Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 112 trang )

1

ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I
TRƢƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN HỮU TIỆP



SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA ĐỖ
ĐỨC HIỂU



LUÂ
̣
N VĂN THA
̣
C SI
̃
VĂN HỌC
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM






Hà Ni - 2014

2

ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I

TRƢƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN HỮU TIỆP


SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA ĐỖ
ĐỨC HIỂU


LUÂ
̣
N VĂN THA
̣
C SI
̃
VĂN HỌC
Mã số: 60 22 01 21


Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Bá Thành




H Nội – 2014

3

Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của nhiều cá nhân, tập thể:
Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân, biết ơn chân thành nhất tới giáo viên
hướng dẫn, Thầy Phó Giáo sư. Tiến sĩ Nguyễn Bá Thành- người đã tận tình
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong khoa Văn học, phòng
Đào tạo Sau Đại học cùng các phòng, ban, khoa khác trong Trường Đại học
Khoa học Xã hi và Nhân văn trực thuc Đại học Quốc gia Hà Ni đã tạo
điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành Luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình và bạn bè -
những người luôn bên cạnh đng viên và giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn.
Mặc dù tôi đã hoàn thành Luận văn này bằng tất cả tâm huyết và năng
lực của mình, song không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Vậy rất mong
nhận được sự đóng góp của thầy cô và bạn bè.
Trân trọng cảm ơn!













4


Lời cam đoan
Đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện, không sử dụng,
sao chép ni dung của người khác. Trong quá trình thực hiện công trình
nghiên cứu của mình, tôi thực hiện đầy đủ các qui định về trích dẫn và sử
dụng tài liệu theo yêu cầu nghiên cứu khoa học.
Nếu trong Luận văn Thạc sĩ của mình có những dấu hiệu vi phạm về
việc sao chép, cắt xén, xuyên tạc ni dung trích dẫn, tôi xin chịu mọi hình
thức kỉ luật của hi đồng nghiên cứu khoa học.


Hà Ni, ngày……tháng……năm 2014
Người thực hiện




Nguyễn Hữu Tiệp






5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề ti:
Đỗ Đức Hiểu là mt trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về văn học
Pháp ở Việt Nam. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc đưa văn
học Pháp nói riêng và văn học phương Tây nói chung vào hệ thống giảng dạy
cho sinh viên ở các trường Đại học.
Trong 50 năm nghiên cứu và giảng dạy, Đỗ Đức Hiểu đã để lại nhiều
công trình nghiên cứu về văn học Phương Tây, văn học Pháp có giá trị. Đồng
thời, Đỗ Đức Hiểu còn là mt nhà nghiên cứu văn học nặng lòng với nền văn
học Việt Nam. Mt số công trình nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam
của ông được đánh giá cao như bình giảng Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương,
kịch Vũ Như Tô…Qua đây, chúng ta thấy được diện mạo phong phú, tài năng
sáng tạo trên nhiều lĩnh vực của ông. Tuy nhiên, đã hơn 10 năm kể từ ngày ra
đi cho tới thời điểm hiện tại, chưa có mt công trình khoa học đầy đủ và toàn
diện tìm hiểu những đóng góp của Đỗ Đức Hiểu đối với sự nghiệp nghiên cứu
và phê bình văn học nước nhà. Chúng tôi thiết nghĩ thật là mt sự khiếm
khuyết lớn cho việc nghiên cứu văn học hiện nay. Bởi những đóng góp của
nhà nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa có ý nghĩa quan trọng về nhận thức mà
còn có ý nghĩa về tư duy trong nghiên cứu và phê bình văn học. Sẽ là mt
thiệt thòi lớn, thiếu sót lớn cho những thế hệ sau khi đi tìm hiểu về cuc đời
nghiên cứu-phê bình văn học của mt trong những nhà khoa học hàng đầu của
Việt Nam. Vấn đề cấp thiết có tính khoa học được đặt ra là liệu chăng chúng
ta có cần mt công trình khảo cứu toàn diện những đóng góp của Đỗ Đức
Hiểu? Chúng tôi thiết nghĩ là cần thiết trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay khi
chúng ta đang tiến hành tổng kết và nhìn lại những điểm đã đạt được và hạn
chế trong nghiên cứu văn học mt chặng đường dài sau Đổi mới. Với tinh
thần khách quan, công tâm, chúng ta sẽ có mt công trình khoa học có ý
6


nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu văn học hiện nay ở nước ta. Đây cũng là
cơ hi quí báu để chúng ta tưởng nhớ mt người thầy tận tuỵ, tâm huyết, mt
nhà giáo mẫu mực, mt nhà nghiên cứu nghiêm khắc với chính những công
trình của mình.
Với sự cố gắng cao nhất trong khả năng, chúng tôi đi vào tìm hiểu toàn
b những đóng góp của Đỗ Đức Hiểu đối với sự nghiệp nghiên cứu và phê
bình văn học. Hơn bao giờ hết, chúng tôi mong muốn và hi vọng qua công
trình của mình sẽ đưa tới cho người đọc mt cái nhìn minh triết khách quan,
mt công cụ cần thiết, những trang khảo cứu hữu hiệu cho nghiên cứu văn
học. Đồng thời, đây cũng là mt công trình khoa học tri ân và tưởng nhớ của
chúng tôi tới nhà nghiên cứu tâm huyết, tài năng, đóng vai trò quan trọng
trong nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam. Đây chính là lí do, chúng
tôi chọn đề tài Sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu là
lĩnh vực nghiên cứu cho mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trong hành trình không ngừng nghỉ của mt nhà nghiên cứu đã từng
“thâm canh” qua rất nhiều vùng đất mới của văn chương với mt tâm thế, mt
bản năng mẫn tiệp, minh triết luôn khao khát vươn tới ánh sáng của trí tuệ,
mt linh cảm tinh tế phát hiện “hạt vàng” của văn chương sau những “lớp
sóng ngôn từ”, Đỗ Đức Hiểu đã để lại hàng nghìn trang viết có giá trị. Những
đóng góp của Đỗ Đức Hiểu đối với nghiên cứu và phê bình văn học là không
thể phủ nhận được. Tuy nhiên, kể từ ngày Đỗ Đức Hiểu mất đến nay chưa có
mt công trình nào thực sự đầy đủ đánh giá hết tầm vóc, vai trò và vị thế của
Đỗ Đức Hiểu. Gần đây, cũng có xuất hiện mt số bài viết nhận định, đánh giá
của mt số nhà nghiên cứu khoa học trong nước về những công trình của Đỗ
Đức Hiểu.
7

Trong bài viết Nhớ Đỗ Đức Hiểu- dịch giả, nhà nghiên cứu Lê Hồng

Sâm đã nhận xét rất thành tâm về tài năng và phẩm chất của người dịch giả
này “Không kể những chuyện nổi tiếng dành cho thiếu nhi, các tác phẩm anh
dịch thuc mt số tác giả tiêu biểu trong lịch sử văn học Pháp: Tartuffe, Anh
ghét đời, Lão hà tiện của Môlie (thế kỉ XVII), Paul và Virginie của Barnardin
de Saint- Pierre (thế kỉ XVIII), kịch Marion Delorme và tiểu thuyết Những
người khốn khổ (dịch chung) của Victo-Huygo (thế kỉ XIX)… Trong b
Tuyển tác phẩm văn học Pháp song ngữ, do anh và tôi phụ trách, anh chủ biên
và dịch phần lớn tập II (thế kỉ XVII). Anh đã dịch những trang cuối cùng của
cuc đời mình vào dịp kỉ niệm 200 năm sinh Banlzac, đó là Lời nói đầu b
Tấn trò đời” [51, tr. 23-24]
Trong bài viết Hình dung người “Đổi mới phê bình văn học” của nhà
phê bình Đỗ Lai Thuý đăng trên tạp chí văn học số 6 -1994. Nhà phê bình đã
đưa ra nhận định khái quát nhất về vai trò của Đỗ Đức Hiểu đối với sự nghiệp
nghiên cứu và phê bình ở nước ta vào những năm đầu thời kì đổi mới “
Những năm gần đây, anh Đỗ Đức Hiểu đã cùng lúc làm mt hành trình kép:
Từ nghiên cứu đến phê bình và từ phương Tây về Việt Nam. Hành trình đầu
có vẻ ngược với hệ giá trị hiện hành của số đông những người làm văn học cỡ
tuổi anh, thường khởi nghiệp bằng “phê bình” và dựng nghiệp bằng “nghiên
cứu”. Hành trình sau chẳng những phù hợp với ứng xử “ni thể ngoại dụng”
của cả vùng Đông Nam Á trước Phương Tây, mà còn góp thêm mt minh
chứng cho cơ chế phát triển của Việt Nam là mỗi bước đi lên đều là kết quả
hỗn dung của các nhân tố ni sinh và ngoại sinh. Toạ đ của cả hai l trình
này là lòng yêu tiếng mẹ đẻ và nỗi mong văn chương Việt vào nhịp với thế
giới hiện đại. Điểm đến của cả hai cuc đi này là đổi mới phê bình văn học”
[87, tr. 17]. Trong bài viết này, Đỗ Lai Thuý đã đánh giá cao “con mắt xanh”
của nhà nghiên cứu “Anh Đỗ Đức Hiểu đã nhìn thấy ở Phương Tây mt cái gì
8

vừa là nó vừa lớn hơn chính nó, nhất là mt phương Tây đang hướng về
phương Đông: Phương Tây đồng nghĩa với hiện đại” [ 87, tr.17-18].

Trong bài viết Với Đỗ Đức Hiểu, chân lí không trừu tượng đăng trên
tạp chí Văn học số 4- 2003, nhà nghiên cứu Phan Quí Bích đã đưa ra mt
nhận định khá thú vị về cuc đời làm khoa học của Đỗ Đức Hiểu “Trong cuc
đời làm khoa học của mình, Đỗ Đức Hiểu (1924- 2003) đã hai lần lên tiếng
đối thoại với phương Tây và thể hiện lập trường khác nhau trước những thành
tựu của trí tuệ phương Tây: Ông nói không với chủ nghĩa hiện sinh và ông tán
thành với phê bình đổi mới (…) Nói không hay tán thành cũng không có gì lạ
vì phương Tây có nhiều khuôn mặt. Nhưng điều đáng suy nghĩ là, sự phủ định
của ông lại nhằm vào chủ nghĩa hiện sinh, mt tư trào được xem là nhân văn;
sự khẳng định của ông lại nhằm vào thi pháp, mt hướng tìm tòi bắt nguồn từ
các quan điểm hình thức chủ nghĩa về văn chương” [8, tr. 32]. Nhà nghiên
cứu Phan Quý Bích đánh giá cao việc vận dụng thi pháp hiện đại của Đỗ Đức
Hiểu “Ông là mt trong những người đầu tiên ở ta tìm hiểu thi pháp và ứng
dụng nó trong phê bình, nghiên cứu. Và thi pháp đã thực sự nở hoa trong
nhiều trang viết của ông.” [8, tr. 38]
Nguyễn Hữu Đạt trong bài viết Đỗ Đức Hiểu âm thầm một bàn tay
minh triết in trên tạp chí Văn hoá Nghệ An đã đưa ra nhận định hết sức tinh
tế, minh triết về người “thầy cũ” của mình, tác giả đánh giá cao quá trình tự
đổi mới của Đỗ Đức Hiểu với hai tập sách phê bình “Đỗ Đức Hiểu là mt
chứng nhân lịch sử của trí thức hiện đại Việt Nam. Ông sống hơn hai phần ba
thế kỷ trong khung cảnh lịch sử của mt đất nước đầy biến đng, làm nên
những kỳ tích bởi cả chất bi và chất hùng. Con người ông chính là hi tụ của
của nhiều luồng tư tưởng, đa dạng, phức tạp. B óc ông là mt b óc trác việt
dung chứa nhiều kiến thức thẳm sâu của hai nền văn hoá Đông- Tây. Bởi thế,
tuy là mt chuyên gia cỡ đầu ngành về Văn học Phương Tây ông vẫn có nhiều
9

bài viết gây dư luận về Văn học Việt Nam ( ) Sau thời kỳ đất nước Đổi mới,
ngòi bút ông không ngớt trăn trở. Ông hăm hở lao vào mặt trận nóng bỏng:
mặt trận phê bình và cho xuất bản mt loạt những công trình tiêu biểu như:

Phê bình I, Phê bình II ” [24]
Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch trong bài viết Đỗ Đức Hiểu và tác
phẩm Đổi mới phê bình văn học đăng trên trang www.trieuxuan.info, đã nhận
định về tầm vóc của Đỗ Đức Hiểu đối với sự nghiệp Đổi mới phê bình ở nước
ta “Vào cuối những năm 80 đầu 90 của thê kỉ XX. Trên diễn đàn văn học xuất
hiện mt tiếng nói phê bình đc đáo: vừa thâm trầm uyên bác vừa mạnh mẽ,
nồng nhiệt và đầy sức cuốn hút. Đó là những bài phê bình văn học của Đỗ
Đức Hiểu. Ông là cán b giảng dạy văn học Phương Tây của khoa Ngữ văn
trường Đại học Tổng hợp Hà Ni. Mặc dù tuổi đã cao (sinh năm 1924 mất
năm 2003) và trước đây không chuyên viết phê bình văn học, dường như bị
cao trào đổi mới của đời sống văn học cuốn hút, Giáo sư đã góp phần đáng kể
cho diễn đàn phê bình văn học trở nên sôi đng và có bản sắc mới, tạo ra mt
xu hướng “Phê bình mới” khác hẳn lối phê bình cũ, khuôn sáo trước đây.
Cuốn Đổi mới phê bình văn học là sự tuyển chọn phần lớn những bài viết của
Giáo sư trong hai thập niên cuối thế kỉ trước (Nhà xuất bản Khoa học Xã hi
liên kết với NXB Mũi Cà Mau, 1993, Nhà xuất bản Hi nhà văn tái bản), giá
trị cuốn sách đã được khẳng định, giới nghiên cứu và phê bình văn học thừa
nhận sự sáng tạo của Đỗ Đức Hiểu là ở tầm vóc Đại bàng trên con đường đổi
mới Tư duy nghệ thuật” [84 ]
Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch trong mt bài viết đáng chú ý khác Thi
pháp học- Lịch sử và vấn đề in trên www.vanchuongviet.org đã đánh giá
những thành tựu của Đỗ Đức Hiểu trên mt phương diện khác. Tác giả Đỗ
Ngọc Thạch đánh giá vai trò đi đầu của nhà nghiên cứu khi tiếp cận thi pháp
học vào nghiên cứu ở Việt Nam “Còn các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đi
10

vào thi pháp học khá đông đảo và cũng đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
chú ý: Hoàng Trinh, Bùi Công Hùng, Nguyễn Kim Đính, Đỗ Đức Hiểu, v.v…”
[86]
Trong bài viết Sartre và văn học, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch cũng

thể hiện sự bênh vực của mình đối với công trình nghiên cứu của Đỗ Đức
Hiểu về Văn học Hiện sinh “Đỗ Đức Hiểu - chuyên gia hàng đầu về văn học
Phương Tây- có cuốn "Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa" (NXB Văn học
H.1978). Tuy nhiên, trong những chuyên đề về văn học hiện sinh, văn học phi
lý của ông tại Khoa Ngữ văn (Trường ĐH Tổng hợp Hà Ni) mà chúng tôi
được thọ giảng (năm 1972) thì không hề có ý phê phán. Có thể hiểu cuốn
sách đó là “nhiệm vụ chính trị” mà ông phải thực hiện-“thân bất do kỷ” (…)
Không riêng gì cuốn sách của Đỗ Đức Hiểu, mt thời gian khá dài, tất cả
những gì thuc về “Phương Tây” đều bị coi là “Tư sản phản đng” cần phải
phê phán” [85] .
Tác giả Trần Hinh, trong bài viết Đỗ Đức Hiểu- Nhà nghiên cứu phê
bình mơ mộng và sáng tạo [51], cho chúng ta mt góc nhìn khá đầy đủ về đời
tư, cá tính sáng tạo trong nghiên cứu và phê bình văn học của nhà nghiên cứu
“Đỗ Đức Hiểu là mt người biết suy tư, mơ mng, thậm chí, đôi khi, tiềm
năng mơ mng và sáng tạo của ông vượt qua ranh giới của sự cực đoan. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, nếu không có sự cực đoan đáng yêu đó, sẽ thật khó
có mt Đỗ Đức Hiểu như chúng ta đã biết. Trong nghiên cứu khoa học nói
chung và văn học nói riêng, cực đoan đôi khi cũng gắn liền với sự sáng tạo”
[51, tr. 25]. Tác giả bài viết khẳng định những đóng góp của ông, với vai trò
là mt trong những nhà nghiên cứu đi đầu cho đổi mới và phê bình “Đỗ Đức
Hiểu trong mười năm liền, từ năm 1990 đến năm 2000, nghĩa là ở thập niên
cuối cùng của thế kỉ XX, đã góp phần đem đến cho giới nghiên cứu và phê
bình văn học Việt Nam mt diện mạo hoàn toàn mới mẻ” [51, tr. 21]
11

Trong cuốn Thi pháp hiện đại một số vấn đề lí luận và ứng dụng, phần
vĩ thanh- Chân trời vắng một cánh bay, tác giả Trần Hinh cũng đã đưa ra
nhận định xúc đng đầy tinh tế, suy tư về “mt cánh bay” vắng bóng “chân
trời” văn chương “Thế là từ nay, có mt chân trời vắng bóng mt cánh bay.
Từ nay, giới nghiên cứu và giảng dạy và những người yêu thích văn học Pháp

sẽ không còn có cơ hi được chia sẻ, thưởng thức những dòng suy tư mới mẻ,
tươi mát đầy sáng tạo của mt trong những nhà nghiên cứu văn học Phương
Tây hàng đầu ở Việt Nam” [51, tr. 692]
Trong cuốn Các tác giả văn chương Việt Nam của nhà nghiên cứu
Nguyễn Mạnh Thường đã nhận định mt cách khá khách quan và về vai trò
của Đỗ Đức Hiểu đối với nghiên cứu và phê bình văn học “Đỗ Đức Hiểu, là
mt trong những người đi tiên phong trong việc đề xuất cần đổi mới về cách
đọc và cách phê bình văn học lâu nay của chúng ta” [91] .
Nhà nghiên cứu Đặng Thị Hảo trong cuốn Từ điển văn học (b mới) đã
chỉ ra sự thay đổi trong tư duy tiếp nhận của Đỗ Đức Hiểu sau Đổi mới “Về
nghiên cứu văn học, Đỗ Đứu Hiểu là mt trong số ít người ngay từ đầu những
năm 80, sau chuyến đi nghiên cứu ở Pháp, tham dự hi thảo quốc tế về
Xtăngđan, đã dứt khoát từ bỏ lối nghiên cứu xã hi học dung tục, tự phủ định
cái cũ của bản thân, nhanh chóng tiếp cận trào lưu nghiên cứu phê bình mới
cuả phương Tây với chủ trương tiếp cận văn chương từ góc đ thi pháp” [47,
tr. 437]. Trong cuốn sách, nhà nghiên cứu cũng chỉ ra những đóng góp của
ông đối với nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam “Đối với văn học Việt
Nam, ông cũng có nhiều kiến giải riêng. Các bài viết Thế giới thơ nôm Hồ
Xuân Hương, Những con đường ra đi của Thuý Kiều, Bị kịch Vũ Như Tô,
Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ, Phiên chợ Giát, Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh không chỉ được dư luận chú ý về mặt nêu luận điểm mà còn có
văn phong mở và đa giọng điệu. Các tầng nghĩa, giá trị mĩ học của văn bản
12

nghệ thuật được phân tích tỉ mỉ, đặc biệt từ góc đ ngôn ngữ học, đã cho thấy
mt trình đ kiến thức của mt người vừa am tường văn học và nền lí luận
phong phú của phương Tây lại cũng giàu tình yêu, lòng quí trọng dòng văn
chương đậm chất nhân văn của Việt Nam”[47, tr. 437].
Nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp trong bài viết Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã
qua đời (1924-2003) đã đưa ra nhận định đầy xúc đng về quá trình sáng tạo

trong nghệ thuật của Đỗ Đức Hiểu “Với ông, nghiên cứu cũng là sáng tạo,
sáng tạo lại “mẫu gốc”. Thời gian chạm khắc vào ông, ông chạm khắc vào
văn chương nghiên cứu mt sáng tạo ( ) Gần nửa thế kỉ qua ông là người
chèo đò nhẫn nại giăng mắc trên dòng sông có hai bờ văn hoá ấy. Như bao
đời dòng sông và lòng người không phải bao giờ cũng hiền hoà, êm ả. Song
ông được đồng nghiệp quý nể, được học trò kính trọng, được người đời tìm
đến với tư cách là nhà khoa học lớn có uy tín, trách nhiệm. Hàng mấy trăm
bài báo, tạp chí, hàng mấy chục đầu sách dịch và viết, đến nay hỏi ông cũng
lắc đầu không nhớ hết” [36]. Khi nhận định về phong cách trong phê bình cuả
Đỗ Đức Hiểu, nhà nghiên cứu đã rất tinh tế “Văn chương nghiên cứu Đỗ Đức
Hiểu đng đậy, âm vang về phía trăn trở, trái ngang. Ông nhìn vẻ đẹp văn
chương bằng ánh sáng của tâm linh dịu dàng và đau khổ”[ 36].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành trong cuốn Bản sắc Việt Nam qua
giao lưu văn học đã nhìn nhận vai trò quan trọng của Đỗ Đức Hiểu trong giao
lưu văn học Đông -Tây. Ông đã đưa ra nhận xét hết sức tinh tế về những đóng
góp của Đỗ Đức Hiểu trong sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học “Đỗ
Đức Hiểu là người chuyên nghiên cứu về văn học Pháp nhưng là mt người
rất yêu thích văn học nước nhà. Ông có mt bài bình thơ hết sức nổi tiếng về
bức tranh phong cảnh và tâm trạng nhân vật Thuý Kiều với đầu đề là bình
văn: Buồn trông…Ông tỏ ra rất tinh tế và nhạy cảm trong khi chỉ ra cái hay,
cái đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Ông
13

đã có nhiều bài viết về văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945, đặc biệt là tiểu
thuyết của Nhất Linh. Ông chăm chú theo dõi sự đổi mới của văn học Việt
Nam sau năm 1985 về sau. Có thể nói, Đỗ Đức Hiểu là mt bậc thầy trong
thẩm định văn chương. Ông đã nhìn ra xu thế hoà nhập tất yếu của văn học,
văn hoá nhân loại trong những năm cuối thế kỉ XX” [83, tr. 570]. Kết lại bài
viết, nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành đánh giá cao tư cách nhà khoa học
của ông và vai trò của ông với sự nghiệp hoà nhập, giao lưu văn hoá Đông-

Tây.
Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn trong bài viết Khuynh hướng phê bình
thi pháp trong phê bình văn học của người Việt Nam ở nước ngoài in trên tạp
chí Nghiên cứu Văn hoá đã nhận định mt cách tinh tế đối với công trình
nghiên cứu sau đổi mới của Đỗ Đức Hiểu “Trong Thi pháp hiện đại, những
trang viết sôi nổi nhất lại dành cho thơ Hồ Xuân Hương, Lưu Trọng Lư, Vũ
Đình Liên… Nhạy cảm của nhà phê bình thi pháp phải chăng xuất phát từ
thực tế: thơ vẫn là thể loại lấn át văn xuôi (đặc biệt là tiểu thuyết) trong sinh
hoạt văn chương Việt Nam ?” [97]
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết Thi pháp hiện đại trong
nghiên cứu văn học ở Việt Nam thế kỉ 20- Qua góc nhìn của một người
nghiên cứu, tác giả bài viết đã đánh giá Đỗ Đức Hiểu là mt trong những
người đã vận dụng thi pháp học mt cách tinh tế trong nghiên cứu văn học ở
Việt Nam “Đỗ Đức Hiểu đi vào phê bình mới khá mun màng ( ) Thành
công của Đỗ Đức Hiểu có thể do ông có trực cảm nhạy bén về ngôn ngữ hơn
là vận dụng lí thuyết, bởi lí thuyết của ông vừa thiếu hệ thống, vừa sơ lược
(…) Ông đã có mt số phát hiện khá lí thú về nghệ thuật ngôn từ trong sáng
tác Vũ Trọng Phụng, Hồ Xuân Hương” [80]
Trong mt bài tiểu luận Lược sử thi pháp học Việt Nam của Phạm Ngọc
Hiền, tác giả bài viết coi Đỗ Đức Hiểu là mt trong những người đi tiên
14

phong trong việc mở đường cho Thi pháp học tiến vào nước ta “Đỗ Đức Hiểu
có mt số bài về thi pháp gây chú ý trên báo Văn nghệ như: Một số vấn đề Thi
pháp học, Thi pháp là gì ? (số 16/1992), Thi pháp học, thi pháp thơ (số
17/1992). Sau này tập hợp in trong cuốn Thi pháp hiện đại (2000)” [34]
Tựu chung lại, mặc dù với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, phương
pháp nghiên cứu khác nhau, tới những nhận định kiến giải khác nhau về
những đóng góp và những công trình nghiên cứu phê bình văn học của Đỗ
Đức Hiểu nhưng điểm chung hướng tới trong những bài viết đó đề cập tới

những ni dung khoa học sau:
-Thứ nhất: Khẳng định những đóng góp quan trọng của Đỗ Đức Hiểu
trong việc tổ chức, biên soạn và giới thiệu văn học phương Tây, đặc biệt là
văn học Pháp vào Việt Nam.
-Thứ hai: Đóng góp của Đỗ Đức Hiểu với việc vận dụng lí thuyết thi
pháp hiện đại của phương Tây vào nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam.
-Thứ ba: Nhiều bài viết đã chỉ ra được mt số nét tiêu biểu về phong
cách nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu.
- Thứ tư: Mt số bài viết đã đánh giá rất cao nhân cách thành thực trong
nghiên cứu khoa học của Đỗ Đức Hiểu.
Có thể thấy rằng những nhận định của các nhà nghiên cứu trên đã có
những phát hiện, thể hiện nhãn quan khoa học sâu sắc. Nhiều bài viết đã đưa
ra nhận định có phần tinh tế trên cơ sở am hiểu sâu sắc nhà nghiên cứu, người
thầy Đỗ Đức Hiểu. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng đây mới chỉ là những nhận
định, đánh giá ý kiến mang tính khái quát chung chung, tản mạn, chưa có tính
hệ thống, nhiều bài viết còn mang tính cảm xúc chủ quan, những nhận định
còn mơ hồ xét trên tinh thần khoa học, nhiều khi thiên về cảm tính chưa phải
là những công trình có tính chất khoa học. Bởi vậy, những bài viết chỉ dừng
lại là những tài liệu tham khảo quan trọng trong việc tìm hiểu thêm về Đỗ
15

Đức Hiểu, nó không thể trở thành mt công trình khoa học thực thụ, toàn diện
về sự nghiệp của nhà nghiên cứu. Trong quá trình hoàn thiện công trình
nghiên cứu khoa học của mình, chúng tôi rất coi trọng những nhận định,
những bài viết, những công trình nghiên cứu quí báu này để làm nền tảng
hoàn thiện và củng cố cho những luận điểm đưa ra nhằm tăng tính thuyết
phục cho Luận văn.
3. Đối tƣợng v phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Khảo sát những công trình nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức

Hiểu ở cả hai giai đoạn trước và sau Đổi mới (năm 1986).
3.2 Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài này gồm chủ yếu những công trình
nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu:
-Văn học Công xã Pari (1978)
-Phê phán văn học Hiện sinh chủ nghĩa (1978)
-Đổi mới Phê bình văn học (1993)
- Đổi mới Đọc và Bình văn (1998)
-Thi pháp hiện đại (2000)
- Thi pháp hiện đại một số vấn đề lí luận và ứng dụng (2012)
(Thi pháp hiện đại của Đỗ Đức Hiểu được tác giả Trần Hinh tập hợp, tuyển
chọn và giới thiệu)
4. Mục đích nghiên cứu
Trong Luận văn, chúng tôi hướng tới làm sáng rõ những ni dung cơ
bản sau:
- Thấy được những đóng góp, thành tựu của Đỗ Đức Hiểu trong sự
nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học trong cả hai giai đoạn trước và sau
Đổi mới (năm 1986)
16

- Thấy được phong cách nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức
Hiểu.
- Thấy được sự chuyển biến từ phương pháp phê bình Mác-xít sang
phương pháp nghiên cứu thi pháp học của Đỗ Đức Hiểu.
5. Đóng góp của luận văn
Chọn đề tài Sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức
Hiểu, chúng tôi muốn đem đến cho nghiên cứu và phê bình văn học mt tài
liệu khảo cứu chuyên biệt, hữu ích trong việc tìm hiểu những cống hiến to lớn
và quan trọng của Đỗ Đức Hiểu. Chúng tôi thực tâm mong muốn và hi vọng
đây là mt công trình đầy đủ nhất, chuyên sâu sâu nhất trong việc tìm hiểu

những cống hiến của Đỗ Đức Hiểu. Đồng thời, điểm mới và đóng góp trong
công trình nghiên cứu của chúng tôi là việc đi sâu vào tìm hiểu phong cách,
cá tính sáng tạo trong nghiên cứu và phê bình văn học Đỗ Đức Hiểu. Cùng
với đó, xem xét các công trình của Đỗ Đức Hiểu trong suốt quá trình sáng tạo.
Công trình này, trên cơ sở kế thừa tính tích cực, hạt nhân khoa học, hợp lí các
quan điểm nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi đưa ra
những kiến giải riêng, luận điểm cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện mt công
trình chuyên biệt, chuyên sâu về sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học
của Đỗ Đức Hiểu. Chúng tôi hi vọng và tin tưởng nó sẽ trở thành mt nguồn
khảo cứu quan trọng trong nghiên cứu văn học hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn của mình, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu khoa học sau :
-Phương pháp lịch sử xã hi: Trong luận văn, phương pháp lịch sử xã
hi sẽ là mt phương pháp quan trọng trong việc nhìn nhận mt cách đúng
đắn nhất những đóng góp của Đỗ Đức Hiểu qua các thời kì, giai đoạn lịch sử
khác nhau.
17

-Phương pháp hệ thống: Góp phần quan trọng trong việc hệ thống hoá
những đóng góp trên nhiều phương diện, lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn
học của Đỗ Đức Hiểu.
-Phương pháp so sánh đối chiếu: Góp phần quan trọng trong việc đối
chiếu những công trình của Đỗ Đức Hiểu với những nhà nghiên cứu khác để
thấy được đóng góp và phong cách nghiên cứu văn học của Đỗ Đức Hiểu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham khảo, kết cấu
luận văn gồm có 3 phần chính:
Chương I: Phương pháp luận Mác-xít và thành tựu trong nghiên cứu-
phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu trước năm 1986.

Chương II: Tiếp nhận thi pháp học và sự vận dụng trong nghiên cứu-
phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu sau năm 1986.
Chương III: Phong cách nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức
Hiểu.








18

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: Phƣơng pháp luận Mác-xít v thnh tựu trong nghiên cứu-
phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu trƣớc năm 1986.
1.1. Sơ lƣợc về tiểu sử v quá trình nghiên cứu của Đỗ Đức Hiểu.
Đỗ Đức Hiểu sinh ngày 16 tháng 9 năm 1924 trong mt gia đình công
chức tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Ni. Ngay từ rất sớm,
ông được làm quen với tiếng Pháp và văn hoá Pháp. Năm 17 tuổi, ông vào
học trường Bưởi (tiền thân là trường Chu Văn An), mt ngôi trường nổi tiếng
của Hà Ni lúc bấy giờ. Tốt nghiệp tú tài năm 1943, ông np đơn vào ban
Luật. Cách mạng tháng tám nổ ra và thành công, ông rời trường lên chiến khu
kháng chiến theo tiếng gọi của Đảng và Chính phủ. Đem sức lực và khả năng
của mình phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Từ năm 1946-1950, ông
dạy học mt loạt các trường chiến khu Việt Bắc: Trường Trung học Hùng
Vương-Phú Thọ, Trường Lương Ngọc Quyến-Thái Nguyên…Những ngôi
trường được coi là cái nôi thân thương của ngành giáo dục thời kháng chiến.
Năm 1954 hoà bình lập lại, Đỗ Đức Hiểu được phân công về làm việc

tại ban Tu thư của B giáo dục, chuyên trách biên soạn sách giáo khoa bậc
Trung học Phổ thông. Cũng trong thời gian này, ông và mt số nhà nghiên
cứu khác như Vũ Đình Liên, Huỳnh Lí, Lê Thước, Lê Trí Viễn… thành lập
nhóm Lê Quí Đôn, chuyên làm công việc biên soạn, hiệu đính, sưu tầm và
dịch thuật. Đây là mt nhóm học thuật tự nguyện vì tình yêu khoa học và giáo
dục nước nhà. Trong những năm này, Đỗ Đức Hiểu cùng nhóm Lê Quí Đôn
đã có công lớn dịch thuật mt loạt các tác phẩm văn học nước ngoài sang
Tiếng Việt. Mt số tác phẩm như: Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà
Pari của Victo-Huygô, Túp lều bác Tôm của Mác-tuyên, mt số vở kịch của
Môlie Đặc biệt là công trình Sơ thảo văn học Việt Nam đầu tiên có tính hệ
thống và mt số bản dịch chuẩn mực nhất đã hình thành từ đây.
19

Năm 1959, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Ban Tu thư, Đỗ Đức Hiểu
về làm việc tại Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Ni. Trong thời
gian này, ông có điều kiện đựơc làm việc với những nhà nghiên cứu hàng đầu
của nước ta lúc bấy giờ như Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Như Mai, Nguyễn Tài
Cẩn, Đinh Gia Khánh…Trong hoàn cảnh của cuc chiến tranh giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, việc đóng cửa quan hệ với các nước tư bản
chủ nghĩa phương Tây khiến cho nguồn tài liệu tri thức, sách vở về văn học
Phương Tây ở nước ta lúc đó trở nên khan hiếm, Đỗ Đức Hiểu cùng mt số
bạn đồng nghiệp đã biên soạn cuốn Lịch sử Văn học Phương Tây. Nó như
mt cuốn giáo trình cung cấp những tri thức về văn học phương Tây, đặc biệt
là văn học Pháp để đáp ứng sự nghiệp giảng dạy văn học Phương Tây cho
sinh viên các trường Đại học. Cuốn sách mang ni dung súc tích, có giá trị
lịch sử cao về văn học, lúc bấy giờ đã đem đến cho sinh viên “mt cái nhìn
tương đối hệ thống về diện mạo tổng thể, đặc trưng của nền văn học này”
[47].
Từ năm 1964- 1967, ông được cử sang giảng dạy tiếng Pháp tại Đại
học Nam Kinh Trung Quốc. Mt thời gian ngắn sau cách mạng văn hoá

Trung Quốc, ông về nước công tác tại khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà
Ni. Từ năm 1970, ông trở lại khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Ni cho
tới lúc nghỉ hưu (năm 1990). Trong những năm 1970 đến năm 1978, ông
tham gia công tác quản lí khoa Ngữ văn với cương vị Phó Chủ nhiệm phụ
trách đào tạo. Trong thời gian khoảng năm mươi năm nghiên cứu và giảng
dạy, Đỗ Đức Hiểu đã để lại nhiều công trình dịch thuật, nghiên cứu và phê
bình có giá trị.
Năm 1978, Đỗ Đức Hiểu cho xuất bản hai tập nghiên cứu: Phê phán
văn học Hiện sinh chủ nghĩa, Văn học Công xã Pari. Đứng trên lập trường
Mác-xít, xã hi học, Đỗ Đức Hiểu đã phê phán kịch liệt văn học Hiện sinh
20

chủ nghĩa “Phải kịp thời phê phán triệt để, có hệ thống, có khoa học những
tàn dư của sự xâm lăng của mt trào lưu tư tưởng suy đồi nhập cảng từ
phương Tây” [43, tr.178]. Mặt khác, đối với văn học Công xã Pari, Đỗ Đức
Hiểu coi đây là thứ văn học “mầm mống xanh tốt” cho văn học hiện thực xã
hi chủ nghĩa sau này “Văn học Công xã Pari mở đường mới cho văn học”
[38, tr. 100].
Sau năm 1986, đặc biệt là kể trừ khi trở về từ Pháp sau khi tham dự hi
thảo quốc tế về Stendhal (1783- 1842). Ông là mt trong số ít nhà nghiên cứu
thấy được sự cần thiết vận dụng thi pháp học phương Tây vào đổi mới nghiên
cứu và phê bình văn học. Đỗ Đức Hiểu đã có những sự nhìn lại, nghĩ lại
những trang viết trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của mình. Đó là nhìn
nhận lại văn học Hiện sinh chủ nghĩa “mt thứ văn học suy đồi của Tư sản
đang giãy giụa khi đi vào bước đường cùng” [46]. Đặc biệt, trong giai đoạn
này, ông cho ra đời ba công trình nghiên cứu có tính chất đt phá trong
nghiên cứu và phê bình văn học. Đó là ba cuốn: Đổi mới phê bình văn học
(NXB Khoa học Xã hi- NXB Mũi Cà Mau, 1993), Đổi mới Đọc và Bình văn
(NXB Hi Nhà văn, 1999) và Thi pháp hiện đại (NXB Hi Nhà văn, 2000).
Với ba công trình này, đã có mt sự thay đổi lớn trong tư duy nghiên cứu, Đỗ

Đức Hiểu bắt đầu ứng dụng lí thuyết thi pháp học vào nghiên cứu và phê bình
văn học, những lí thuyết mà trước đây nhà nghiên cứu chối từ, khước bỏ nay
ông lại say mê với nó. Nhưng Đỗ Đức Hiểu không đi sâu vào lí thuyết như
mt số nhà nghiên cứu, mà nhà nghiên cứu tập trung đi sâu vào phần ứng
dụng lí luận vào nghiên cứu-phê bình văn học và đạt được nhiều thành tựu.
Ngoài ra, còn phải kể tới những công trình Đỗ Đức Hiểu tham gia biên
soạn, Điển tích văn học (1990), Lịch sử văn học Pháp (Đồng chủ biên, 5 tập,
năm 1990-1992). Đặc biệt phải kể tới cuốn Từ điển Văn học (2 tập, NXB
KHXH, năm 1983). Đây là mt cuốn từ điển có giá trị cao trong nghiên cứu
21

khoa học. Công trình này là kết quả làm việc nghiêm túc của đi ngũ những
người biên soạn, trong đó phải kể tới công lao chủ biên của Đỗ Đức Hiểu.
Hiện nay, đây vẫn là mt cuốn tài liệu khảo cứu quí báu trong nghiên cứu văn
học. Với dung lượng kiến thức đồ s, ngôn từ hàm súc cô đọng đã thể hiện
mt diện mạo văn học nhiều vẻ đa dạng của các khuynh hướng, trào lưu, tác
giả, tác phẩm của Việt Nam và thế giới
Với 50 năm cầm bút, Đỗ Đức Hiểu đã để lại cho giới nghiên cứu và
phê bình văn học nước nhà hàng ngàn trang viết tài hoa, tinh tế. Những đóng
góp của Đỗ Đức Hiểu không dừng lại ở số lượng vài nghìn trang viết của
mình, mà người đọc, giới nghiên cứu và phê bình tưởng nhớ tới nhà nghiên
cứu là những trang viết thăng hoa, những trang văn mng mơ sâu lắng, mt
tâm hồn tươi trẻ, mt phong cách khoa học được định hình luôn khát khao
vươn tới sự thay đổi, thậm chí là thay đổi cả “mẫu gốc”, sáng tạo đổi mới
chính bản thân mình để phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Có lẽ người
đọc sẽ không bao giờ quên những trang viết mà trong đó là thế giới những
ngôn từ “sống đng, trẻ trung” của nhà nghiên cứu. Với những thành tựu đạt
được, Đỗ Đức Hiểu xứng đáng có mt chỗ đứng trang trọng và đáng kính
trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam.
1.2. Khái niệm về phƣơng pháp luận Mác-xít

Sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu, theo
chúng tôi có thể được chia thành hai chặng đường lớn: trước và sau Đổi mới
(năm 1986). Trước năm 1986, Đỗ Đức Hiểu chủ yếu sử dụng phương pháp
nghiên cứu Mác-xít, xã hi học trong nghiên cứu văn học. Sau Đổi mới (năm
1986), Đỗ Đức Hiểu đi vào vận dụng những thành tựu thi pháp hiện đại của
phương Tây ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Đây là thứ lí thuyết bị phê
phán kịch liệt trong giai đoạn trước năm 1986, nó thiên về nghiên cứu hình
thức tác phẩm, đề cao giá trị hình thức nghệ thuật của tác phẩm, ít chú ý tới
22

giá trị ni dung và tư tưởng của tác phẩm, chủ yếu khai thác các yếu tố bên
trong, ni tại của văn bản. Vấn đề được đặt ra là tại sao trong sự nghiệp
nghiên cứu của Đỗ Đức Hiểu lại dường như lại có sự mâu thuẫn nhau, đối lập,
phủ định nhau ở hai chặng đường nghiên cứu văn học như vậy. Sự mâu thuẫn
này xuất phát từ nhận thức của nhà nghiên cứu, hay xuất phát từ hoàn cảnh
thực tiễn lịch sử xã hi nghiên cứu? Sự mâu thuẫn này có phủ định triệt để
hoàn toàn những đóng góp của Đỗ Đức Hiểu? Để đi tìm lời đáp cho những
câu hỏi này, chúng ta hãy đặt sự nghiệp của Đỗ Đức Hiểu vào trong chính
không gian sinh thành, bối cảnh hình thành những trang viết dường như xa lạ,
ngược chiều xuyên suốt cuc đời nhà nghiên cứu.
Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung là mt hình thái ý thức xã
hôị, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của các điều kiện xã hi. Là mt hình thái ý
thức xã hôị, vì thế nó cũng chịu sự tác đng của các hình thái ý thức xã hi
khác và ngược lại. Trong các hình thái ý thức xã hi, chính trị là hình thái ý
thức xã hi có vai trò tiên quyết, quyết định các hình thái ý thức xã hi khác,
trong đó có văn học. Vì vậy, văn học và chính trị có mối quan hệ mật thiết và
thống nhất với nhau.
Đảng cng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đã giương cao ngọn cờ đc lập dân tc gắn liền với Chủ nghĩa xã
hi. Vì vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin trở thành tư tưởng đc tôn, giữ vai trò

chính thống điều chỉnh mọi đường lối chính sách phát triển của đất nước “
Tinh thần dân tc và tinh thần quốc tế vô sản có những mối liên hệ chặt chẽ,
thấm sâu vào nhau, nâng đỡ nhau và trở thành mt sức mạnh kì diệu” [40, tr.
82]. Cùng với việc giữ vị thế đc tôn chủ nghĩa Mác, thời kì này chúng ta
kịch liệt phê phán những học thuyết, hệ tư tưởng hình thành trước Mác, chúng
ta phủ nhận triệt để các học thuyết tư tưởng không cùng quan điểm, đặc biệt
là những tư tưởng mang hơi hướng của tư bản phương Tây. Nghiên cứu nói
23

chung và nghiên cứu văn học nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế vận
đng đó, chủ nghĩa Mác- Lênin, với phương pháp luận Mác-xít đã giữ vai trò
duy nhất trong tiếp nhận văn học trong suốt mt thời kì dài trước Đổi mới.
Chính trị thời kì này đã ảnh hưởng và tác đng sâu sắc tới mọi lĩnh vực
đời sống xã hi. Văn học nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng chịu sự
quản lí chặt chẽ của chính trị. Văn học phục vụ đắc lực cuc đấu tranh dân tc
và đấu tranh giai cấp. Văn học nghệ thuật là mt mặt trận đấu tranh hữu hiệu
cần thiết, hiệu quả phục vụ cuc đấu tranh chung “vóc nhà thơ đứng ngang
tầm chiến luỹ”, “Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, “ngòi bút của các bạn
cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà”… Trong mt
cuc nói chuyện với văn nghệ sĩ năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho
rằng “Văn học nghệ thuật cũng là mt mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy” [70]. Chính vì vậy, nghiên cứu và phê bình văn học miền Bắc
Việt Nam trước năm 1975, và thống nhất đất nước sau năm 1975 đến trước
thời kì Đổi mới (năm 1986) đều lấy phương pháp luận Mác-xít làm kim chỉ
nam cho những công trình nghiên cứu. Điều này được cụ thể hoá bằng các
Nghị quyết các kì Đại hi của Đảng Cng Sản Việt Nam. Trong nghị quyết
Đại hi IV Đảng cng sản Việt Nam đã khẳng định “Không chỉ ngợi ca
những con người mới, những việc làm tốt, mà còn phải phê phán nghiêm khắc
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống, những di hại của văn hoá, văn nghệ
tư sản phong kiến, thực dân cũ, mới đứng trên lập trường cách mạng và bằng

phương pháp hiện thực xã hi chủ nghĩa vạch đúng nguồn gốc của cái xấu,
bồi đắp lòng tin tuyệt đối vào chủ nghĩa xã hi” [43, tr. 1]. Chính vì vậy,
phương pháp nghiên cứu Mác-xít và phương pháp sáng tác hiện thực xã hi
chủ nghĩa ăn sâu bám rễ vào mọi hoạt đng nghiên cứu phê bình và sáng tác
văn nghệ trong thời kì này. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu giai đoạn này cũng
không là ngoại lệ, đứng trên lập trường tư tưởng thời đại, ông đã thực hiện
24

trọn vẹn vai trò “chính trị” của mình trong sự nghiệp “phò chính, trừ tà” lúc
bấy giờ.
Phương pháp nghiên cứu văn học theo quan điểm Mác-xít chính là việc
quán triệt quan điểm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen vào sáng tác văn học. Sau đó
được tiếp tục cụ thể hoá trong những công trình, bài báo, bài phát biểu của V.
Lênin, Hồ Chí Minh và các nhà nghiên ở nhiều nước trên thế giới tán thành
học thuyết Mác- Lênin, đặc biệt là ở các nước Xã hi chủ nghĩa.
Quan điểm Mác-xít về văn học nói riêng và về nghệ thuật nói chung
dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trên phản ánh luận
Mác-xit, coi văn học nghệ thuật là mt hình thái ý thức xã hi, nó phản ánh và
chịu sự qui định của tồn tại xã hi của thực tế cuc sống, xét đến cùng là các
điều kiện kinh tế. Coi văn học nghệ thuật là ý thức, đương nhiên quan điểm
của Mác-xit nhấn mạnh mt mặt mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với
cuc sống, trước hết là xã hi, tức là đề cao giá trị nhận thức, chức năng nhận
thức của văn học. Tinh thần của chủ nghĩa Mác là kết hợp tính khoa học và
tính cách mạng, không chỉ giải thích thể giới mà còn cải tạo thế giới. Do đó
vừa yêu cầu phải nhận thức đúng qui luật khách quan của sự vật, vừa coi
trọng năng lực chủ quan, lí tưởng, ý chí của con người trong hoạt đng nghiên
cứu cũng như sáng tạo. C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V. Lênin luôn nhấn mạnh mối
quan hệ có ý nghĩa sống còn của văn học nghệ thuật với cuc sống, với thực
tế xã hi, đề cao chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác văn học.
Phương pháp luận Mác- xít với mt quan niệm có tính nguyên tắc và

linh hoạt như vậy có khả năng rng rãi trong việc nghiên cứu văn học trên
nhiều bình diện và cấp đ khác nhau, từ tác phẩm được xem như mt công
trình nghệ thuật đến quá trình sáng tác và tiếp nhận, từ chủ đề, hình tượng,
nhân vật, đến cốt truyện, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ phong cách, phương
25

pháp sáng tác, từ tác giả tới khuynh hướng và trào lưu văn học, thời kì văn
học…
Có thể thấy, trong sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học trước năm
1986, Đỗ Đức Hiểu triệt để sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học theo
quan điểm Mác-xít, đứng trên lập trường Mác-xit để đánh giá, xem xét các
hiện tượng văn học. Chính Đỗ Đức Hiểu đã khẳng định vai trò và tầm quan
trọng của “vũ khí tư tưởng” trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng xã hi thúc
đẩy tiến b xã hi “Người nghiên cứu và phê bình văn học phải ngợi ca
những sáng tác văn học đóng góp cho cuc sống thêm tươi đẹp, và cũng có
nhiệm vụ phê phán những tư tưởng đc hại cho xã hi, góp phần loại trừ nó”
[43, tr. 262].
Sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học trước năm 1986, Đỗ Đức
Hiểu tập trung chủ yếu vào việc vận dụng phương pháp nghiên cứu Mác- xít
vào tìm hiểu văn học Phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp với các trào lưu,
khuynh hướng, tác giả văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận,
góp phần cung cấp những tri thức quí báu về nền văn học này.
1.3. Biên dịch v tiếp nhận văn học cổ điển Pháp
Văn học Pháp là mt trong những nền văn học đạt được nhiều thành
tựu trong tiến trình phát triển. Nơi đây là “cái nôi” của nhiều trào lưu, khuynh
hướng văn học trên thế giới. Văn học Pháp không chỉ là trung tâm của văn
học Phương Tây mà còn là “trung tâm ánh sáng” của văn học thế giới. Chính
vì vậy, sức hút từ nền văn học Pháp có sức lan toả mạnh mẽ tới các nền văn
học các nước khác trên thế giới. Trong khi đó, đến giữa thế kỉ XX, văn học
Việt Nam vẫn chỉ là mt nền văn học “già nua”, “chậm chạp” theo dòng chảy

“sôi đng” của văn học thế giới. Như mt tất yếu, từ nhu cầu ni tại và nhu
cầu thời đại “ánh sáng phát quang” của Văn học Pháp như mt “cơn gió lạ”
đã đem tới cho văn học nước ta những làn gió mới “mát mẻ, trong lành”.

×