Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân biệt “Người không được quyền hưởng di sản” và “Người bị truất quyền hưởng di sản”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.61 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

A. Lời mở đầu
Một người khi qua đời không thể mang theo được những tài sản mà họ
sở hữu lúc cịn sống. Khi đó sẽ phát sinh sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu
của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người
thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật để có thể trở
thành chủ sở hữu của tài sản, đó chính là việc thừa kế di sản theo quan hệ pháp
luật dân sự. Theo ngun tắc thì tài sản đó sẽ được chia cho những người được
hưởng thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ hơn nhân, huyết thống,
ni dưỡng với người để lại di sản hoặc những cá nhân, tổ chức theo ý chí mà
người để lại di sản mong muốn. Nhưng trên thực tế, căn cứ theo quy định của
pháp luật sẽ có nhiều người là người có thể được thừa kế nhưng khơng được
quyền hưởng di sản. Để có thêm những hiểu biết về vấn đề này, hiểu tại sao lại
có những người khơng được quyền hưởng di sản mặc dù ý chí của người chết
trong di chúc là muốn họ được hưởng di sản, những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật nhưng khi chia di sản thì họ cũng khơng được quyền hưởng di
sản, và trên thực tiễn việc áp dụng pháp luật về vấn đề này như thế nào em đã
tìm hiểu và xin trình bày một số những hiểu biết của mình về đề tài “Người
không được quyền hưởng di sản – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
I. Một số vấn đề chung về thừa kế.
1. Khái niệm thừa kế.
1


Thừa kế tài sản là phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội
nói chung và lịch sử nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và
phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản.
Thừa kế di sản theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài
sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có
quyền hưởng thừa kế; người trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di


chúc hoặc theo pháp luật. Cho dù tài sản do người chết để lại là của cá nhân hay
tổ chức được hưởng thừa kế…thì nó vẫn tồn tại chung cho xã hội, vì khi tài sản
này lại được sử dụng, khai thác hợp lý cũng mang lại hiệu quả kinh tế không chỉ
đối với người được hưởng thừa kế mà cịn có lợi ích chung cho tồn xã hội.
- Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật
bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch
chuyển tài sản từ người chết cho những người cịn sống khác theo ý chí của họ
được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong
các quy phạm pháp luật.
- Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ
quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa
kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy đinh của pháp
luật.
2. Các nguyên tắc pháp luật thừa kế.
Quyền thừa kế là một chế định còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của phong
tục, tập quán và truyền thống xã hội nên có rất nhiều các nguyên tắc riêng, đặc
thù là cơ sở, định hướng cho những quy phạm pháp luật về thừa kế phải tuân
theo. Chương I phần thứ tư của BLDS 2005 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản
về thừa kế như sau:
- Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của cá nhân.
- Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế.

2


- Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người hưởng
tài sản.
- Củng cố, giữ vững tình thương u và đồn kết trong gia đình.
3. Một số quy định chung về thừa kế.
a. Người để lại di sản thừa kế

Là người có di sản sau khi chết để lại cho người cịn sống theo ý chí
của họ được thể hiện trong di chúc hay theo quy định của pháp luật. Người để lại
di sản chỉ có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào (thành phần xã
hội, mức độ năng lực hành vi…)
Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở… Khi còn sống họ có quyền đưa các loại tài sản này vào lưu thông dân sự,
hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết. Trường
hợp cơng dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, khơng lập di chúc sau khi
chết, tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp luật.
Đối với pháp nhân, tổ chức được thành lập với những mục đích và
nhiệm vụ khác nhau. Tài sản của pháp nhân, tổ chức để duy trì các hoạt động của
chính mình. Khơng cá nhân nào có quyền định đoạt tài sản của pháp nhân, tổ
chức. Khi pháp nhân, tổ chức đình chỉ hoạt động của mình (giải thể, phá sản…).
Tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật. Pháp nhân, tổ chức tham
gia vào quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản theo di chúc.
b. Người thừa kế
Người thừa kế là người được thừa hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc do người lập di chúc chỉ định,
định đoạt nên có thể là bất kì ai, có thể là cá nhân hoặc tổ chức Nhà nước. Người
thừa kế theo pháp luật là người thừa kế theo hàng thừa kế và trình tự thừa kế do
pháp luật quy định. Những người này phải thuộc diện thừa kế và phải ở hàng
thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và
phải là người có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng với người để
3


lại di sản. Những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ về tài sản do người chết
để lại.
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước

khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ
quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Quyền của người thừa kế được quy định ở Điều 642 BLDS. Theo nguyên
tắc chung mọi cá nhân đều có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Ngoài ra, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp
việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiên nghĩ vụ tài sản của mình với người
khác. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải
báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản.
Công chứng nhà nước hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế về việc
từ chối nhận sản. Người thừa kế có nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế (bảo
quản, sửa chữa) và các nghĩa vụ khác, cho nên pháp luật quy định thời hạn từ
chối nhận di sản là sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày
mở thừa kế nếu không ai từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.
c. Di sản.
Theo quy định của điều 634 BLDS thì : “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”.
Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi
còn sống. Điều 163 BLDS quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”. Như vậy, thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác
nhau và không bị hạn chết về số lượng, giá trị.
II. Người không được quyền hưởng di sản.
1. Những trường hợp không được hưởng di sản.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền hưởng thừa kế của tất cả các cá nhân
và tôn trọng quyền định đoạt di sản của người đã mất. Tuy nhiên, trong đời sống
4


xã hội có một số trường hợp cá biệt người thừa kế vi phạm pháp luật nghiêm
trọng hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội. Những trường hợp này sẽ không được
quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS. Pháp luật đã tước quyền hưởng di sản

của họ vì họ khơng cịn xứng đáng được quyền thừa kế. Đó là những trường hợp
sau đây:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản (căn cứ theo điểm a
khoản 1 Điều 643 BLDS)
Hành vi “xâm phạm tính mạng, sức khỏe” được hiểu rằng là hành vi cố ý
giết người để lại di sản, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người để lại di sản một cách trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng là hành
vi có khả năng gây ra cái chết cho người để lại di sản, chấm dứt sự sống của
người đó. Những người bị tịa án kết án về tội giết người theo Điều 93 BLHS, tội
cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Trường hợp này, lỗi của người phạm
tội là lỗi cố ý, nhằm mục đích tước đoạt sự sống hoặc sức khỏe của người để lại
di sản. Động cơ của người phạm tội và việc thực hiện tội phạm đã hoàn thành
hay chưa hồn thành khơng ảnh hưởng đến nội dung của quy định trên.
Pháp luật luôn bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mọi cơng dân,
những cơng dân có các hành vi trái pháp luật thì tư cách chủ thể của cá nhân
trong một số quan hệ bị hạn chế hoặc đình chỉ theo luật định.
Người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản đã
bị kết án về một trong số các hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế di sản của
người đã bị ngược đãi hành hạ sau khi người đó chết. Hành vi ngược đãi là hành
vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ với người thân của mình trái với đạo đức luân lý, ở đây
được thể hiện bằng những hành động như chửi mắng, nhục mạ, bỏ mặc, bỏ đói,
mặc rách làm cho người để lại di sản đau đớn về mặt thể xác cũng như tinh thần,
khiến danh dự bị xúc phạm, giày vị… Người phạm tội có thể là những người có
5


quan hệ lệ thuộc với người bị hành hạ. Những người bị hành hạ ngược đãi
thường là người bị lệ thuộc về vật chất hoặc họ không thể tự chăm lo cho bản

thân nên cần có người khác giúp đỡ trong những sinh hoạt hàng ngày. Hành vi
đối xử tàn ác có tính chất hành hạ gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần…
Một người có hành vi làm nhục danh dự của người để lại di sản thì khơng
có quyền nhận di sản thừa kế của người đó để lại
Điều đáng chú ý trong quy định này là căn cứ pháp lý để tước quyền
hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật khi họ có những hành vi kể
trên là một bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Ở đây, cần phải hiểu rằng, dù
người thừa kế có những hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hay có
những hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản… nhưng chưa bị kết án thì
họ vẫn được hưởng di sản.
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản sản (căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS)
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản với người thừa
kế theo pháp luật khi người để lại di sản còn sống. Nghĩa vụ ni dưỡng, chăm
sóc nhau khi cịn sống giữa các cá nhân không chỉ là thông lệ một truyền thống,
một phẩm chất đạo đức vốn có của người Việt Nam mà còn được pháp luật quy
định. Phổ biến nhất là các quan hệ nuôi dưỡng nhau giữa cha mẹ với các con, các
con đã trưởng thành với cha mẹ già yếu khơng có khả năng lao động hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Quan hệ
nuôi dưỡng nhau giữa ông bà với các cháu, giữa các cháu với ông bà, giữa anh
chị em ruột đối với nhau. Nghĩa vụ ni dưỡng chăm sóc giữa những người thân
trong gia đình đã được quy định trong luật HN&GĐ năm 1959, luật HN&GĐ
năm 1986 và hiện nay là Luật HN&GĐ năm 2000.
Người thừa kế theo pháp luật bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ ni
dưỡng là người được Luật Hơn nhân và gia đình xác định có nghĩa vụ ni
dưỡng người để lại di sản nhưng họ khơng thực hiện nghĩa vụ đó. Chính vì vậy,
6


chúng ta cần xem xét các quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000

để xác định chính xác trách nhiệm của người thừa kế theo pháp luật
Thứ nhất, người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ. Luật Hơn nhân và gia
đình 2000 đã quy định: “Con có nghĩa vụ và có quyền chăm sóc, ni dưỡng cha
mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có
nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ”. Theo quy
định này thì bổn phận của con là phải chăm sóc ni dưỡng cha mẹ trong mọi
trường hợp, bất luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào.
Thứ hai, người để lại thừa kế là con của họ. Nếu như nghĩa vụ của con là
phải chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp, hồn cảnh thì cha mẹ
chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con khi con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao
động và khơng có tài sản để tự ni sống bản thân. Cha mẹ luôn là người thừa kế
theo pháp luật đối với di sản do con để lại nhưng cha mẹ sẽ không được hưởng
thừa kế theo luật đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện việc ni
dưỡng con khi người con đó nằm trong tình trạng nói trên.
Thứ ba, người để lại thừa kế là anh, chị hoặc em của họ. Theo quy định
của pháp luật thì anh, chị, em có nghĩa vụ ni dưỡng nhau trong trường hợp
khơng cịn cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có điều kiện trơng nom, ni dưỡng,
chăm dóc giáo dục con . Như vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em đối với
người để lại thừa kế khi người này nằm trong trình trạng trên, đồng thời họ là
người chưa thành niên hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực
hành vi.
Thứ tư, người để lại thừa kế là ông, bà của họ. Theo khoản 2 Điều 47
Luật Hơn nhân và gia đình đã xác định cháu có nghĩa vụ phụng dưỡng ơng bà.
Vì vậy, nếu người có quyền hưởng di sản là cháu mà không thực hiện nghĩa vụ
này sẽ không được quyền hưởng di sản mà ông bà để lại.

7



Thứ năm, người để lại thừa kế là cháu của họ. Ơng bà nội, ngoại có nghĩa
vụ ni dưỡng cháu trong trường hợp cháy chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni dưỡng mình, đồng thời cũng khơng có cha mẹ, anh,
chị, em có thể ni dưỡng được. Vì thế, nếu người để lại thừa kế là cháy nằm
trong tình trạng trên mà ơng, bà là người hưởng thừa kế nhưng khơng thực hiện
nghĩa vụ ni dưỡng thì họ sẽ không được quyền hưởng di sản. Mặt khác, nếu
người cháu có đủ năng lực hành vi để lập di chúc và trong di chúc đó, ơng bà
được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng sau đó người cháu lại lâm vào tình trạng
cịn được ni dưỡng và ơng bà là người có nghĩa vụ đó nhưng lại khơng thực
hiện nghĩa vụ thì ơng bà cũng khơng được quyền hưởng di sản theo di chúc của
người cháu.
Thứ sáu, người để lại thừa kế là vợ hoặc chồng của họ. Vợ chồng có
nghĩa vụ ni dưỡng nhau khi một bên khơng có khả năng lao động và cịn cấp
dưỡng cho nhau kể cả khi đã ly hôn mà bên kia yêu cầu được Tòa án thừa nhận.
Trong trường hợp vợ (hoặc chồng) đau ốm, tàn tật không thể lao động để tự ni
mình mà chết thì chồng (hoặc vợ) sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo pháp
luật nếu họ đã không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại thừa kế. Còn
trong trường hợp vợ chồng đã được Tịa án cho ly hơn bằng một bản án đã có
hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì họ khơng cịn là người thừa kế theo pháp
luật của nhau nữa.
Các trường hợp trên xác định những người có nghĩa vụ ni dưỡng nhau.
Nếu những người có nghĩa vụ ni dưỡng khơng thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng
của mình với người để lại di sản khi người đó cịn sống khiến người đó lâm vào
tình trạng khó khăn về kinh tế, khổ sở về tinh thần và bị ảnh hưởng đển sức khỏe
thì những người đoa khơng xứng đáng được hưởng di sản của những người mà
mình có nghĩa vụ phait nuôi dưỡng.

8



c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm mục hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế
đó có quyền hưởng (căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 643 BLDS)
Trường hợp này người thừa kế bị kết án về tội có ý giết người thừa kế
khác. Người thừa kế khác có thể hiểu là người thừa kế cùng hàng hoặc người
thừa kế ở hàng trên để chiếm đoạt phần tài sản lẽ ra người này được hưởng. Việc
giết người ở hàng thừa kế dưới thì khơng thể khiến cho người có âm mưu giết
người nhận được di sản thừa kế, vì theo nguyên tắc chỉ khi những người ở hàng
thừa kế trên khơng cịn ai thì người ở hàng thừa kế dưới mới được hưởng di sản
thừa kế. Theo như quy định của điều luật thì nếu hành vi giết người khơng phải
vì động cơ để chiếm một phần hoặc toàn bộ di sản của người chết thì khơng bị
tước quyền hưởng di sản. Tất nhiên, hành vi giết người rất tinh vi, xảo quyệt,
người có âm mưu giết người sẽ có những hành vi gian lận nhằm che đậy động cơ
đê hèn của mình. Cần phải xem xét kĩ để tìm ra động cơ thực sự của việc giết
người.
Những trường hợp anh, em ruột (là những người cùng thuộc một hàng
thừa kế) giết nhau nhưng không phải là để chiếm đoạt tài sản mà là do một số
nguyên nhân khác như mâu thuẫn trong công việc, cuộc sống không đi được đến
ý kiến chung, vì q bực tức khơng kiềm chế được hành vi của bản thân mà đã
dẫn đến hành vi phạm tội. Trường hợp này cũng là giết người thừa kế khác ở
cùng hàng nhưng vẫn được hưởng di sản thừa kế vì động cơ giết người khơng
phải để chiến tài sản.
Điều này khác với trường hợp tại điểm a, khoản 1, Điều 643 BLDS, khi
tước bỏ quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật không cần xem xét
đến động cơ, mục đích của hành vi thì ở trường hợp này, người thừa kế phạm tội
chỉ bị tước quyền hưởng di sản nếu hành vi phạm tội của họ chứa đựng động cơ
là nhằm để hưởng di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng. Nếu một người
bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác mà khơng nhằm mục đích
9



chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế đó được hưởng thì khơng bị tước
quyền thừa kế.
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di
sản (căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS)
Đây là trường hợp người thừa kế đã thực hiện một số hành vi cho
người lập di chúc tin và lầm tưởng vào sự việc nào đó vì vậy đã lập di chúc để lại
di sản cho người này. Ví dụ như hành vi bịa đặt rằng những người thừa kế khác
đã có những hành động, lời nói xúc phạm danh dự và có âm mưa giết người lập
di chúc, khiến người lập di chúc tức giận và quyết định không chia di sản cho
những người đó nữa. Trường hợp này người lập di chúc hoàn toàn tưởng tượng
sai sự việc và tin tưởng tuyệt đối vào hành vi của người thừa kế. Xét về ý thức
chủ quan, người lập di chúc đã thể hiện ý chí của mình là định đoạt tài sản cho
một người nào đó nhưng bị lừa dối nên đã hủy di chúc này lập di chúc khác và
để lại di sản cho người lừa dối mình được hưởng phần di sản đã được định đoạt
trước đây. Ý chí này phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định và có cơ
sở pháp lý để chứng minh cho ý chí đó. Trong thực tế, sự việc người thừa kế lừa
người lập di chúc được làm rõ khi người lập di chúc còn sống sẽ dễ dàng hơn,
khi người lập di chúc đã chết thì việc xác định có hành vi lừa dối, cưỡng ép,
ngăn cản hay không trở nên rất khó khăn phức tạp.
Hành vi giả mạo di chúc là hành vi của người đã lập một di chúc theo ý
chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại di sản hoặc để cho những
người khác tưởng lầm rằng người chết có để lại di chúc. Hành vi giả mạo có thể
được thể hiện như tự viết di chúc và tự ký theo chữ ký của người lập di chúc.
Những người có hành vi giả mạo di chúc này là người có hành vi lập một di chúc
theo ý chí của mình nhằm mạo danh người để lại di sản hoặc thay thế di chúc của
người để lại di sản nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của

10


người để lại di sản. Trong thực tế việc giả mạo di chúc rất khó xác định, vì chữ
ký của nhiều người rất đơn giản.
Hành vi sửa chữa di chúc mà người để lại di sản đã lập là hành vi của một
người trong việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc mà người
để lại di sản đã lập, trái với ý chí của người đó khi cịn sống. Người thừa kế xóa
một hoặc nhiều từ trong di chúc mà những từ này ảnh hưởng đến quyền lợi của
những người thừa kế hoặc người thừa kế viết thêm vào di chúc số người được
hưởng, số tài sản được hưởng. Hay nói cách khác, người thừa kế đã tẩy xóa, sửa
chữa nội dung di chúc.
Thơng thường, với mục đích nhằm có lợi cho mình, để hưởng kỷ phần di
sản nhiều hơn so với phần di sản mà người lập di chúc đã định đoạt hoặc nhằm
hưởng toàn bộ di sản của người lập di chúc nên dù đã có tên trong di chúc người
thừa kế này vẫn thực hiện hành vi sửa chữa di chúc nói trên. Đây là hành vi xâm
phạm đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc và xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của những người thừa kế khác. Vì thế, người có hành vi này sẽ bị tước bỏ
quyền hưởng di sản.
Hành vi hủy di chúc là hành vi của người đã làm tiêu hủy di chúc của
người để lại di sản và di chúc bị hủy bỏ đó khơng cịn tồn tại dưới hình thức
khách quan nữa. Người thừa kế có thể hủy di chú bằng nhiểu hình thức khác
nhau như xé bỏ, đốt di chúc, ngâm di chúc vào dung dịch hóa chất làm cho di
chúc khơng cịn rõ nội dung, khiến cho người khác khơng đọc được và khơng
hiểu nội dung của di chúc đó. Người có hành vi hủy di chúc là người thừa kế
theo pháp luật của người lập di chúc nhưng trong di chúc đó họ khơng có tên
trong số những người được hưởng di sản theo di chúc. Vì vậy, họ hủy di chúc
nhằm để việc thừa kế được giải quyết theo pháp luật và họ sẽ được hưởng kỷ
phần theo luật định. Hoặc cũng có những trường hợp người thừa kế theo di chúc
thực hiện hành vi hủy di chúc của người để lại di sản khi trong trường hợp họ

đồng thời là người thừa kế theo pháp luật của người đó và nhận thất rằng nếu
11


hưởng thừa kế theo di chúc thì họ sẽ được phần di sản nhỏ hơn so với phần di
sản họ sẽ được hưởng theo pháp luật.
2. Một số thực tiễn về vấn đề “người không được quyền hưởng di sản”.
a) Thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề “Người không
được quyền hưởng di sản”
Trên thực tế đã có rất nhiều người thân thiết với người để lại di sản và
những người mà theo luật họ là người sẽ được quyền hưởng di sản của người đã
mất có hành vi trái pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xâm phạm đến tính mạng,
danh dự nhân phẩm người để lại di sản…. Như con cái ngược đãi, đánh đập cha
mẹ… ví dụ trường hợp sau đây:
Ơng Thanh bà Liên có một người con trai tên Tuấn năm nay đã 30 tuổi
chưa lập gia đình và thường xuyên cờ bạc rượu chè. Gần đây anh An chơi cờ bạc
cá độ thua 500 triệu. Lại về nhà chửi bới, đánh đập cha mẹ đòi đưa tiền để trả
nợ. Khiến bà Liên bị thương nặng. Ơng Thanh bực mình tun bố từ con. Tuấn
thách thức nói rằng ơng bà Liên chỉ có một mình anh là con ruột thì khơng thể từ
được, trước sau gì cả khối tài sản của ơng bà Liên cũng để lại cho mình anh mà
thơi dù ơng bà Liên có làm di chúc hay khơng.
Tình huống trên là một tình huống khá buồn trong cuộc sống phản ánh
mối quan hệ gia đình khá lỏng lẻo và rạn nứt. Thái độ bất hiếu của người con
chắc chắn để lại nỗi đau khơng nhỏ trong gia đình.
Thật khơng may cho gia đình nào có người con như vậy. Có lẽ ngun
nhân của mối bất hịa đó chính là lối sống ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân của anh
An nhân vật người con.
Ơng bà ta có câu “cờ bạc là bác thằng bần” quả không sai. Anh Tuấn đã
tham gia chơi cờ bạc cá độ nên tiền bạc trong gia đình cứ lần lượt đội nón ra đi.
Ơng Thanh bực mình anh Tuấn là có cơ sở. Tuy nhiên ông bà Liên có thể làm

đơn khước từ không nhận anh Tuấn là con hay không lại là chuyện khác.

12


Hiện nay luật của chúng ta khơng có quy định cha mẹ có quyền từ bỏ con
ruột của mình. Dù người con có làm lỗi lầm gì thì người đó vẫn là con khơng thể
vì hành vi lỗi lầm của người con mà chấm dứt mối quan hệ cha con được.
Như vậy vì anh Tuấn đã 30 tuổi, nếu ơng bà Liên, cha mẹ của anh Tuấn,
không muốn để lại tài sản của ông bà cho anh sau khi ông bà qua đời thì ơng bà
hồn tồn có quyền lập di chúc để lại tài sản cho người khác.
Nhưng anh Tuấn cho rằng vì anh ta là con trai duy nhất của ơng bà Liên
nên dù ơng bà Liên có để lại di chúc hay không để lại di chúc thì trước sau gì
tồn bộ khối tài sản của ơng bà Liên cũng để lại cho anh. Suy nghĩ của anh Tuấn
như vậy là sai, mặc dù là con duy nhất của ơng bà Liên thì anh Tuấn vẫn có thể
bị tước quyền hưởng di sản của ông bà Liên để lại, do anh ta những hành vi xâm
phạm xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng và xâm phạm đến danh dự nhân phẩm
của bố mẹ mình theo Điều 643 BLDS. Trong trường hợp này pháp luật sẽ thể
hiện sự nghiêm minh của mình, khơng cho phép những người như anh Tuấn có
quyền hưởng di sản.
Tuy nhiên trên thực tế áp dụng các điều luật của pháp luật không phải lúc
nào cũng dễ dàng vì trong điều luật vẫn có những nội dung chưa đầy đủ, chưa rõ
ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết các tranh chấp về thừa kế không
thống nhất giữa các đương sự cũng như Tòa án. Việc áp dụng Điều 643 để tước
quyền hưởng di sản của người thừa kế còn khá nhiều vướng mắc như sau:
Thứ nhất, tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS quy định người thừa kế
theo pháp luật nếu vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản thì khơng có quyền hưởng di sản. Vậy những người thừa kế nào có nghĩa vụ
ni dưỡng nhau? Nếu xét theo quy định của BLDS về hàng thừa kế thì quy định
trên có thể dẫn đến cách hiểu là những người thân ở các hàng thừa kế đều phải

có nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản trước lúc mất. Ví dụ: cháu có nghĩa
vụ ni dưỡng bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột trong mọi trường
hợp… Trong khi pháp luật HNGĐ không quy định nghĩa vụ là phải nuôi dưỡng
13


với trường hợp cháu với bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, gì ruột… Vậy nếu
trường hợp cháu khơng ni dưỡng cơ, gì, chú, bác ruột có được quyền hưởng di
sản của người mất không?
Thứ hai, cũng tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS có quy định về người
thừa kế theo pháp luật phải có nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản chỉ khi
nào họ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng thì mới tước quyền thừa kế.
Nhưng trong thực tế hiện nay, có những người con bất hiếu khơng chăm sóc,
ni dưỡng cha mẹ, ông bà của mình và để cho những đồng thừa kế khác thực
hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng họ. Đến khi biết cha mẹ hoặc ông bà sắp qua đời và có
để lại di sản thì lại cố gắng tìm mọi cách để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với
những người này. Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật, người
thừa kế theo pháp luật vẫn thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nên
họ không bị tước quyền thừa kế. Theo quan điểm của cá nhân, trường hợp này
người thừa kế theo pháp luật đã có những hành vi trái đạo đức xã hội, mặc dù có
chăm sóc người để lại di sản nhưng việc chăm sóc, ni dưỡng này chỉ được
thực hiện khi người để lại di sản gần qua đời và với mục đích để hưởng di sản
của họ chứ khơng phải xuất phát từ lương tâm con người. Do vậy, các nhà làm
luật cần phải tính đến tình huống này trong thực tế để pháp luật trở thành một
công cụ hữu hiệu bảo vệ cho các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống lâu đời của
nhân dân ta.
Thứ ba, tại điểm a và b khoản 1 Điều 643 BLDS đều quy định chỉ những
người thừa kế theo pháp luật có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm danh dự, nhân phẩm hay vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản được thực hiện ở mức nghiêm trọng thì mới bị tước quyền hưởng di sản. Tuy

nhiên, ở một mức độ nào thì các hành vi nói trên bị coi là nghiêm trọng? Hiện
nay, điều này chưa được các nhà làm luật quy định cũng như giải thích một cách
cụ thể, chi tiết trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Do vậy, khi giải

14


quyết các tranh chấp về thừa kế đã gây những khó khăn khơng nhỏ cho Tịa án
dẫn đến áp dụng không thống nhất ở nhiều địa phương.
Thứ tư, đối với những người thừa kế theo pháp luật thì tại điểm d khoản 1
Điều 643 BLDS chỉ quy định bị tước quyền hưởng di sản khi có những hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả
mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ
di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Vậy với những người thuộc hàng
thừa kế theo pháp luật biết mình khơng có tên trong di chúc nên đã có hành vi
giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ di sản thừa kế thì pháp luật lại
không quy định họ bị tước quyền hưởng thừa kế. Trường hợp này cũng thường
xuyên xảy ra trong thực tế hiện nay nhưng pháp luật không quy định nên dẫn đến có
nhiều cách hiểu, cách giải quyết khác nhau.
Thứ năm, ngoài các hành vi đã được quy định trong khoản 1 Điều 643
BLDS, trên thực tế đã tồn tại những hành vi nguy hiểm khác của người thừa kế
theo pháp luật như hành vi che giấu tội giết người để lại di sản khi người thừa kế
biết rõ ràng là người thừa kế khác giết người để lại di sản những khơng tố giác
hành vi đó mà cịn thực hiện hành vi che giấu tội phạm. Hành vi của người thừa
kế không những vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn vi phạm đạo đức xã
hội. Người thực hiện hành vi che giấu tội phạm xâm phạm tính mạng của người
để lại thừa kế… nên không xứng đáng nhận di sản của người để lại di sản.
b) Giải pháp hồn thiện pháp luật về vấn đề “Người khơng được quyền
hưởng di sản”.
- Thứ nhất, trong điều 643 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định người không

được quyền hưởng di sản, bao gồm cả người thừa kế theo luật và cả người thừa
kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định
của pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được lập di
chúc cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo
đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di chúc.
15


Tuy nhiên tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc bằng một
quyết định. Mặt khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật
bởi nó có thể bị sai sót và có thể bị một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định : “ Khơng ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội dù đã có
hiệu lực của tịa án”. Vì vậy, hành vi của người thừa kế dù đã bị kết án bằng một
bản án thì vẫn chưa thể kết luận người đó phạm tội. Bản án đó chỉ được coi là
căn cứ để tước quyền hưởng di sản của người có tên trong di chúc khi đã có hiệu
lực pháp luật. Do vậy, việc tranh chấp thừa kế trong những trường hợp này chỉ
được tiến hành giải quyết chừng nào bản án nói trên đã có hiệu lực pháp luật.
- Thứ hai, có cần hay khơng một bản án về tình trạng khơng được hưởng
di sản? Văn bản luật khơng nói gì tới các thủ tục thiết lập tình trạng khơng có
quyền hưởng di sản. Điều đó có nghĩa rằng, khơng có quyền hưởng di sản phát
sinh một cách đương nhiên do hiệu lực của pháp luật, một khi các điều kiện cần
thiết đã hội tụ đầy đủ. Tất nhiên, trong trường hợp có sự phản đối thì có thể sẽ có
một vụ án. Nhưng khi đó, tịa án chỉ làm một cơng việc duy nhất đó là xác nhận
hay khơng tình trạng khơng có quyền hưởng di sản dựa trên kết quả thẩm định
của các yếu tố liên quan. Sự tồn tại của một bản án kết án người thế vị về hành vi
trái pháp luật quy định tại khoản 1 điều 643 BLDS. Nói cách khác, khơng có bản
án thiết lập tình trạng khơng có quyền hưởng di sản mà chỉ có bản án tun bố
tình trạng đó.

Trong khung cách của đạo đức và pháp lý của việt Nam, quyền kiện cáo
liên quan tới tình trạng khơng có quyền hưởng di sản của một người phải được
coi là một quyền gắn liền với nhân thân của người có quyền hưởng di sản, bởi
vậy, chỉ có họ mới được phép thực hiện quyền này trước tịa: vấn đề ở đây khơng
phải là có lợi hay khơng có lợi mà là làm như thế nào để răn đe ai cố tình chà đạp
lên các giá trị được pháp luật bảo vệ.
16


- Thứ ba, những người khơng có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản, là những người bị kết án về một trong các hành vi theo quy
định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì họ khơng có tên trong hàng thừa kế
được hưởng di sản. Như vậy, khi xác định suất thừa kế theo pháp luật để tính kỷ
phần cho những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo
quy định tại điều 669 BLDS 2005 thì họ sẽ khơng là tham số trong số chia để
nhân suất, vì họ khơng có quyền hưởng di sản theo pháp luật.
- Thứ tư, trong thực tiễn có nhiều trường hợp con, cháu vi phạm nghĩa vụ
đạo lý với cha, mẹ, ông, bà. Vì vậy cần phải hạn chế quyền lợi của những người
có hành vi vi phạm đó. Những người này cần phải bị pháp luật tước quyền thừa
kế di sản.
- Thứ năm, tuy những quy định tại điều 643 BLDS là hoàn toàn phù hợp
với đạo lý, phong tục, tập quán của nhân dân ta nhưng trong điều luật trên cịn có
những nội dung chưa rõ ràng có thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết tranh chấp
về thừa kế khơng thống nhất giữa các tồ án. Ví dụ như điểm b Khoản 1 điều
643 BLDS quy định người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để
lại di sản thì khơng có quyền hưởng di sản. Vậy những người thừa kế nào có
nghĩa vụ ni dưỡng nhau? Quy định này có thể dẫn đến hiểu nhầm là cháu có
nghĩa vụ ni dưỡng cơ, dì, chú, bác vì hàng thừa kế thứ ba là cơ, dì, chú, bác và
cháu gọi người chết là cơ, dì, chú, bác.
Ngồi ra cịn một điểm khơng rõ ràng nữa đó chính là như thế nào thì

được coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng ? Vấn đề này vốn dĩ
hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của thẩm phán. Cần phải có một văn bản pháp luật
hướng dẫn để có sự thống nhất giữa các tòa án, cũng như minh bạch trong việc
đánh giá tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Khi pháp
lệnh thừa kế năm 1990 ra đời thì theo đó là Nghị quyết 02/NQ/HĐTP ngày 19
tháng 10 năm 1990 của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao (hiện
khơng cịn hiệu lực) hướng dẫn về việc áp dụng một số quy định của pháp lệnh
17


thừa kế trong đó có nêu: “Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy
định tại các Điều 19, Điều 20 và Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm
1986, trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết nếu có khả
năng thực hiện nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được ni
dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng thì khơng có
quyền hưởng di sản của người đó”. (02/1990/NQ – HĐTP – 2,b). Qua đó, có thể
thấy Nghị quyết này là tương đối phù hợp với thực tế nên cần tiếp thu tinh thần
đó để ban hành một văn bản hiện hành để Tịa án có cơ sở pháp lý áp dụng khi
giải quyết thừa kế.
- Thứ sáu, ngoài các hành vi được quy định trong khoản 1 điều 643
BLDS cần phải xem xét đến một hành vi nguy hiểm khác của người thừa kế như
hành vi che giấu tội giết người để lại. Khi người thừa kế biết rõ ràng người khác
giết người để lại di sản nhưng lại không tố giác hành vi đó mà cịn thực hiện
hành vi che giấu tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Hành vi của người thừa kế không
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn vi phạm đạo đức xã hội. Người
đã thực hiện hành vi che giấu tội phạm xâm hại tính mạng của người để lại di sản
thì khơng xứng đáng nhận di sản. Vì vậy mà khoản 1 điều 643 nên quy định
thêm điểm này.
- Thứ bảy, theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp người khơng
được hưởng quyền thừa kế chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di

sản thì sẽ khơng phát sinh thừa kế thế vị với con của người này. Bởi lẽ, vốn dĩ,
ngưới không được hưởng quyền thừa kế sẽ không được nhận bất cứ phần di sản
nào để có thế vị. Tuy nhiên, xét trên cả lý luận và thực tiễn thì: khơng có quyền
hưởng di sản là một chế tài áp dụng đối với riêng người có lỗi. Nên chăng cần
xem xét người được thế vị có hay khơng được hưởng thừa kế thế vị trong trường
hợp cha hoặc mẹ của họ là những người không được quyền hưởng di sản?
III. Phân biệt “Người không được quyền hưởng di sản” và “Người bị
truất quyền hưởng di sản”
18


Cần phải khẳng định “Người không được quyền hưởng di sản” và “Người
bị truất quyền hưởng di sản” là hai sự việc hồn tồn khác nhau.
- Người khơng được quyền hưởng di sản: Là người thừa kế thực hiện
những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức được liệt kê tại Điều 643 Bộ luật dân
sự, bị pháp luật trừng trị bằng cách tước quyền hưởng di sản mà đáng ra họ sẽ
được hưởng nếu như khơng có các hành vi trên. Việc này là sự trừng trị mà xã
hội, nhà nước dành cho họ chứ không phải là ý chí của người để lại di sản.
- Người bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản: Là người bị
người để lại di sản truất quyền hưởng di sản. Việc này là do ý chí của người để
lại di sản được thể hiện trong di chúc. Người để lại di sản có quyền truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế mà không cần nêu lý do tại sao.
Người bị truất quyền hưởng di sản thì chắc chắn sẽ không được hưởng
thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp, người để lại di chúc chưa định đoạt hết
số tài sản của mình trong di chúc và phần tài sản cịn lại được chia theo pháp
luật, để tơn trọng ý chí của người đã mất là khơng muốn để lại di sản của mình
cho những người bị truất quyền thừa kế nên pháp luật quy định người bị truất
quyền hưởng di sản cũng không được phần hưởng di sản như những người thừa
kế khác mặc dù theo pháp luật thì họ ở cùng một hàng thừa kế. Tuy nhiên theo
Điều 669 BLDS thì những trường hợp: người bị truất quyền hưởng di sản là con

chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên mà khơng có khả
năng lao động của người lập di chúc thì mặc dù họ bị người lập di chúc truất
quyền hưởng di sản nhưng vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật.
C. Kết luận
Từ sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn của vấn đề “người không được
quyền hưởng di sản” em đã có thêm một số hiểu biết về vấn đề, hiểu tại sao pháp
luật lại có quy định này, những đối tượng nào sẽ không được quyền hưởng di
19


sản. Đã phân biệt được thế nào là “người không có quyền hưởng di sản” theo
pháp luật và “người bị truất quyền hưởng thừa kế” theo ý chí của người để lại di
sản. Dựa trên những điểm còn hạn chế của pháp luật về vấn đề em đã đưa ra một
số ý kiến để để hoàn thiện hơn pháp luật về vấn đề này. Do khả năng và sự hiểu
biết cịn hạn chế, chắc chắn bài viết chưa thể hồn thiện và cịn tồn tại những
thiếu sót nhất định. Mong thầy cơ góp ý để bài luận của em thêm hoàn thiện!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb.

Công an nhân dân, 2006
2.

Bộ luật Dân sự 2005.

3.


Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000.

4.

TS. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008

5.

Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Ts. Hoàng Thế Liên (chủ

biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam, tập III: Thừa kế, chủ quyền
sử dụng đất, sở hữu trí tuệ và chuyển giao cơng nghệ, quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001
6.

TS. Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ

1945 đến nay, Nxb. Tư pháp Hà Nội, 2004
7.

TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt

Nam, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh

20


21




×