nghiên cứu so sánh thường chỉ
dừng lại ở những nhận xét đại loại như vậy.
Người đầu tiên có ý thức so sánh khoa học hai tác phẩm Truyện Kiều và
Kim Vân Kiều Truyện chính là Đào Duy Anh. Trong công trình nghiên cứu
Khảo luận về Kim Vân Kiều xuất bản năm 1943, ông đã so sánh khá chi tiết
cốt truyện để khẳng định “Nguyễn Du giữ nguyên sự tích của tiểu thuyết Tàu,
hầu như không thêm bớt chút gì” và đưa ra nhận xét về kết cấu na ná như của
Phạm Quỳnh “song nguyên văn thì tự thuật rườm rà, tỷ mỉ, kết cấu theo một
trật tự dễ dàng đơn giản, mà Nguyễn Du thì châm chước và sắp đặt lại thành
11

một tổ chức có giàn giã chặt chịa, có mạch lạc khít khao”[4, 343] . Nhưng
Đào Duy Anh đã tiến xa khi so sánh tỉ mỉ để chỉ ra những khác biệt quan
trọng giữa hai tác phẩm. Ông viết : “Ta phải nhận rằng Nguyễn Du đã hoán
cốt đoạt thai [5] Kim Vân Kiều truyện , mà tạo thành một tác phẩm hoàn toàn
mới. Nguyên văn thì tự thuật rất tỷ mỷ mà khô khan, chú ý đến những chi tiết
không quan hệ và hay tả thực những cảnh tượng dễ kích động tai mắt người
ta. Nguyễn Du thì tự sự rất vắn tắt gọn gàng, chỉ kể những việc quan trọng,
mà vừa tự thuật vừa nghị luận, khiến văn có hứng thú luôn. Phàm những đoạn
mô tả duy thực thô bỉ, những đoạn thuyết lý dông dài, ông đều bỏ cả, lại chú ý
đặc biệt về sự tả tình và tả cảnh Về tính tình của các nhân vật, thì những

người trong Kim Vân Kiều truyện vốn là những người gần với sự thực, những
người ta có thể tin rằng đã từng sống ở nước Tàu đồng thời với Kim, Vân,
Kiều. Nguyễn Du tuy không tả thực, nhưng lại là một tay tâm lý học sành, nên
đã biến hóa những người ấy thành những người không riêng gì của nước Tàu
bấy giờ mà chung cả mọi đời mọi xứ. Ta có thể nói rằng Nguyễn Du đã lý
tưởng hóa các nhân vật thành những nhân vật điển hình vậy”[4, 357]. Những
nhận xét khái quát trên đây đã nói được bản chất của sáng tạo Nguyễn Du nên
ta sẽ bắt gặp tinh thần của những nhận xét đó trong những công trình nghiên
cứu so sánh hai tác phẩm của các nhà nghiên cứu đi sau- chúng tôi không nói
là các công trình sau chịu ảnh hưởng. Chẳng hạn, ta có thể bắt gặp nhận định
khá tương đồng và có phần gay gắt, của Hoài Thanh năm 1949 :“Những con
người của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là những bộ xương. Nguyễn Du đã biến
những bộ xơng thành những con người thực. Nguyễn Du đã biến thành yêu,
ghét, giận , hờn, cái điều ở Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là ý yêu, ý ghét, ý giận, ý
hờn. Nguyễn Du đã truyền sức sống vào trong bức vẽ” [38, 475]. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Lộc cũng có những nhận xét tương đồng với Đào Duy Anh:
“Nguyễn Du đã bỏ đi những chi tiết kể lể dài dòng, những đoạn miêu tả có
12

tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhiều khi thô bỉ, có hại đối với mỹ cảm người
đọc, và không nhằm phục vụ cho chủ đề của tác phẩm. Đồng thời nhà thơ
thêm vào đó rất nhiều đoạn tả cảnh, tả tình nhằm nêu rõ tính cách và tâm
trạng nhân vật Ngay cả khi Nguyễn Du giữ lại những tình tiết cũ của Thanh
Tâm Tài Nhân, thì đó cũng không phải là giữ lại nguyên vẹn, không có sáng
tạo. Cả trong những trường hợp này, Nguyễn Du đều có cảm lại, nhận thức
lại, sắp xếp lại, nghĩa là Nguyễn Du chỉ giữ lại những gì phù hợp với những
điều trông thấy, từng trải của mình và thể hiện nó bằng một ngòi bút tràn đầy
cảm xúc của một nhà thơ chân chính” [16, 336]. Bước tiến của Nguyễn Lộc là
ông đã phân tích chi tiết sáng tạo của Nguyễn Du trong việc thể hiện các nhân
vật, tiêu biểu là Thúy Kiều.

Nhìn chung, các công trình so sánh ở giai đoạn nghiên cứu đầu tiên đều
triển khai theo cách đối chiếu giữa hai tác phẩm để tính đếm những khác biệt
cụ thể và xác định lý do vì sao có sự khác biệt ấy. Các nghiên cứu loại này
thường tiến hành so sánh nhân vật, cốt truyện, cảm hứng chủ đạo (triết lý) của
hai tác phẩm. Cả ở trong nước cũng như ở hải ngoại, các nhà nghiên cứu Việt
Nam đều cố gắng tìm ra sự khác biệt để nêu bật tính ưu việt hơn hẳn
của Truyện Kiều đối với Kim Vân Kiều truyện. Vũ Đình Trác với luận án
Tiến sĩ bảo vệ tại Nhật Bản năm 1984. Trong công trình này, ông đã “đếm”
được 17 điểm khác biệt có thể cho thấy tư tưởng nhân bản của Nguyễn Du đã
chi phối đến cách xử lý những tình tiết cụ thể. Những nhận xét của ông có
mới, có cũ. Ví dụ, về việc Nguyễn Du tránh phơi bày lộ liễu cảnh ăn chơi
đàng điếm chốn thanh lâu, Nguyễn Du tận tả những cung đàn bạc mệnh là
những phát hiện đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã nói đến. Song,
có một số điểm mới như : trong cuộc đối thoại đầu tiên ở vườn Thúy, “nguyên
tác đã để Thúy Kiều trở thành chủ động, nói năng huyên thuyên và tống tình
Kim Trọng một cách khiêu khích. Nguyễn Du trái lại, trả Thúy Kiều về với
13

bản tính thanh cao của giai nhân tài trí, để cho Kim trọng trở thành chủ động,
theo quan niệm Dương chinh phục Âm”. Hoặc “những cảnh báo oán của
Thúy Kiều trong truyện Hán văn có vẻ nhuốm màu bạo dâm (sadism) biểu lộ
hết ác tâm của kẻ báo thù và đường lối dã man của xã hội loài người. Dưới
ngòi bút Nguyễn Du, những cảnh đó cần phải có tối thiểu, để trọn ý nghĩa
nhân quả và tâm lý thường tình của con người, nhưng ông muốn tránh mọi cử
chỉ và hành động vô nhân đạo” [49, 271-273] . Ở trong nước, các so sánh
tương tự rất phong phú. Tiêu biểu cho cách đi vào so sánh chi tiết có thể kể
đến bài viết của Lê Xuân Lít “Truyện Kiều- Kim Vân Kiều truyện nhìn từ góc
độ chi tiết”. Trong bài viết này, ông đã đối chiếu tỉ mỉ một số điểm khác biệt
giữa hai tác phẩm như tại sao ở Truyện Kiều, Vương ông ( bố của Kiều) chỉ
có họ mà không có tên (nguyên truyện có tên) ? Vương bà là ai? Thúy Vân có

thạo thơ phú ? Thúy Kiều quê ở đâu ? [15] v.v Một công trình mang tính đối
chiếu tỉ mỉ đến triệt để hơn cả là cuốn Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan
Quế, trong đó so sánh hai tác phẩm theo từng hồi. Nhưng mục tiêu của sách
này vẫn thống nhất với các công trình nghiên cứu so sánh đã có, tìm xem
Nguyễn Du thêm bớt và xử lý khác cốt truyện của nguyên truyện ra sao.
Phạm Đan Quế viết: “Về cốt truyện, hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các
sự kiện, những vấn đề luân lý, triết lý và đôi khi cả các chi tiết, Nguyễn Du đã
dựa rất nhiều vào bản gốc của Thanh Tâm Tài Tử. Tuy nhiên, ông đã chỉ chọn
những sự việc chính, lược bỏ nhiều những đoạn rườm rà và có khi tóm tắt
trong một số ít câu cả một đoạn dài trong truyện. Và sự khác nhau cơ bản là ở
chỗ: các sự kiện trong Kim Vân Kiều là sự kiện chắp nối còn trong Truyện
Kiều là sự kiện hữu cơ. Nguyễn Du đã đổi mới Kim Vân Kiều bằng cách thay
đổi các quan hệ số lượng giữa các bộ phận như bạn đọc sẽ thấy trong bản so
sánh từng hồi tiếp theo đây và nhất là khi đi vào từng chi tiết, từng đoạn văn
cụ thể” [29, 16]. Những bảng thống kê số liệu rất chi tiết giúp cho các nhà
14

nghiên cứu so sánh rút ngắn công việc của mình, song thực ra các nhận định
dựa trên phương pháp so sánh chi tiết của hai tác phẩm mang tính sự kiện này
không có gì thật sự mới mẻ so với các nghiên cứu từ Đào Duy Anh.
Trần Đình Sử đã thấy rằng không thể thỏa mãn với cách so sánh hai tác
phẩm, dẫu là bám sát theo từng chi tiết như vậy. Cần có một cách so sánh trên
bình diện rộng hơn, có tính hệ thống hơn. Đây chính là ý thức đổi mới
phương pháp so sánh, có thể đưa việc so sánh hai tác phẩm sang giai đoạn cao
hơn, hoàn chỉnh hơn. Ông viết : “Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều hôm nay
không thể đóng khung trong phạm vi so sánh tay đôi giữa hai tác
phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện, bởi bản thân sự vay mượn và
sáng tạo của Nguyễn Du nằm trong quĩ đạo của các nền văn hóa bao bọc xung
quanh, Truyện Kiều là sản phẩm của hành vi sáng tạo văn hóa có bối cảnh
rộng lớn ( ) So sánh Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc đang là một đề tài

để ngỏ cho những tìm tòi mới trong giao lưu tinh thần của hai dân tộc qua một
kiệt tác” [34, 55-56]. Ông nêu một ví dụ: chẳng hạn như cần phân tích sự
hiện diện của Phật giáo và Nho giáo trong Truyện Kiều. Về tư tưởng Nho
giáo, Trần Đình Sử cho là ở đây phải nghĩ đến ảnh hưởng của Tâm học của
Lục Cửu Uyên, Vương Dương Minh đời Minh. Một hướng so sánh mới mà
Trần Đình Sử nên lên là so sánh hai tác phẩm về phương diện thể loại. “Trong
bối cảnh ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, Truyện Kiều là một sự lựa chọn
về thể loại, và không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa Truyện Kiều và
tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc( ). Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân xét về nhiều mặt đều gần với nhóm tiểu thuyết tài tử giai nhân,
nhưng lại mang thêm yếu tố thế tình, phê phán xã hội, nên có nét riêng. Về
mặt lý tưởng hóa, đề cao phụ nữ, Truyện Kiều đi theo khuynh hướng của tiểu
thuyết tài tử giai nhân. Về mặt thẩm mỹ, Truyện Kiều có khuynh hướng bi
kịch nhiều hơn các tiểu thuyết tài tử giai nhân tiêu biểu. Về thể loại Truyện
15

Kiều khác với tiểu thuyết chương hồi, mà thuộc vào loại truyện thơ Nôm, vốn
có trong văn học Việt Nam, và Đông Nam á. Về nhân vật, Truyện Kiều chú
trọng miêu tả tâm lý hơn. Về ngôn ngữ, Nguyễn Du dùng nhiều lời độc thoại
nội tâm hơn” [34, 57-58].
Những đề nghị của Trần Đình Sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm
phương pháp so sánh mới giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện. Một
trong những hạn chế của các nghiên cứu so sánh trước đây có nguyên nhân là
ít tính đến sự khác biệt thể loại giữa hai tác phẩm. Nhiều học giả Việt Nam
khen Nguyễn Du đã lược bớt những đoạn tự sự của nguyên truyện, cho rằng
nguyên truyện kể lể dông dài mà không thấy rằng sự sống còn của văn xuôi tự
sự là chi tiết. Ngược lại, Đổng Văn Thành, một nhà nghiên cứu Trung Quốc
lại phê phán Nguyễn Du có lập trường chính thống, hạ thấp Từ Hải vì đã lược
tả uy thế quân sự của Từ Hải vốn được nguyên truyện tả tỉ mỉ qua trận đánh
giữa Từ Hải với quan quân triều đình, với bút pháp khoa trương. Nhưng ông

quên mất một điều cơ bản là thơ không thể nào tả chi tiết tỉ mỉ như văn xuôi
được. Đổng Văn Thành cũng phê Nguyễn Du hay khoe kiến thức văn học
uyên bác nhưng mắc sai lầm chồng chất, vận dụng không đúng, chẳng hạn
như miêu tả tiếng đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe trong buổi gặp gỡ
đầu tiên, Nguyễn Du đã kể tên bốn khúc nhạc cổ điển trong đó không một
khúc nào biểu hiện nỗi lòng người thiếu nữ đang yêu [15, 1572]. Nhưng ông
cũng quên mất rằng nói như vậy là giả định tiếng đàn của Kiều được tả thực,
nhưng trong ngôn ngữ thơ, Nguyễn Du miêu tả theo bút pháp tượng trưng, cốt
dựng lên tiếng đàn bạc mệnh nói chung [34, 299]. Đổng Văn Thành đã xuất
phát từ góc độ thể loại văn xuôi tự sự để nhìn Truyện Kiều tuy khác với góc
nhìn từ truyện thơ để xét đoán Kim Vân Kiều truyện của một số nhà nghiên
cứu Việt Nam nhưng bản chất vấn đề là một. Rõ ràng cần thiết tính đến vai
trò của thể loại khi so sánh hai tác phẩm thì mới tránh được nhận xét một
16

chiều. Những bản thống kê so sánh về số lượng câu thơ lục bát hay số trang
chữ Hán được dành cho một nội dung nào đó ít có ý nghĩa khoa học là vì vậy.
Thực ra Phan Ngọc chính là nhà nghiên cứu đã áp dụng một phương
pháp so sánh mới, so sánh hệ thống, so sánh trên cơ sở tìm phong cách thời
đại và phong cách thể loại của Truyện Kiều chứ không dừng lại ở việc đối
chiếu những sự kiện lẻ tẻ. Ông viết : “ Muốn khảo sát Truyện Kiều như một
sản phẩm của lao động sản xuất, ta phải đối lập Truyện Kiều thứ nhất,
với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, xem Nguyễn Du vay
mượn những gì ở tác phẩm này, gạt bỏ những gì, và thêm những gì. ở cả ba
mặt này ta đều phải giải thích lý do. Tại sao Nguyễn Du lại vay mượn sự kiện
này, gạt bỏ sự kiện kia, thêm vào sự kiện nọ ? Điều này không thể là ngẫu
nhiên được, mà là do chỗ Nguyễn Du có một kiểu lựa chọn riêng, không
giống kiểu lựa chọn của Thanh Tâm Tài Nhân, và ta phải tìm được lý do giải
thích kiểu lựa chọn của tác giả. Thứ hai, trong những điều Nguyễn Du thêm
vào, có cái gì là riêng của Nguyễn Du, có cái gì là chung của thời đại ? ( ).

Thứ ba, qua sự đối lập giữa Truyện Kiều với một bên là Thanh Tâm Tài Nhân
và truyền thống văn học Trung Quốc, và một bên là truyền thống văn học thời
đại, ta rút ra được những cống hiến độc đáo của Nguyễn Du” [26, 37]. Tuy
vẫn nói đến các sự kiện nhưng ông chủ trương xem xét nó trong hệ thống
phong cách thể loại và phong cách thời đại. Từ đây, ông chứng minh Kim Vân
Kiều truyện không hề xây dựng trên lý thuyết tài mệnh tương đố (tư tưởng
chủ đạo của nó là tình và khổ), trái lại, “khi viết Truyện Kiều , Nguyễn Du đã
thay đổi chủ đề tác phẩm, chuyển chủ đề từ tình và khổ sang tài và mệnh. Ông
đã đưa tư tưởng của mình vào để tổ chức lại toàn bộ câu chuyện chứ không
vay mượn nó ở Thanh Tâm Tài Nhân”[26, 44] . Phan Ngọc trung thành với
thao tác hệ thống, đã một mặt chứng minh tư tưởng tài- mệnh tương đố không
phải vay mượn từ văn học Trung Quốc, mặt khác là tư tưởng được gợi ý từ
17

chính hiện thực Việt Nam thế kỷ XVIII, khi có rất nhiều người tài hoa mà bạc
mệnh. Nhận xét của ông về căn bản có thể đồng tình. Nhưng khi ông muốn
loại trừ hoàn toàn khả năng vay mượn tư tưởng tài mệnh tương đố từ văn học
Trung Quốc bằng cách chứng minh rằng đã tìm trong sử sách và tiểu thuyết
Trung Quốc mà không thấy ở đâu có trường hợp có thể khẳng định Nguyễn
Du vay mượn thì lại gây băn khoăn cho nhiều người. Ngay như việc mở rộng
vấn đề chữ tài sang lĩnh vực tài năng nói chung cũng có vấn đề cần thảo luận-
tài ở tác phẩm này hay nói chung trong sáng tác Nguyễn Du thường qui tụ về
tài văn chương nghệ thuật, về sắc đẹp. Về thể loại, Phan Ngọc đối lập phương
pháp tự sự của hai tác phẩm ( ở đây chưa đề cập đến việc ông đối lập nghệ
thuật tự sự của Truyện Kiều và truyện Nôm nói chung). Nếu truyền thống tiểu
thuyết chương hồi Trung Quốc kể thành từng hồi, mỗi hồi là hai hay nhiều
mưu mô, các mưu mô liên kết nhau một cách lỏng lẻo nên các hồi là độc lập
với nhau, còn “sang Truyện Kiều , chúng ta bước vào một thế giới khác hẳn.
Đây là một việc làm đối lập lại truyền thống tiểu thuyết Trung Quốc, thậm chí
có thể nói là chướng tai gai mắt đối với truyền thống. Trước hết, mọi mưu mô

đều biến mất, chẳng còn dấu vết gì nữa. Sự việc diễn ra do cái logic khách
quan của cuộc sống, không phải do mưu mô tính toán của con người không
những Nguyễn Du gạt bỏ mọi mưu mô, mà còn gạt bỏ mọi tính chất ly kỳ
trong mưu mô” [26, 100-102].
Chúng tôi dẫn ra một số đoạn như trên nhằm chỉ ra hướng so sánh như
Phan Ngọc, Trần Đình Sử chủ trương là một hướng đi khoa học, nhưng cần
được tiếp tục hoàn thiện. Sở dĩ cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu so sánh như
đã nói, là vì qua so sánh, chúng ta càng hiểu sâu hơn sáng tạo của Nguyễn Du.
1.2. Vấn đề nghiên cứu so sánh
Trước hết, chúng ta cần nói rõ hơn khái niệm so sánh văn học và văn
học so sánh. Trong đời sống, trong sáng tạo nghệ thuật, kể cả trong nghiên
18

cứu văn học, bằng thói quen hoặc từ ý thức thẩm mỹ, người ta thường dùng
thao tác so sánh. Nhưng các thao tác ấy, phần nhiều, chỉ nhằm biến khái niệm
trừu tượng hiển hiện thành hình ảnh sinh động, thành hình tượng nghệ thuật,
khơi gợi trực tiếp ấn tượng, xúc cảm. Còn các công trình học thuật, trước thế
kỷ XVII – XVIII, chỉ mới dừng lại đối sánh những hiện tượng trong cùng một
nền văn học. Khi đó, chúng chỉ là thao tác so sánh, ở cấp độ phương pháp,
tức so sánh văn học.
Vậy thế nào mới là văn học so sánh? Văn học so sánh là tên gọi một hệ
phương pháp luận, một bộ môn trong khoa nghiên cứu văn chương. Nó phải
tuân theo những nguyên tắc đặc thù của bộ môn. Cụ thể, nó chỉ bao hàm
những so sánh liên văn học: nó tiến hành đối sánh các nền văn học dân tộc với
nhau. Quá trình đối sánh này phải bảo đảm tính khách quan, phi định kiến:
nhà nghiên cứu, không vì lòng tự tôn, tự ti dân tộc, mà nhân danh văn học so
sánh để hạ thấp các nền văn học dân tộc khác, hoặc mặc cảm về văn học dân
tộc mình. Thao tác so sánh phải trên cơ sở cùng loại: tác phẩm sánh cùng tác
phẩm, tác giả đi bên tác giả,… Sự so sánh phải đa diện, với nhiều cấp độ,
nhiều hệ thống. Tất cả hướng về lợi ích quốc tế, giải quyết mọi cái riêng qua

cái chung. Sự giàu có của văn học thế giới phải hội tụ từ vẻ đẹp phong phú,
đặc sắc của từng nền văn học dân tộc. Ngược lại, văn học từng dân tộc, cũng
nhờ đặt trong hệ thống, mà thấy mình độc đáo, đầy sức sống.
So sánh văn học Đông- Tây là một trong những xu hướng mới và nổi bật
trong hoạt động phê bình văn học ở nửa đầu thế kỷ XX. Chúng ta đều biết,
Phương Đông - Phương Tây là sự phân chia đã có từ lâu. Phần Phương Tây
chủ yếu bao gồm các nền văn hóa, văn học Âu châu bắt nguồn từ truyền
thống Hy Lạp - La Mã. Phần Phương Đông chủ yếu là văn hóa, văn học Á
châu với các nguồn Ấn Độ, Trung Hoa, A rập. Từng có những ý kiến cực
đoan cho rằng Phương Tây và Phương Đông là hết sức khác biệt, là không
19

bao giờ có thể gặp nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, từ lâu hai nền văn hóa đó
vẫn luôn có sự giao lưu, thâm nhập lẫn nhau. Văn học Phương Tây, như một
tổng thể, là sự tiếp nối từ văn học Hy Lạp - La Mã, qua văn học trung đại rồi
đến thời kỳ cận-hiện đại, từng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của Phương Đông,
đặc biệt như Kinh Thánh của Thiên chúa giáo vốn là sản phẩm của Phương
Đông, nhưng lại trở thành một nguồn quan trọng của văn học Phương Tây.
Ngược lại, văn học Phương Đông với sự phát triển tương đối ít ngắt quãng
thành các giai đoạn rõ ràng như Phương Tây, cũng tiếp thu những ảnh hưởng
của Phương Tây, nhất là thời kỳ cận hiện đại (từ thế kỷ 18-19). Ngoài những
mối quan hệ ảnh hưởng, còn có thể thấy bên cạnh những khác biệt giữa
Phương Đông và Phương Tây còn có những hiện tượng tương đồng do sự
phát triển lịch sử mang tính chất quy luật đem lại, là đối tượng của văn học so
sánh.
So sánh văn học Đông- Tây nằm trong trào lưu văn hóa vốn là kết quả
của cuộc gặp gỡ Đông- Tây, phản ánh tâm thái muốn thay đổi không chỉ
thuần túy về văn học mà toàn bộ xã hội của tầng lớp trí thức. Tiếp xúc văn
hóa Đông – Tây ở Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đã đi đến một chặng quan
trọng. Tiếp xúc ở nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước chủ yếu có tính chất bề

ngoài, qua các cảm nhận trực quan về vũ khí, công nghệ, đồ dùng của người
Tây phương. Đến cuối thế kỷ XIX, nhất là những thập niên đầu thế kỷ XX,
công cuộc tiếp xúc đã có chiều sâu, nói như Hoài Thanh, phương Tây giờ đây
đã vào sâu tận hồn ta: người Việt đã nắm vững tiếng Pháp, đọc sách Pháp.
Triết học, tư tưởng, văn học phương Tây đã trở thành món ăn tinh thần của
tầng lớp trí thức và từ đây sẽ dần lan tỏa ra toàn xã hội. Không chỉ là sự tự
thay đổi của thế hệ các nhà Hán học trước thực tế mới, tầng lớp trí thức mới là
sản phẩm của nền giáo dục mới, tiếp nhận văn hóa và văn học Pháp đã nhận
thấy phải thay đổi văn học và xã hội. Tầng lớp thanh niên Việt Nam trưởng
20

thành trong các trường học gọi là trường Pháp Việt ở đầu thế kỷ XX là lớp
người tiên phong trong công cuộc đổi mới này. Dù mục đích giáo dục của
Pháp là gì đi nữa thì việc một thế hệ thanh niên mới đọc viết chữ quốc ngữ và
nắm vững tiếng Pháp là một sản phẩm văn hóa hết sức quan trọng sẽ dẫn đến
nhiều thay đổi lớn lao về văn hóa và văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ
XX. Trong bài tựa cho công trình khảo cứu Nho giáo, quyển 1, xuất bản lần
đầu năm 1930, Trần Trọng Kim ghi nhận “thời thế đã xoay vần, cuộc đời biến
đổi, người trong nước đang háo hức về sự bỏ cũ theo mới” [11]. Ý này trong
lời phát đoan được ông làm rõ hơn. Ông cho rằng đứng trước thế lực mạnh
hơn tràn vào (chỉ cuộc xâm lăng của Pháp), người trong nước “dần dần tỉnh
ra, thấy người ta phú cường lẫm liệt, mà mình thì cứ suy nhược mãi đi, rồi lại
thấy thiên hạ bỏ cũ theo mới thì cũng được cường thịnh, bấy giờ mới khởi
xướng lên việc bắt chước người ta mà thay đổi mọi đường… Ai cũng yên trí
rằng cái văn hóa cũ của mình không ra gì, cho nên xã hội mình mới suy đồi,
thì chi bằng đem bỏ cả đi mà theo cách duy tân. Từ đó mới gây thành phong
trào bỏ cũ theo mới. Cái phong trào ấy mỗi ngày mỗi mạnh, đến nỗi mới độ
vài ba mươi năm nay, mà cái tinh thần văn hóa cũ của ta đã mai một đi mất
nhiều lắm rồi” [11]. Trần Trọng Kim có thiếu sót là chưa nói đến công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, đến phong trào cộng sản như một khuynh hướng

riêng đáng chú ý trong lịch sử văn hóa tư tưởng hồi đầu thế kỷ. Nhưng cảm
nhận của ông về tâm thế bỏ cũ theo mới trong văn hóa Việt Nam hồi này là
cảm nhận của một người trong cuộc, một người thuộc tầng lớp trí thức Tây
học đã phản ánh đúng tâm thế muốn thay đổi trong toàn xã hội. Thay đổi như
thế nào, thay đổi theo hướng nào là vấn đề rộng lớn không thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận án. Chỉ xin dẫn nhận xét của một nhà nghiên cứu đương
đại là Phan Ngọc “Có một sự đứt đoạn ở thế hệ sinh sau 1910. Khi họ hai
mươi tuổi thì ảnh hưởng Nho giáo đã rất phai nhạt trong xã hội thành thị. Mọi
21

người đều nhận thấy một điều hiển nhiên là phải chuyển sang hệ tư tưởng
phương Tây với tự do bình đẳng, pháp luật, dân chủ” [25, 100]. Nói ảnh
hưởng Nho giáo đã “rất phai nhạt” chưa hẳn đã chính xác, nhưng nói nhu cầu
về sự chuyển đổi hệ tư tưởng lại phản ánh đúng tâm thế của thế hệ trí thức
sinh sau 1910.
Trong đời sống văn học, tâm thế khao khát thay đổi đó cũng có thể quan
sát được. Hiển nhiên không phải là ngay lập tức, tầng lớp cựu học đã mòn
mỏi điêu linh. Những nhà cựu học, những người thông thạo Hán học vẫn tiếp
tục hoạt động, giới thiệu văn hóa và văn học cũ bằng cách dịch thuật, phiên
âm văn học chữ Nôm. Thơ văn cổ Hán Nôm được dịch, giới thiệu trên Nam
phong dưới các chuyên mục Tồn cổ lục, Văn uyển. Người ta dịch Tang
thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình
Hổ), Lữ trung tạp thuyết (Bùi Huy Bích), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác),
Lĩnh Nam dật sử, thơ đời Hồng Đức (85 bài), thơ văn Lý- Trần 132 bài, thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Công Trứ, Lý Văn Phức, Nguyễn
Khuyến… Tất nhiên khối lượng tư liệu tác phẩm văn học trung đại được
giới thiệu khi ấy chưa thể nói là phong phú, toàn diện so với ngày nay, song
cũng không thể nói là nghèo nàn như một mảnh đất hoang. Nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn đã mô tả sơ bộ tình hình phiên âm dịch thuật văn học trung
đại Việt Nam và văn học cổ trung đại của Trung Quốc trên báo chí nửa đầu

thế kỷ XX như một nguồn tri thức và cảm hứng đủ cho nhà thơ lãng mạn
Xuân Diệu sáng tác bài thơ Mơ xưa nổi tiếng [43]. Ngoài ra, về tư tưởng đạo
đức triết học, ta thấy Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục dịch Mạnh Tử
quốc văn giải thích, Luận ngữ quốc văn giải thích. Đó là mới tính riêng tạp
chí Nam phong chứ chưa kể đến các báo, tạp chí và nhà xuất bản khác. Nếu
nói thơ văn cũ bao gồm cả tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thì lại phải thấy
báo chí, xuất bản hồi đầu thế kỷ dịch tiểu thuyết và truyện Trung Quốc

×