Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 119 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



MAI THỊ BÌNH



CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(Qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,
Chu Lai và Nguyễn Danh Lam)


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 01 21



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Mai Hƣơng



Hà Nội - 2014

2
LỜI CAM ĐOAN




Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ
ràng.


Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả Luận văn
Bình


Mai Thị Bình

3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Mai Hương, người đã trực tiếp
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện và hoàn thành
luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Văn học, đặc
biệt là các thầy cô trong bộ môn Văn học Việt Nam, ban chủ nhiệm khoa Văn học,
phòng quản lí sau Đại học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Bình
Mai Thị Bình












4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 15
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 15
5. Đóng góp của luận văn 16
6. Cấu trúc của luận văn 17
PHẦN NỘI DUNG 18
Chƣơng 1: ĐỔI MỚI TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ CẢM HỨNG CÔ ĐƠN
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 18
1.1. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam sau 1975 18
1.2. Những chuyển đổi tƣ duy nghệ thuật từ sau 1975 22
1.3. Cảm hứng cô đơn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 26
1.4. Khái quát về kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn học và văn học
Việt Nam 28
1.4.1. Cô đơn – một trạng thái tâm lý bản thể 28
2.1.2.Kiểu nhân vật cô đơn trong tác phẩm văn học 31
Chƣơng 2: CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG VĂN XUÔI
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 37
2.1. Nhân vật cô đơn từ bản thể 37

2.2. Nhân vật cô đơn vì không thể hòa nhập với cuộc sống thực tại 47
2.2.1.Nhân vật cô đơn vì lạc thời 47
2.2.2. Nhân vật cô đơn vì lạc lõng giữa cộng đồng, gia đình 61
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN 81

5
3.1. Thủ pháp nhòe mờ, tẩy trắng nhân vật 81
3.2. Chú trọng tới cảm giác, nội tâm của nhân vật 82
3.3. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian 86
3.3.1 Nghệ thuật tổ chức không gian: 86
3.3.2 Nghệ thuật tổ chức thời gian 93
3.4. Ngôn ngữ - giọng điệu: 95
3.4.1. Ngôn ngữ 95
3.4.2. Giọng điệu 104
PHẦN KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 115

6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Năm 1975 đánh dấu mốc sự kiện lịch sử quan trọng mang tính bước
ngoặt đối với toàn dân tộc, đất nước thống nhất, đời sống dân tộc có những đổi thay
to lớn trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa văn nghệ. Mọi
hoạt động được chuyển từ thời chiến sang thời bình, ý thức dân tộc, ý thức cá nhân
và ý thức văn hóa mới hình thành. Con người phải đối diện với những vấn đề thế sự,
nhân sinh và cả những chuyện rất riêng tư, văn học tất yếu phải đổi mới theo tinh
thần thời đại. Mỗi chuyển biến của lịch sử đều tác động sâu sắc, tạo nên những
chuyển động và để lại những dấu ấn sâu đậm lớn trong đời sống văn học, bởi, một
trong những chức năng cơ bản của văn học là phản ánh hiện thực.
1.2.Văn học trước 1975 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạc nên những

bức tượng đài bất hủ về con người Việt Nam anh hùng bất khuất, dân tộc Việt Nam từ
trong máu lửa “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Sau năm 1975, đặc biệt là sau đổi mới
(1986), trên tinh thần “đổi mới toàn diện” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề
ra, văn học thực sự được “cởi trói”. Không khí dân chủ tạo đà cho những chuyển động
mạnh mẽ của văn học, biểu hiện rõ trong sự chuyển đổi về tư duy nghệ thuật. Nhờ nỗ
lực đổi mới và dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ, các nhà văn đã hăng hái lao
động nghệ thuật, có ý thức đổi mới ngòi bút của mình để bắt kịp với những biến chuyển
của đời sống. Đó là cơ sở để văn học Việt Nam đương đại nói chung, văn xuôi Việt Nam
đương đại nói riêng mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, đi sâu khám phá những vấn
đề cốt lõi của đời sống xã hội, phản ánh một cách đa diện về con người. Từ đó, trong
văn xuôi xuất hiện nhiều nguồn cảm hứng mới như cảm hứng đời tư thế sự, cảm hứng bi
kịch, cảm hứng tha hóa, cảm hứng cô đơn… Kéo theo là các kiểu dạng nhân vật bi kịch,
nhân vật tha hóa, nhân vật sám hối, nhân vật cô đơn,…
1.3.Có thể thấy, khoảng mười năm đầu thời kì hậu chiến (1975 – 1985), cảm
hứng sử thi trong văn xuôi vẫn tồn tại theo quán tính. Nhưng được thổi lửa từ sau đổi

7
mới, đặc biệt là nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa, cảm hứng sử thi mờ nhạt
dần, cảm hứng đời tư thế sự nổi đậm và dần trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.
Theo đó, những vấn đề của đời sống cá nhân, số phận riêng tư với những nỗi niềm,
tâm trạng, khát vọng sống, khát vọng hòa nhập cộng đồng, khát vọng hạnh phúc. Cái
thiện – cái ác, cái xấu – cái tốt, cái cao cả - cái thấp hèn, cái bi – cái hài,… vốn còn
khuất lấp ở thời kì văn học trước, thì nay, tất cả đều đi vào trang viết với tinh thần
dân chủ, cởi mở nhất. Con người cá nhân trở thành mối quan tâm hàng đầu của người
cầm bút với đầy đủ tính chất đa dạng, phức tạp trong tính cách, suy nghĩ, biểu hiện
và trong nhiều tầng quan hệ. Trên khuynh hướng chung đó, rất nhiều tác phẩm mang
“hơi gió lạ” của các cây bút tên tuổi trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước như Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, đến những
tác giả gây “chấn động” từ thời kì đầu của văn học đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Trí Huân, Dạ Ngân,

Nguyễn Quang Lập, và những cây bút trẻ thuộc thế hệ 7- 8x như Phan Thị Vàng
Anh, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam,… đã phản ánh chân
thực, kịp thời tinh thần thời đại, thể hiện số phận con người với những cảm xúc riêng
tư nhất, góp phần mang lại diện mạo mới cho văn xuôi đương đại. Từ những chuyển
đổi cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người, các kiểu dạng nhân vật trong
văn xuôi cũng phong phú đa dạng, trong đó, con người cô đơn là một kiểu dạng
nhân vật phổ biến: Cô đơn từ trong bản thể, cô đơn do không có khả năng hòa nhập
với cộng đồng với những “vết dập xóa”, “va đập” tâm hồn, trước những bi kịch của
đời sống, của mối quan hệ gia đình và xã hội. Trên cái nhìn đa diện, đa chiều của văn
xuôi đương đại, cái cô đơn ấy được bộc lộ rõ nét và sâu sắc, tạo nên một dấu ấn
riêng, đậm nét.
Vì lẽ đó, rất cần có những công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết những
dấu ấn nổi bật đó của văn xuôi thời đổi mới. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi
cho đến nay, việc tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn

8
trong văn xuôi Việt Nam đương đại” mới chỉ dừng lại ở một số ít bài viết chung về
tác giả, tác phẩm hoặc một nhóm tác giả, tác phẩm. Đó là lý do chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương
đại (qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và
Nguyễn Danh Lam) nhằm khẳng định nỗ lực và đóng góp của các cây bút trong việc
đổi mới văn xuôi Việt Nam đương đại. Từ đó có cơ sở, góp phần khẳng định sự đổi
mới văn xuôi đương đại nói riêng và rộng hơn của văn học Việt Nam đương đại.
1.4. Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam là
những cây bút tiêu biểu, có phong cách sáng tạo đặc sắc và những đóng góp đáng kể
để tạo nên thành tựu chung của văn xuôi đương đại Việt Nam. Trong thế giới nhân
vật đa dạng của các nhà văn, con người cô đơn là kiểu dạng nhân vật nổi đậm, thực
sự tạo được ám ảnh đối với người đọc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1.Việc đổi mới tư duy nghệ thuật đã đưa đến những cú “vượt rào” quan

trọng về cảm hứng, đề tài, về các kiểu dạng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu… Là
điều kiện để tạo nên những tác phẩm văn xuôi có giá trị, phản ánh đúng tinh thần thời
đại, đúng người, đúng việc. Sự chuyển hướng về quan niệm nghệ thuật trong văn
xuôi đương đại đã thu hút sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu, phê bình.
Qua khảo sát, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có khá nhiều công trình, bài
viết nghiên cứu chung về văn xuôi đổi mới, trong đó cũng đã đề cập đến sự đổi mới
về tư duy nghệ thuật, sự đa dạng về nguồn cảm hứng, về các kiểu dạng nhân vật
trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
Trong bài Mấy nhận xét về nhân vật của Văn xuôi Việt Nam sau 1975, tác
giả Nguyễn Thị Bình đã đưa ra nhận định về sự đa dạng của văn xuôi từ góc độ quan
niệm nghệ thuật: “Từ năm 1986 trở đi, sự đổi mới văn xuôi mới thật sự diễn ra ở bề
sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều chiều về đời sống.”[56].
Trong bài viết Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam giai đoạn từ sau 1975, tác giả Nguyễn Văn Long đã xác định những đặc điểm

9
cơ bản của văn học Việt Nam sau 1975: “Văn học vận động theo hướng dân chủ
hóa”[39, tr. 14] “Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền
tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm văn học từ sau 1975” [39, tr.15] “Văn
học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại.” [39, tr.16]. Người viết
đã đề cập đến sự đa dạng của văn học ở các bình diện “đa dạng về đề tài, phong phú
về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong cách và khuynh
hướng thẩm mĩ.” [39, tr.16]. Từ đó, chỉ rõ hơn về đặc điểm của văn xuôi sau 1975 có
“khuynh hướng nhận thức lại”, “Khám phá đời sống trong cái muôn vẻ hằng ngày,
trong các quan hệ thế sự, đời tư” và cuối cùng người viết đi đến nhận định về những
đổi mới của văn xuôi đã “mở rộng quan niệm hiện thực đi liền với đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con người, đổi mới nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ, giọng
điệu”[39, tr.18-19].
PGS. La Khắc Hòa trong bài Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những
tiếng nói tiếp tục khẳng định: “Đổi mới văn học suy cho cùng là đổi mới quan niệm:

quan niệm về con người, về đời sống và quan niệm về bản thân văn học nghệ
thuật”[39, tr.57]. Bên cạnh đó, bài viết đã đã so sánh, chỉ ra sự khác biệt giữa văn
học trước và sau 1975.
Tác giả Mai Hương trong Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số
cây bút văn xuôi đã chỉ ra những chuyển đổi cơ bản trong tư duy nghệ thuật của văn
xuôi đổi mới “Từ tư duy sử thi với một khoảng cách khó vượt giữa nhà văn và đối
tượng” chuyển sang kiểu tư duy mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương
đại đang diễn ra, “cái đương đại chưa hoàn thành”.[23, tr.3-4]. Trên cơ sở đó, tập
trung khảo sát những chuyển đổi tư duy nghệ thuật qua sáng tác của những cây bút
như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp,
Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài.
Còn nhiều bài viết như: Văn xuôi nghiên cứu đời sống hôm nay, Thử nhìn
lại văn xuôi mười năm qua và Văn xuôi 1975 – 1985 – Diện mạo và vấn đề của Lại

10
Nguyên Ân; Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam của
Trần Đình Sử; Một cách nhận diện thời kì văn học vừa qua của Đỗ Lai Thúy; Văn
xuôi trước yêu cầu cuộc sống mới của Nguyễn Khải; Một số hiện tượng văn học
nổi bật thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thanh Tâm; Một vài suy nghĩ về con người
trong văn xuôi thời kỳ đổi mới của Tôn Phương Lan; Bàn thêm về vấn đề con
người trong văn học của Trần Thanh Đạm; Văn xuôi gần đây và quan niệm con
người của Bùi Việt Thắng; Nhân vật tự ý thức trong văn xuôi sau 1975 của Dương
Thị Hương,… đã đề cập đến những đổi thay của tư duy văn học và quan niệm của
nhà văn về con người trước thời đại mới.
Như vậy, qua việc sơ lược một số ý kiến đánh giá, nhận định trên đây, chúng
tôi nhận thấy, mặc dù sự đổi mới của văn xuôi đương đại về tư duy nghệ thuật, kiểu
dạng nhân vật sau1975 đã được quan tâm đánh giá tổng quát theo nhiều hướng tiếp
cận khác nhau, sự đa dạng về cảm hứng sáng tạo cũng đã được đề cập đến, song, hầu
như các bài viết đều chưa trực tiếp bàn đến đặc trưng các kiểu dạng nhân vật cô đơn
cụ thể.

2.2.Cũng theo khảo sát của chúng tôi, các tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Chu
Lai, Tạ Duy Anh, Nguyễn Danh Lam và các sáng tác của họ đã được đông đảo giới
nghiên cứu, phê bình quan tâm. Trong đó cũng đã có những ý kiến đề cập đến thế
giới nhân vật của các cây bút này.
Về Nguyễn Huy Thiệp - sự xuất hiện của ông vào cuối năm 1987 đã thực sự
làm nên một “chấn động” lớn và nhanh chóng trở thành “hiện tượng lạ” trong văn
học cùng với việc khẳng định sức viết dồi dào.
Trong bài viết Truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp vài cảm nghĩ Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét, khái quát như sau: “Nguyễn Huy Thiệp có một thế
giới nhân vật cũng độc đáo. Toàn những con người góc cạnh, gân guốc. Người nào
dường như cũng sống đến tận cùng cá tính của mình. Có loại chui lên từ bùn lầy, rác
rưởi, tâm địa đen tối, có loại lại như những bậc chí thiện, có thể bao dung cả kẻ xấu,
người ác, thậm chí sẵn sàng chết vì đồng loại.”

11
Tác giả Mai Hương trong Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số
cây bút văn xuôi đã chỉ ra kiểu nhân vật cô đơn trong văn Nguyễn Huy Thiệp:
“Tướng về hưu” với lối viết mới lạ đã mang đến cho văn học một chất mới “chất
kiêu bạc, tàn nhẫn, cay đắng”, một “hơi gió lạ”- chủ đề cô đơn, tình trạng con
người cô đơn, lạc loài ngay giữa gia đình, người thân và đồng loại” ”.[23, tr.4]. .
Trong bài Chân dung nhà văn, từ một thế nhìn nhà văn Lê Minh Hà lại
nhận thấy: “Nhân vật của ông là con người trong cái phận vừa lớn lao vừa bé mọn
của mình, trong ý thức về sự biết và không biết của mình, trong nỗi buồn trước cái
đẹp, cái chua chát của đời sống.” [9]
Hồ Tấn Nguyên Minh trong bài Quan niệm về con người trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp đăng trên đã chỉ ra những kiểu con người trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp trong đó đã phân tích kiểu “con người cô đơn, lạc
lõng giữa mênh mông cõi người” ở Tướng về hưu và Con gái thủy thần.
Trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp do Phạm Xuân Nguyên biên soạn, tập
hợp của 54 bài viết của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình, với nhiều cách đọc,

cách hiểu, góc nhìn khách quan, đa chiều về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Các
bài viết đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong phong cách của Nguyễn Huy Thiệp.
Trong đó, cũng đã có những ý kiến đề cập đến nhân vật cô đơn trong một số tác
phẩm của nhà văn.
Về Chu Lai – là cây bút trưởng thành sau năm 1975 và có sức viết bền bỉ. Từ
khi cầm bút, ông cũng đã thử nghiệm qua nhiều thể loại như truyện ngắn, ký sự,
kịch bản sân khấu, kịch bản phim. Tuy nhiên, ông được người đọc, giới nghiên cứu phê
bình biết đến là một tác giả - nhà văn quân đội thành công ở thể loại tuyết thuyết. Sáng
tác của Chu Lai đề cập đến nhiều vấn đề của hiện thực đời sống và con người, đặc biệt
là người lính trở về sau cuộc chiến. Ngay từ khi mới xuất hiện, sáng tác của ông đã tạo
sự đón nhận, quan tâm của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học: Có thể điểm lược
trong những ý kiến sau:

12
Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Nội lực Chu Lai in trên Tạp chí Nhà
văn số 8 năm 2006 đã đưa ra nhận định khá bao quát về tiểu thuyết Chu Lai nói
chung, trong đó ông đặc biệt chú ý đến hai phương diện nghệ thuật là nhân vật và
giọng điệu.
Tác giả Tôn Phương Lan trong bài Người lính trong văn xuôi viết về
chiến tranh của nhà văn cầm súng đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 4 năm
1995 nhận xét: “Người lính trong văn học thời kì này được thể hiện hình ảnh người trở
về và bước vào một cuộc sống khác với hai bàn tay trắng, thậm chí là mang trên cơ thể
những thương tích của chiến tranh.”
Nhà phê bình Hồng Diệu đã chỉ ra những đổi mới trong quá trình tìm tòi, sáng
tạo nghệ thuật của Chu Lai qua việc thể hiện các nhân vật: “Tiểu thuyết Chu Lai đề
cập đến nhiều vấn đề. Nhưng bao trùm lên tất cả là truyện những người lính sau chiến
trường trở về, người thì tha hóa, người thì bước vào cuộc sống mới. Cuộc chiến đấu
của những người lương thiện chống kẻ bất lương, mà thật trớ trêu: Có những người
trước kia là đồng đội của nhau, bây giờ đứng trên hai mặt trận đối lập nhau.”
Chu Lai đã tiếp cận hiện thực ở cả những mặt khuất lấp, những cảnh ngộ

thương tâm trong những hoàn cảnh éo le. Nói như Ma Văn Kháng, tiểu thuyết của
Chu Lai là sự “đối mặt trực tiếp những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay.”
Đề cập đến những vấn đề này,nhà phê bình Lê Thành Nghị qua Những cuốn sách
gần đây viết về chiến tranh cho rằng: “Chu Lai đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng
những điều lâu nay còn bị giấu kín.”
Về nghệ thuật, tác giả Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu
thời kì đổi mới chỉ ra rằng: Tiểu thuyết Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương
thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng
ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định”
Còn có khá nhiều ý kiến tập trung phân tích riêng một tác phẩm, song phần lớn
các bài viết đều khẳng định vị trí và đóng góp của Chu Lai trên thể loại tiểu thuyết ở
việc đổi mới cách viết, đổi mới quan niệm về hiện thực và con người.

13
Với Tạ Duy Anh, ông là cây bút thành danh từ trong cao trào đổi mới, người
đã khơi mở một “dòng văn học bước qua lời nguyền” với những thông điệp sâu sắc
về số phận con người. Hơn thế, ông lại “Là tác giả của những tác phẩm luôn khiến
người đọc giật mình và suy ngẫm”. Ông đã tạo ra một “từ trường” riêng để hấp dẫn,
lôi cuốn độc giả cũng như người nghiên cứu, tìm hiểu. Vì vậy, đã có khá nhiều ý kiến
đánh giá, nhận định về những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện nội dung
tư tưởng và nghệ thuật:
Trong bài viết đăng trên báo Văn nghệ số 50 tháng 12 năm 1989, Giáo sư
Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới,
dòng văn học bước qua lời nguyền”.
Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, trong bài viết Văn xuôi
Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đặt ra và triển
vong, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét: “Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói
gọn trong nửa trang cả một cuộc đời, một kiếp sống, một kiếp người vừa là tác giả,
vừa là nạn nhân của những bi kịch đằng đẵng một thời”.[…]
Trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đăng trên báo

tháng 9 năm 2004, người viết gọi tác giả “là nhà văn của thời
điểm”, đồng thời, cũng đưa ra một số ý kiến về quan niệm của Tạ Duy Anh và con
người trong sáng tác của ông: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian,
nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người thì xấu như lão Phụng… người đẹp thì như
hoa như ngọc như Quý Anh, Chị Túc, bà Ba, như sản phụ chờ sinh. Nhưng bản chất
của con người luôn ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật luôn bị đặt trong trạng thái đấu
tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình.
Đã thế nhà văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều dung từ và động từ mạnh”.
Nhiều khi còn “lạnh lùng cố ý trước sự trả thù” mặc dù không ít lần ông quằn quại,
rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động ác.
Với khóa luận Tạ Duy Anh từ quan niệm nghệ thuật đến những đổi mới
trong sáng tác truyện ngắn, Nguyễn Thị Hương đã tìm hiểu, nghiên cứu quan niệm

14
sáng tác cũng như những nỗ lực đổi mới trong những sáng tác truyện ngắn của Tạ
Duy Anh ở nhiều góc độ: Hiện thực, con người, đổi mới về quan niệm nghệ thuật, gia
tăng yếu tố kỳ ảo và chất tiểu thuyết trong truyện ngắn của nhà văn.
Tác giả bài viết đăng trên báo Pháp luật số 140 năm 2004 đã nhận định:
“Hầu hết tác phẩm của ông (trừ truyện viết cho thiếu nhi và tản văn) đều rất gai góc
về nội dung thể hiện dưới cái nhìn hiện thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là “bức
tranh hiện thực ngọt ngào của các quyền lực, cái chết, sự đồi bại… còn Thiên thần
sám hối là một cuốn tiểu thuyết … viết về nỗi đau làm người và chưa được làm người
qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm người hay không.”
Tác giả bài viết về nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh đăng trên báo
Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004. Coi Tạ Duy Anh là “một hiện tượng văn học
nổi bật”, “một gương mặt nhà văn tiêu biểu năm 2004.” và đặt câu hỏi: “Số phận
nhân con người phải chăng luôn là sự trăn trở dằn vặt trong ông?”
Nguyễn Danh Lam là một cây bút trẻ của văn xuôi Việt Nam, có sức viết dồi
dào, nhiều tìm tòi và thể nghiệm độc đáo. Dù vậy, qua khảo sát của chúng tôi các bài
viết về Nguyễn Danh Lam và tác phẩm của anh còn ít. Phần lớn, mới chỉ khái lược

đôi nét về tiểu thuyết của anh, đặc biệt cuốn tiểu thuyết được giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam Giữa dòng chảy lạc hoặc mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh
nổi bật trong từng tác phẩm cụ thể, chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện
về sáng tác của cây bút này. Người đọc có thể gặp đây đó các bài giới thiệu, phê bình
rải rác trên các báo viết, báo điện tử Phongdiep.net, Văn nghệ, Thể thao và văn hóa,
Báo mới, … của các tác giả Bùi Công Thuấn, Đoàn Ánh Dương, Nguyễn Hoài
Nam,… Bên cạnh đó, còn có một số cuộc trao đổi, phỏng vấn, ở đó, Nguyễn Danh
Lam đã ít nhiều chia sẻ với người đọc những suy nghĩ, trăn trở của mình trong sáng
tác. Cho đến nay, hầu như chưa có bài viết nào nghiên cứu riêng về nhân vật, đặc biệt
nhân vật cô đơn trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam.
Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu cùng đồng thống nhất
ở việc ghi nhận những nỗ lực của các tác giả trong việc đổi mới văn học. Tuy nhiên,

15
theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về Các kiểu dạng nhân vật cô đơn
trong văn xuôi Việt Nam đương đại còn mang tính đơn lẻ, rời rạc, mới chỉ dừng lại ở
việc phát hiện, phác thảo chứ chưa được tìm hiểu trực tiếp và nghiên cứu một cách có
hệ thống, toàn diện. Có thể nói, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào lấy Các kiểu
dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại làm đối tượng nghiên cứu
trực tiếp. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam
đương đại (qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,
Chu Lai và Nguyễn Danh Lam) là đối tượng nghiên cứu chính. Bên cạnh đó, luận
văn cũng mở rộng đối tượng khảo sát qua một số tác phẩm, tác giả khác nhằm làm
nổi bật vấn đề nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi không có điều
kiện, khảo sát, tìm hiểu toàn bộ văn xuôi đương đại mà chỉ tập trung nghiên cứu một số

tác phẩm tiêu biểu của các tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và
Nguyễn Danh Lam.
Để có điều kiện so sánh làm nổi bật các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn
xuôi Việt Nam đương đại của các tác giả đã nói trên, chúng tôi cũng đặt nó trong cái
nhìn so sánh với lịch sử, đồng thời tiến hành mở rộng khảo sát một số tác phẩm tiêu
biểu của các tác giả Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Phạm Thị
Hoài, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ,…
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề
tài “Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua

16
một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và
Nguyễn Danh Lam)”, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội: Phương pháp này được sử
dụng để làm rõ nguyên nhân đưa đến sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của các
nhà văn về hiện thực và con người, đặc biệt là các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong
tương quan với hoàn cảnh xã hội và văn học.
4.2.Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp phân tích, chúng tôi có
điều kiện đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể, phân tích từng chi tiết nghệ thuật để làm
nổi bật nỗi cô đơn tiềm tàng trong mỗi nhân vật, mỗi tình tiết, sự kiện. Phương pháp
này giúp chúng tôi tiếp cận được với nhiều phương diện biểu hiện khác nhau của các
nhân vật trong vật trong các tác phẩm. Đây là phương pháp được sử dụng nhiều trong
luận văn
4.3.Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi đặt mảng
văn xuôi đương đại viết về nhân vật cô đơn trong sự so sánh với văn xuôi viết về
nhân vật cô đơn giai đoạn trước. Từ đó nhận ra sự chuyển hướng trong cảm hứng
sáng tác của nhà văn được thể hiện trên nhiều bình diện (quan niệm về hiện thực, về
con người, ngôn ngữ, giọng điệu, ).
4.4. Phương pháp tổng hợp: Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu triển khai

đề tài, sử dụng phương pháp này giúp chúng tôi có được một cái nhìn toàn diện về
mảng văn học mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Phương pháp này giúp người viết
rút ra được những đặc điểm cơ bản của các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi
đương đại cùng các phương diện biểu hiện của nó.
5. Đóng góp của luận văn
Từ khảo sát, phân tích, so sánh và tổng hợp, luận văn sẽ đúc kết những nét
đặc sắc của các cây bút từ phương diện thể hiện các kiểu dạng nhân vật cô đơn. Qua
đó góp phần nhận diện một trong những dấu hiệu đổi mới đặc sắc của văn xuôi Việt

17
Nam đương đại. Khẳng định đóng góp của các tác giả vào công cuộc đổi mới văn
học.
Ở một góc độ nhất định, luận văn góp phần đánh giá, tổng kết sự đổi mới của
văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Đổi mới tư duy nghệ thuật và cảm hứng cô đơn trong văn xuôi
Việt Nam sau 1975
Chương 2: Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật cô đơn







18
PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: ĐỔI MỚI TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ CẢM HỨNG CÔ ĐƠN
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam sau 1975
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã trở thành dấu mốc quan trọng, mở ra một
thời kì mới của lịch sử dân tộc. Đất nước hoà bình thống nhất, cả nước có những đổi
thay quan trọng trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, tư tưởng. Đi
qua những năm tháng chiến tranh liên miên, đất nước bị tàn phá nặng nề, những di
hại mà chiến tranh để lại vô cùng to lớn. Vì lẽ đó, dân tộc ta phải đối phó với vô vàn
khó khăn sau ngày thống nhất. Nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, cơ sở vật chất kĩ
thuật bị tàn phá nặng nề, những dòng người tị nạn dắt díu nhau trên khắp các ngả
đường, tiếng súng ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc vẫn chưa dừng. Thêm
vào đó, bên ngoài lại bị sự bao vây cấm vận từ Mỹ và các nước Phương Tây, nhiệm
vụ khôi phục kinh tế trở nên quá khó khăn. Những nguyên nhân khách quan ấy đặt
đất nước vào tình thế cam go, buộc phải tìm một hướng đi mới để thay đổi hoàn cảnh,
số phận toàn dân tộc.
Bên cạnh đó tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, chủ quan, duy ý chí, nóng vội vẫn còn
tồn tại ở nhiều cá nhân, tập thể; thể hiện qua việc yếu kém trong quản lý xã hội, trong
điều hành kinh tế, văn hóa… tất cả dồn ép, đẩy đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng
trầm trọng, khi mà sản xuất đình trệ, hàng hóa ít ỏi, lương thực thực phẩm không đủ
cung cấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, thiếu thốn, đói khổ. Văn hóa văn nghệ cũng
nằm trong bối cảnh khó khăn chung của toàn dân tộc.
Đứng trước những yêu cầu lịch sử, sau khi miền Nam giải phóng, Đảng đã tổ
chức hai kì Đại hội IV (năm 1976), V (1982) và hai kế hoạch 5 năm (1976-1980),
(1981-1985) nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ sau chiến
tranh, đáp ứng thiết yếu nhu cầu của đời sống nhân dân. Tư tưởng xây dựng nền văn
hóa mới, con người mới được quán triệt, song về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình

19
trạng giáo điều lạc hậu. Chỉ đến năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI diễn ra tại
Hà Nội, với chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ, từ kinh tế, chính trị, xã hội, tư

tưởng đến văn hóa, từng bước hội nhập khu vực và thế giới thì văn hóa văn nghệ mới
có điều kiện để thực sự thay đổi. Trong đó, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước
được xem là một quyết sách đúng đắn và sáng suốt. Từ mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp chuyển sang mô hình kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện tự do cạnh
tranh thương mại, phát huy tính dân chủ, tạo mối liên hệ trong cộng đồng. Từ đó, tạo
nhiều đổi thay quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong nhận thức, tư
tưởng, tình cảm, nhu cầu của con người. Bên cạnh đó, định hướng phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn liền với sự phát triển chung của xã hội,
trong đó con người phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển cá nhân. Đó là kết quả của việc kết hợp hài hòa các lợi ích toàn xã hội với
lợi ích của các tập thể, cá nhân; là kết quả của việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Có thể nói, Đại hội Đảng lần VI là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu
bước ngoặt của lịch sử phát triển đất nước. Trên tinh thần chung, Đại hội đã nhìn
nhận, đánh giá, phân tích đúng thực trạng đất nước sau ngày giải phóng, từ đó đề ra
phương hướng giải pháp tích cực nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,
lạc hậu về kinh tế, bảo thủ, trì trệ về tư tưởng. Đồng thời, Đại hội cũng tạo ra những
tiền đề chính trị quan trọng để đưa đất nước bước vào thời kì Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa, từng bước phát triển xứng tầm với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Tạo tiền đề đảm bảo ổn định, phát triển chung của xã hội, trong đó có văn học.
Trên tinh thần đổi mới toàn diện với không khí cởi mở, dân chủ của toàn dân
tộc, văn học có những điều kiện quan trọng để làm nên một bước nhảy, một cú “vượt
rào”, như Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận định: "Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở ra

20
một thời kì mới cho đất nước, cho sự đổi mới trong tư duy, bao gồm cả tư duy nghệ
thuật. Thái độ thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của các hiện tượng
xã hội, tinh thần dân chủ được phát huy trong quá trình đổi mới đã tạo nên sự thúc

đẩy lớn lao cho sự phát triển văn xuôi." [58].
Đặc biệt phải kể đến những chủ trương chính sách đúng đắn, kịp thời, tiến bộ
của Đảng và Nhà nước về văn hóa văn học. Trên diễn đàn của Đại hội VI, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh cũng đã tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy”, nhấn mạnh với
“nhiều việc cần làm ngay”, chính vì thế, tạo điều kiện thuận lợi để các văn nghệ sĩ
thỏa sức sáng tạo. Những biến động phức tạp của đời sống thực sự là “vùng trời,
vùng đất” thích hợp nếu không muốn nói là lý tưởng cho sự sáng tạo của người cầm
bút. Đất nước chuyển mình, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay, thị hiếu thẩm mĩ
và nhu cầu tiếp nhận văn chương thời kì này đã khác trước. Điều đó đòi hỏi nhà văn
phải nỗ lực hơn nữa trên hành trình lao động nghệ thuật của mình để rút ngắn lại
khoảng cách giữa văn học và đời sống, giữa nhà văn và bạn đọc, xây dựng quan hệ
bình đẳng.
Tiếp sau Đại hội VI là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và nâng
cao trình độ lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng
sáng tạo đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới” [53 ]. Đây
là Nghị quyết riêng đầu tiên của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ có giá trị và ý
nghĩa quan trọng cho việc giải phóng tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ. Đồng thời,
Nghị quyết khẳng định sự cần thiết đổi mới nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý văn
hóa văn nghệ. Văn nghệ thời kì này phải biết cổ vũ cái tốt, thẳng thắn phê phán cái
xấu, chống các khuynh hướng trái với đường lối, đặt văn học nghệ thuật trước một
nhiệm vụ mới quan trọng: “Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng tạo của văn học
nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ
thuật”. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng tác động trực tiếp đến quá trình
đổi mới văn học nghệ thuật nước nhà trong tình hình mới. Đặc biệt cuộc gặp gỡ của

21
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ vào tháng 10 năm 1987 tại Hà Nội.
Tổng Bí thư đã nêu lên những suy nghĩ của mình về việc “đổi mới văn hóa văn
nghệ”, đồng thời cũng nhắc nhở vị trí, trách nhiệm của người sáng tạo nghệ thuật
“Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ cũng là những người sản xuất, lại là

những người sản xuất ra sản phẩm cao cấp cho xã hội”… Chính vì vậy, “Nếu trong
lĩnh vực kinh tế cần phải phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các
đồng chí, các đồng chí cũng phải tự làm chủ”[53], người nghệ sĩ cần phải sáng tạo,
không thể khô cứng làm theo khuôn mẫu, theo con đường sẵn có vậy nên “không
được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường ray”. [61].
Nhiệm vụ cao cả của văn chương là phải sáng tạo, dấn thân tìm tòi và đổi
mới. Người nghệ sĩ phải tạo cho mình một lối đi riêng, mới mẻ, độc đáo; không sao
chụp lối mòn của người đi trước đã đi. Có thể nói, chưa bao giờ vai trò, trách nhiệm
của người cầm bút và tính chân thực của văn học lại được đặt ra một cách khẩn
trương và toàn diện đến thế.
Công cuộc đổi mới đã đáp ứng nguyện vọng của các nhà văn và độc giả cũng
như quy luật phát triển khách quan của lịch sử và nó đã khẳng định tính đúng đắn,
tiên phong của mình trở thành phong trào mạnh mẽ. Bằng chứng là đã có rất nhiều
tác phẩm thời kì này xuất hiện trên văn đàn: Từ những năm 1976 Thái Bá Lợi cho ra
mắt độc giả Hai người trở lại trung đoàn. Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng ,
Nguyễn Khải với Cha và con. Từ đầu những năm 1980 văn học bước vào giai đoạn
sôi nổi hơn, bằng chứng là sự ra đời của nhiều tác phẩm mới như Nguyễn Mạnh
Tuấn với Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao tràm; Ma Văn
Kháng với Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn; Nguyễn Minh Châu với Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê; Lê Lựu với Thời xa vắng; Nguyễn Khải
với Thời gian của người,… Kể từ sau 1986 điểm đến những sáng tác như: Chu Lai
với Ăn mày dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần, Vòng tròn bội bạc,… Nguyễn Huy
Thiệp với Tướng về hưu, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi,… Tạ

22
Duy Anh với Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, Đi tìm nhân vật,Thiên thần sám hối,
Giã biệt bóng tối …
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử mới đã tạo nên một thời kì văn học mới với
những thay đổi rõ nét, phát triển theo hướng dân chủ. Trong đó, “Tinh thần nhân bản
và sự thức tỉnh ý thức cá nhân” là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm

văn học giai đoạn này. Chính sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã mở rộng cánh cửa cho
văn học khai thác được nhiều đề tài và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm về con
người. Con người giờ đây được nhìn ở nhiều vị thế đa chiều, đó không chỉ là con
người xã hội, con người lịch sử mà đó còn là con người trong quan hệ với gia đình
với thiên nhiên môi trường. Hơn hết, đó là con người với chính mình, với những
buồn vui, sướng khổ, được mất,… Con người đi vào văn học một cách trần trụi, nhân
bản và giàu tính hướng thiện.
1.2. Những chuyển đổi tƣ duy nghệ thuật từ sau 1975
Nhìn lại lịch sử văn học, theo lệ thường, một khi lịch sử đã chuyển đoạn thì
văn học nghệ thuật tất yếu cũng phải chuyển theo. Điều kiện lịch sử xã hội với những
chuyển đổi cơ bản sau giải phóng, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI đã tác động
mạnh mẽ đến ý thức xã hội, kéo theo nó là những chuyển đổi mạnh mẽ trong ý thức
của nhà văn về sáng tạo nghệ thuật. Nền kinh tế thị trường với tất cả tính chất phức
tạp, gai góc của nó khiến con người không thể nhìn cuộc sống bằng nhãn quan sử thi
thuần khiết như những năm trước chiến tranh. Những thước đo giá trị cũ, những
chuẩn mực cũ giờ đây khi cọ xát với đời sống xô bồ, phức tạp của thời hiện đại dần
mất đi tính tuyệt đối của nó. Những vấn đề mới đặt ra trong cuộc sống thời hậu chiến
tất yếu đi vào sáng tác cùng nỗi ưu tư day dứt của người nghệ sĩ. Và đối tượng phản
ánh của văn xuôi sau 1975 thuộc về số phận cá nhân với những trăn trở của họ về
đời sống vật chất và tinh thần. Hiện thực đó đòi hỏi văn học phải gắn bó hơn với cuộc
sống, đi sâu khám phá con người một cách đa diện, sâu sắc hơn: Văn học phải tham
gia tích cực vào “Cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu trong mỗi con người – một

23
cuộc giao tranh không có gì ồn ào nhưng xảy ra từng giờ, từng ngày và khắp mọi
lĩnh vực đời sống.” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phải khám phá được con người
trong chiều sâu bí ẩn trong tâm hồn, trong sự bề bộn của cuộc sống.
Như được khích lệ, các nhà văn đã không ngần ngại bày tỏ quan niệm của
mình về hiện thực cuộc sống, đặc biệt là về con người một cách sâu sắc và toàn diện
nhất. Văn học trước 1975, văn học thường nhìn con người chủ yếu ở tư cách con

người công dân, con người giai cấp, con người dân tộc. Vì thế mà những bình diện
khác của con người, những tư cách khác của con người thường ít được văn học chú ý,
nếu có được quan tâm thì cũng dùng hệ qui chiếu của các giá trị cộng đồng. Nhà văn
thường lấy lí tưởng, hành động cách mạng làm thước đo giá trị, phẩm chất của con
người, vì thế, con người trong giai đoạn ấy được tái hiện trong khuôn mẫu của lí
tưởng cộng sản, hành động anh hùng, khát vọng vì Tổ quốc. Sau 1975, khi cuộc
chiến tranh chống Mỹ của toàn dân tộc đã kết thúc, con người được trở về với đời
sống thường nhật cùng những bộn bề lo toan và hơn hết con người còn phải đấu tranh
với chính bản thân để hoàn thiện mình, để hòa hợp với cuộc sống, với gia đình, với
tập thể. Con người “hôm qua” thuộc về cộng đồng, số đông đã nhường chỗ cho con
người “hôm nay” thuộc về cá thể, hiện lên với tư cách cá nhân, trong nhiều tầng quan
hệ . Thực tế đó, đòi hỏi văn học phải thay đổi, thay đổi từ quan niệm, đến cách viết.
Bằng sự nhạy bén của mình, các nhà văn đương đại đã khắc phục những hạn
chế của “thời xa vắng” nhanh chóng bắt kịp thời cuộc. Nhìn thẳng vào sự thật, viết về
“cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, màu đỏ với màu đen đầy rẫy những biến động bất
ngờ.” (Nguyễn Khải). Bên cạnh việc phản ánh những đổi thay của hiện thực thì việc
khắc họa số phận cá nhân trong văn xuôi đương đại là vấn đề lớn được các cây bút
quan tâm. Bởi như Nguyễn Minh Châu đã nói “Văn học và cuộc sống là hai vòng
tròn đồng tâm nhưng tâm điểm là con người.”. Con người là điểm xuất phát, là đối
tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích đến cuối cùng của văn học, đồng thời cũng
là điểm qui chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố

24
lịch sử. Ở cuộc sống mới, con người trong tổng hòa của những mối quan hệ xã hội trở
nên phức tạp hơn. Thế nên, chẳng phải ngẫu nhiên cảm hứng thế sự đời tư nổi lên
như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực sáng tạo” trong văn xuôi đương đại. Ngay
cả những sáng tác viết về nhiều đề tài khác như nông thôn, thành thị, nông dân, công
nhân, trí thức, người vợ, người mẹ, … nhà văn vẫn xoáy thật sâu vào những vẫn đề
cốt yếu thông qua tâm điểm nhân vật. Những niềm vui, nỗi buồn, sự sướng khổ, được
mất,… đi vào văn chương một cách chân thực và rõ nét hơn bao giờ và được xem

như một kiểu “tư duy thời đại”. Cũng là lính, cũng là công nhân, nông dân, người phụ
nữ, trí thức,… nhưng giờ đây, họ được soi chiếu từ nhiều góc độ và đặc biệt họ được
đặt vào giữa vòng xoáy cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất. Bằng cách
ấy, các nhà văn thời kì này đã để nhân vật của mình được đối diện với mọi vấn đề
phức tạp của cuộc sống. Từ đó, con người có thể bộc lộ mình thông qua những lời
thoại, tình huống, hoàn cảnh, qua các mối quan hệ và qua cả những suy tư thầm kín
của riêng mình bằng những lời tự vấn. Các nhà văn đã không đơn giản nhìn họ bằng
nhãn quan thuần khiết một chiều, dễ dãi; càng không có ý nhân nhượng hay thỏa hiệp
để chỉ thấy những điểm tốt, mặt lí tưởng của họ. Ngược lại các nhà văn đã miêu tả họ
với đầy đủ màu sắc khác nhau, ở nhiều vị trí, trên nhiều bình diện, xấu có tốt có, vui
có buồn có, hạnh phúc có khổ đau có, có mất mát, tổn thương, sám hối và có cả ước
mơ; thậm chí, nhân vật được đặt vào những “góc tăm tối nhất”. Ở họ không có những
“bất ngờ may rủi”, không mờ nhạt mà “đầy những vết dập xóa trên thân thể và tâm
hồn”. Vì thế, nhân vật trong văn xuôi đương đại không còn một chiều, đơn điệu mà
có sự kết hợp giữa ngoại hình và nội tâm, giữa ý thức và vô thức, giữa dục vọng và
bản năng ước mơ thánh thiện,…
Chính những thay đổi về tư duy nghệ thuật, đã dẫn đến những đổi thay quan
trọng trong quan niệm nghệ thuật về con người, sự đa dạng về bút pháp, giọng điệu,
ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật. Nhưng trước hết, việc thay đổi quan niệm nghệ thuật
về con người là điều kiện để văn xuôi đương đại tạo nên sự phong phú về các kiểu

25
dạng nhân vật mà văn xuôi giai đoạn trước chưa có hoặc có nhưng còn mờ nhạt. Nếu
văn xuôi giai đoạn trước với quan niệm về con người anh hùng gắn liền nới nó là
kiểu nhân vật sử thi thì văn xuôi đương đại với sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, đã
khuyến khích, cổ vũ người cầm bút được lựa chọn, mở rộng và sáng tạo tự do đối với
nhân vật của mình. Theo đó, họ có cơ hội nhìn lại, làm mới quan niệm nghệ thuật về
con người theo trường thẩm mĩ mới phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của công chúng.
Các nhà văn tập trung vào đời sống riêng tư, đào xới tận cùng bản thể con người trên
mọi bình diện, tầng bậc, mạnh dạn bày tỏ thế giới tâm thức bí ẩn trong con người.

Bởi thế văn xuôi đương đại xuất hiện nhiều kiểu dạng nhân vật mới được phân chia
theo nhiều tiêu chí khác nhau: Đó có thể là kiểu nhân vật sám hối đầy những suy tư,
dằn vặt, thức tỉnh như trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu; cũng có thể là
kiểu nhân vật vừa đáng ghét, vừa đáng thương trong một số sáng tác của Ma Văn
Kháng; hay là kiểu nhân vật kiếm tìm trong một số sáng tác của Tạ Duy Anh, Chu
Lai,… cũng có thể là kiểu nhân vật cô đơn trong một số sáng tác của Dạ Ngân,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam,… Sự đa
dạng về các kiểu nhân vật đã đem đến cho văn xuôi đương đại sức hấp dẫn riêng đặc
biệt, qua đó cũng khẳng định phạm vi phản ánh hiện thực cũng như quan niệm nghệ
thuật về con người đã có nhiều đổi mới, phong phú hơn.
Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy mỗi nhân vật trong văn xuôi đương đại đều có
những đoạn đời sóng gió, gập ghềnh và cả những nỗi niềm trắc ẩn, những mất mát,
tổn thương, hơn hết là cảm giác cô đơn luôn thường trực. Con người đời tư pha lẫn sự
cô đơn, ưu tư, dằn vặt, đau đớn, day dứt, sám hối. Họ dằn vặt trước thời cuộc, sống
trong sự tự bộc bạch, tự mổ xẻ chính mình như Chị Nhân, Hạnh (Bến không chồng),
Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh), chị Cả Thuần (Dòng
sông Mía), Hai Thìn (Lời nguyền hai trăm năm), Thuần (Giời cao đất dày)… Con
người với những nỗi niềm đắng cay, xa xót bộc lộ ra sự sai trái của mình bởi nhiều
lúc con người đã để mình rơi vào những khoảng tối. Hạnh (Bến không chồng) luôn

×