Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn nông thôn tỉnh Ninh Bình Luận văn ThS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT



PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành
:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số
:
60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỮU SỞ




HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những số
liệu, tư liệu sử dụng trong luận văn này có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nêu
ra trong Luận văn là trung thực và nội dung của Luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Ánh Tuyết



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Những đóng góp dự kiến của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn 9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN 10
1.1. Cơ sở lý luận về sự phát triển nguồn nhân lực nông thôn 10
1.1.1. Một số khái niệm 10

1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực nông thôn 18
1.1.3. Nội dung tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực nông thôn 24
1.1.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực
nông thông 29
1.1.5. Vai trò của nguồn nhân lực nông thôn 35
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực nông thôn 42
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực nông thôn ở tỉnh Thái Bình 42
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực nông thôn ở tỉnh Hà Nam 44
1.2.3. Một số bài học rút ra được từ những thực tế trên cho Ninh Bình 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN
ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH NINH BÌNH 47
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình 47
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 47
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 51
2.2. Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực nông thôn tỉnh Ninh Bình 63
2.2.1. Số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực nông thôn của Tỉnh Ninh Bình 63
2.2.2. Về chất lượng nguồn nhân lực nông thôn của tỉnh Ninh Bình 65
2.2.3. Một số nét về tình hình văn hóa - xã hội của Tỉnh 73
2.3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân phát triển nguồn nhân lực nông
thôn 75
2.3.1. Những thành tựu 75
2.3.2 Những hạn chế 76
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
NÔNG THÔN NINH BÌNH 79
3.1. Bối cảnh, những sự thay đổi lớn trong tương lai về các chính sách,
đường lối quan điểm phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và tỉnh đến năm
2020 79
3.2. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Ninh Bình đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 80
3.2.1. Phương hướng chung 80

3.2.2. Mục tiêu chủ yếu 81
3.2.3. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh 83
3.3. Một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực nông thôn Ninh Bình 88
3.3.1. Đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển NNL nông thôn Ninh Bình 88
3.3.2. Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực nông thôn Ninh Bình 91
3.3.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích,
thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nông thôn Ninh Bình 99
3.3.4. Tạo thêm nhiều việc làm cho NNLNT, giải quyết việc làm cho người
lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 104
3.3.5. Tăng cường huy động nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực 113
3.3.6. Một số giải pháp khác 115
KẾT LUẬN 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
PHỤ LỤC 140


i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH
:
Bảo hiểm xã hội
BHYT
:
Bảo hiểm y tế
CMKT
:
Chuyên môn kỹ thuật
CNH - HĐH
:

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CNKT
:
Công nhân kỹ thuật
CTQG
:
Chính trị quốc gia
DN
:
Dạy nghề
GD - ĐT
:
Giáo dục - đào tạo
GDP
:
Tổng thu nhập quốc dân
GDTX
:
Giáo dục thường xuyên
GNP
:
Tổng thu nhập quốc nội
HDI
:
(Human Development Index) chỉ tiêu đánh giá
trình độ phát triển nguồn lực
HNDN
:
Hướng nghiệp dạy nghề
HTX

:
Hợp tác xã
ILO
:
Tổ chức lao động quốc tế
LĐ - TB - XH
:
Lao động thương binh xã hội
LLLĐ
:
Lực lượng lao động
NNL
:
Nguồn nhân lực
NNLNT
:
Nguồn nhân lực nông thôn
THCN
:
Trung học chuyên nghiệp
THCS
:
Trung học cơ sở
THPT
:
Trung học phổ thông
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
UNDP

:
Chương trình phát triển liên hợp quốc
WB
:
Ngân hàng thế giới
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
KT - XH
:
Kinh tế - Xã hội

ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình phân bố và sử dụng đất đai của tỉnh (2010 - 2012) 52
Bảng 2.2. Tình hình phân bố dân số tỉnh Ninh Bình (2010 - 2012) 54
Bảng 2.3. Tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh Ninh
Bình (2010 - 2012) 57
Bảng 2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh một số ngành chính của tỉnh
Ninh Bình (2010 - 2012) 60
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp theo giá so sánh của
tỉnh Ninh Bình (2010 - 2012) 62
Bảng 2.6. Cơ cấu theo nhóm tuổi của lực lượng lao động năm 2010
của tỉnh Ninh Bình 64
Bảng 2.7. Cơ cấu lực lượng lao động phân theo nhóm ngành kinh tế
năm 2010 - 2012 65
Bảng 2.8. Chỉ số sức khỏe tổng quát của bà mẹ và trẻ em năm 2012 67
Bảng 2.9. Trình độ văn hóa của lực lượng lao động tỉnh Ninh Bình (2010 -
2012) 68
Bảng 2.10. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động

Ninh Bình năm 2010 -2012 70




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, con người là cơ sở của sản xuất
cho nên các quan hệ và chức năng của con người đều tác động đến sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất,
con người là lực lượng sản xuất hàng đầu, quyết định sự vận động và phát
triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất vật chất, quyết
định năng suất lao động và tiến bộ xã hội: "Bản thân xã hội sản xuất ra con
người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội
như thế” [41,tr.169]. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao và là điều
kiện để tăng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về mọi mặt so với thế giới.
Phát triển nhân lực là quá trình biến đổi nhân lực cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người, phát triển
toàn bộ nhân cách, năng lực tinh thần; hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề
ngày càng toàn diện hơn, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển
đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những trọng điểm của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay: "Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột

phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi

2
thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững" [14,tr. 130].
Để triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, phù
hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương, khai thác có hiệu quả các
lợi thế và nguồn nhân lực nông thôn sẵn có cũng như tận dụng được các cơ
hội và điều kiện thuận lợi trong hoàn cảnh mới, phát triển nguồn nhân lực
nông thôn ở Ninh Bình là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Nam vùng đồng bằng châu thổ Sông
Hồng, có điều kiện tự nhiên khá đa dạng, phong phú và có nguồn nhân lực
nông thôn khá lớn, cơ cấu trẻ, đó là tiềm năng, lợi thế cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của Tỉnh. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, cùng với sự đoàn kết và quyết tâm
phấn đấu của quân dân trong tỉnh, Ninh Bình đã đạt được những thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực: Kinh tế tăng trưởng khá, tốc độ phát triển GDP
đạt 16,5% năm 2010; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ. Thu ngân sách đạt 3000 tỷ đồng. Văn hóa xã
hội có tiến bộ, đời sống của nhân dân được cải thiện, an sinh xã hội được đảm
bảo, công tác giảm nghèo có nhiều cố gắng… Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh còn nhiều bất cập, hạn chế và chưa tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh vốn có. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là việc phát
huy các nguồn nội lực còn hạn chế, đặc biệt chưa phát huy tốt vai trò nguồn
nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nông thôn phục vụ công cuộc phát triển
kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực nông thôn Ninh Bình hiện nay phần lớn vẫn là
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, chưa qua đào tạo. Hiện nay,
thị trường lao động Ninh Bình có các đặc thù: Một mặt, tỷ lệ lao động nông

nghiệp chiếm đa số, thị trường lao động bị chia cắt (do sự thiếu hụt thông tin

3
thị trường lao động, thiếu các chính sách về thị trường lao động, chính sách về
hành chính….), bất cân đối lớn cung - cầu lao động (đặc biệt cung - cầu lao
động phổ thông), giá cả lao động rẻ và hạn chế liên kết với thị trường lao
động trong tỉnh và cả nước… cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác,
tiềm năng của nguồn nhân lực nông thôn chưa được khai thác đầy đủ ảnh
hưởng đến khả năng kết hợp của nguồn nhân lực tự nhiên với các nguồn vốn
công nghệ, tri thức, thông tin để tăng sản phẩm, thu nhập và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người lao động và dân cư.
Nghiên cứu nguồn nhân lực nông thôn của tỉnh Ninh Bình là một đòi
hỏi vừa cấp bách, vừa cơ bản, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy,
tôi chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn nông thôn tỉnh
Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sỹ.
1.2. Một số câu hỏi đặt ra trong quá trình nghiên cứu
(1). Thực trạng nguồn nhân lực nông thôn tỉnh Ninh Bình hiện nay như
thế nào?
(2). Những yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong những
năm gần đây là gì? Đánh giá cả hai mặt: Quy mô và chất lượng nguồn nhân
lực nông thôn so với yêu cầu ra sao?
(3). Những giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nông thôn của tỉnh Ninh Bình?
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề con người, nguồn lực con người và
phát huy nguồn lực con người đã được các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà
khoa học trong và ngoài nước chú tâm nghiên cứu dưới nhiều mức độ và góc
độ khác nhau. Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được
công bố, như:


4
- Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), “ Về phát triển toàn diện con
người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, NXB Chính trị Quốc gia. Tác
giả chỉ ra 5 đặc điểm trí tuệ quan trọng nhất mà người Việt Nam cần có để
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Có năng lực tư duy
sáng tạo; có năng lực tiếp thu nhanh và vận dụng linh hoạt; có năng lực phát
hiện và giải quyết vấn đề; có năng lực quản lý; có kiến thức rộng rãi và sâu
sắc trong nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở tổng hợp và khái quát các kết quả
nghiên cứu, tác giả đã đề xuất mô hình nhân cách con người Việt Nam thế
kỷ XXI: Đó là một nhân cách được phát triển toàn diện. Trong đó, nhu cầu
và động cơ, hứng thú sở thích trí tuệ và tài năng, nhân sinh quan và quan
niệm giá trị, lý tưởng và niềm tin, tích cách và khí chất của họ đều phát triển
theo hướng lành mạnh.
- Bùi Thị Ngọc Lan (2002), “ Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam”. NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan
trọng của nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển xã hội; làm rõ đặc điểm, thực
trạng phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam, cũng như
sự cần thiết phải chăm lo phát huy cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ
trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Theo tác giả, cần thiết phải nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về sự cần thiết phải phát huy nguồn lực trí tuệ; cải cách
hệ thống giáo dục và đào tạo để tạo nguồn cho quá trình phát huy nguồn lực
trí tuệ; tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy nguồn lực trí tuệ; xây dựng
môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh. Công trình có ý nghĩa lý luận quan
trọng trong việc phát triển và phát huy sức mạnh của nguồn lực trí tuệ, nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Nguyễn Hữu Dũng (2003), “ Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở
Việt Nam” NXB Lao động - xã hội, Hà nội. Tác giả đã trình bày hệ thống một

5

số vấn đề lý luận và thực tiễn các vấn đề có liên quan đến phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đánh giá thực trạng 15
năm đổi mới lĩnh vực nguồn nhân lực; giới thiệu kinh nghiệm của Mỹ, Nhật
Bản và Trung Quốc về vấn đề này; đề xuất các giải pháp phát triển, phân bố
hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực con người trong quá trình phát triển
kinh tế ở nước ta đến năm 2020. Đây là công trình khoa học có ý nghĩa quan
trọng trong việc quản lý NNL nói chung, NNL trí tuệ nói riêng trong quá trình
đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
- Đoàn Văn Khái (2005), “Nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, NXB Lý luận chính trị, Hà nội. Tác
giả đã làm rõ một số vấn đề chung về CNH - HĐH như: Khái lược quá trình
công nghiệp hóa trên thế giới; nội dung, bản chất, tính tất yếu và đặc điểm của
CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay; đồng thời làm rõ vai trò của nguồn lực con
người là yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực
trạng nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó đưa ra phương hướng
và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển có hiệu quả nguồn lực con người
đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH ở Việt Nam.
- Trần Văn Tăng (2006), “ Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân
lực tài năng”, NXB Thế giới, Hà nội. Nội dung cuốn sách trình bày những
kinh nghiệm trong phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công
nghệ sản xuất, kinh doanh, quản lý của Mỹ và một số quốc gia Châu Âu
(Đức, Pháp, Anh), Châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc
gia Châu Á khác). Từ đó đã đưa ra vấn đề Việt Nam cần đổi mới các chính
sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn tài năng hiện có. Công trình nghiên
cứu có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nước ta trong việc phát hiện, đào tạo,

6
sử dụng tài năng khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH và
công cuộc đổi mới đất nước.

- Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “ Đại hội XI với vấn đề phát triển nguồn
nhân lực”, Báo tin tức.vn ngày 18/5. Trên cơ sở hệ thống hóa những quan
điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực qua các kỳ đại hội (thời đổi
mới), tác giả đã phân tích, đối chiếu, đánh giá và so sánh sự phát triển trong
nhận thức cũng như chỉ đạo thực tiễn, để rút ra những điểm mới trong tư duy
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề con người, vai trò của con
người đối với phát triển chiến lược con người trong thời gian tới.
- Trần Kim Hải (1999), “ Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Hà nội. Công trình nghiên cứu đã phân
tích nhiều góc độ về hiện trạng, yêu cầu và những vấn đề đang đặt ra trong sử
dụng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Theo đó,
nguồn nhân lực hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp
CNH - HĐH ở nước ta. Vì vậy quá trình khai thác sử dụng cần phải được đặt
ra trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng của nguồn
nhân lực. Phải coi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nội dung, một
tiền đề cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cho công cuộc
đổi mới đất nước. Tác giả khẳng định: Những vấn đề bức xúc nhất của việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta là mở rộng quy mô đào tạo trên
cơ sở đa dạng hóa các nguồn vốn, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, đổi mới nội
dung, chương trình đào tạo, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực
theo hướng CNH - HĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và
chuyên gia, chăm sóc bà mẹ và trẻ em…Tất cả phải hướng tới mục tiêu cung
cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi
khắt khe của thị trường lao động trong nước và quốc tế, phù hợp với yêu cầu
của công cuộc đổi mới đất nước.

7
- Hà Quý Tình, “ Nguồn nhân lực nông thôn - thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998. Tác giả đã đánh giá thực trạng
nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam với những đặc trưng cơ bản, phổ quát

nhất như: Lao động mang tính thời vụ, chất lượng chưa cao, sức khỏe hạn
chế, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật thấp; số lượng nguồn nhân lực
nông thôn cao. Đồng thời nêu lên những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn nhân lực nông thôn và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nông thôn.
Những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu quý để tác giả tham
chiếu trong quá trình làm luận văn. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên
cứu trình bày trên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về nguồn nhân
lực nông thôn, đặc biệt nguồn nhân lực trên địa bàn nông thôn tỉnh Ninh Bình.
Mặc dù một số tác giả tuy có bàn đến vấn đề phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực nông thôn… nhưng mới chỉ nêu lên những nét khái quát như một
phác thảo chung, chưa đi sâu nghiên cứu cơ bản có hệ thống và những giải
pháp nhằm sử dụng nguồn nhân lực to lớn dồi dào ở nông thôn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực
nông thôn, đồng thời làm rõ thực trạng phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Ninh Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông
thôn tỉnh Ninh Bình trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề phát triển nguồn nhân lực nông thôn.
- Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực nông thôn Ninh Bình
và những yếu tố tác động đến thực trạng đó.

8
- Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn tỉnh
Ninh Bình trong những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề phát triền nguồn nhân

lực nông thôn trên phương diện số lượng, chất lượng (thể lực, trí lực), hệ
thống các chỉ tiêu đánh giá và những yếu tố tác động đến vấn đề phát triển
nguồn nhân lực nông thôn tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2012 (trong 03 năm)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng những quan
điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực nông thôn.
Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, so
sánh và phương pháp phân tích, tổng hợp.
Trong quá trình phân tích tác giả dùng phương pháp thống kê mô tả các
hiện tượng kinh tế- xã hội bằng việc mô tả thông qua các chỉ tiêu tổng hợp.
Ngoài mô tả mức độ phương pháp thống kê còn dùng để mô tả quá
trình biến động và mối quan hệ các hiện tượng. Phương pháp thống kê mô tả
còn được dùng để so sánh và phân tích quy mô, chất lượng nguồn nhân lực
nông thôn của tỉnh, từ đó rút ra những kết luận, những nhận xét giúp cho công
tác phát triển nguồn nhân lực nông thôn của tỉnh ngày càng hoàn thiện hơn,
đồng thời đưa ra những giải pháp hữu hiệu, phù hợp cho vấn đề phát triển
nguồn nhân lực nông thôn của tỉnh.
- Thu thập tài liệu, số liệu.

9
Sử dụng phương pháp kế thừa, tất cả các thông tin, số liệu về vấn đề
phát triển nguồn nhân lực nông thôn của tỉnh, điều kiện tự nhiên, dân số, kinh
tế- xã hội, môi trường và các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh được thu thập thông qua các nguồn: Báo cáo tổng kết năm, báo
cáo chuyên đề và nguồn số liệu từ Cục thống kê, các Sở, ngành có liên quan
của tỉnh; báo cáo khoa học, các loại sách báo do các nhà khoa học viết, các

tạp chí, báo ra hàng ngày, hàng tháng của Trung ương và địa phương.
Nguồn tư liệu được thu thập phục vụ cho việc nghiên cứu phần đa được
cung cấp từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có trách nhiệm, độ tin
tưởng khá cao.
6. Những đóng góp dự kiến của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân
lực nói chung, nguồn nhân lực nông thôn nói riêng.
- Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực nông thôn tỉnh Ninh Bình từ đó
đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nông thôn tỉnh
Ninh Bình trong những năm tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch
định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt phát triển nguồn nhân lực
nông thôn của tỉnh Ninh Bình và dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực
nông thôn
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn nông
thôn tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn tỉnh
Ninh Bình.

10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN

1.1. Cơ sở lý luận về sự phát triển nguồn nhân lực nông thôn

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển kinh tế như: Tài nguyên thiên nhiên, vốn, Khoa học - công nghệ, con
người… Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất,
có tính quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia.
Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật
hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai
thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như
mong muốn.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong công cuộc
hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, trong Văn Kiện Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ XI xác định: Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực, do cách
tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực:
Thứ nhất, Theo thuyết lao động xã hội, nghĩa rộng của nguồn nhân lực,
được hiểu là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Còn theo
nghĩa hẹp, là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong

11
độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội. Theo quan điểm của
Tổ chức lao động thế giới (ILO): Lực lượng lao động xã hội là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có việc làm và những người thất
nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam tuổi lao động được quy định là từ 15 - 60 tuổi

(đối với nam) và từ 15 - 55 tuổi (đối với nữ). Trên thực tế khi tính toán, thống
kê lực lượng lao động, người ta thường quy định: Lực lượng lao động là
những người trong độ tuổi lao động có việc làm và những người ngoài tuổi
lao động vẫn tham gia làm việc (thường tính cho những người trên tuổi lao
động). Như vậy, ở đây lực lượng lao động cũng đồng nghĩa với dân số hoạt
động kinh tế. Nguồn lao động được hiểu là toàn bộ những người có khả năng
lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả
năng lao động nhưng chưa tham gia lao động), không gồm những người có
khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc.
Thứ hai, Theo thuyết tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là
nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ ba, Theo thuyết về vốn con người, thì nguồn nhân lực được hiểu
như nguồn lực con người (Human Resonsrces), được huy động, quản lý cùng
với các nguồn lực khác (tài chính, tài nguyên…) để thực hiện những mục tiêu
phát triển đã định.
Thứ tư, Theo Liên hợp quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan
hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Thứ năm, Theo định nghĩa của Viện nghiên cứu con người (2006):
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa
phương, một quốc gia trong tổng thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể,
trí, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức,
địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình

12
biến đổi nguồn lực con người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát
triển.
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế chính trị có
thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ
lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và

kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng
để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và
tương lai của đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm về nguồn nhân lực nông thôn
Nguồn nhân lực nông thôn: Nguồn nhân lực nông thôn là một bộ
phận của nguồn nhân lực nói chung, được phân bố ở nông thôn và làm việc
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn, bao gồm: Sản xuất
nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ
và các hoạt động phi nông nghiệp khác diễn ra ở nông thôn.
Nguồn nhân lực nông thôn thống nhất nhưng không đồng nhất với
nông dân. Trong nông thôn, nông dân là lực lượng lao động, là vốn người chủ
yếu của NNL NT, nhưng NNL NT còn bao gồm những bộ phận nhân lực
khác không phải là nông dân. Nông thôn ngày nay không chỉ thuẩn túy là
nông dân, không chỉ thuần túy là lao động nông nghiệp, mà còn có một bộ
phận không nhỏ cán bộ hưu trí, mất sức, bộ đội phục viên, xuất ngũ, học sinh
chuyên nghiệp ra trường chưa có việc làm; những người do tổ chức lại sản
xuất, giảm biên chế các cơ quan xí nghiệp Nhà nước cũng về sống tại nông
thôn. Do tác động của nền sản xuất hàng hóa, nông thôn xuất hiện ngày càng
nhiều tầng lớp tiểu thương, buôn bán nhỏ, chủ trang trại, có người thoát ly
hẳn sản xuất nông nghiệp làm nghề buôn bán thương nghiệp, dịch vụ, giáo
viên, cán bộ y tế, văn hóa… Do đó, bức tranh về cơ cấu thành phần dân cư ở
nông thôn nước ta là rất đa dạng.

13
Nông thôn ngày nay không chỉ thuần túy sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp mà còn bao hàm các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phi nông
nghiệp (công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, ngành nghề truyền thống…).
Nguồn nhân lực nông thôn là toàn bộ những tiềm năng con người phục
vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Do vậy, cần phải thấy rằng
trong NNLNT bên cạnh nguồn nhân lực trực tiếp sống tại nông thôn tạo thành

cơ cấu dân cư nông thôn thì nó còn là nguồn nhân lực gián tiếp phục vụ nông
thôn có thể không sống tại nông thôn nhưng công việc của họ gián tiếp phục
vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Đó là đội ngũ những người
như kỹ sư, công nhân các nhà máy phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nhân
nông nghiệp… Do vậy, NNLNT là nguồn lao động phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, nó phản ánh quy mô dân số thông qua
số lượng dân cư và tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn qua các thời kỳ.
NNLNT phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và lao động trong các
ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo, cơ cấu trình độ lao động, cơ
cấu độ tuổi trong lực lượng lao động nông thôn và cơ cấu nguồn lao động dự
trữ ở nông thôn, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
NNLNT là khái niệm phản ánh phương diện chất lượng của lực
lượng lao động ở nông thôn trong hiện tại và trong tương lai gần thể hiện
qua hàng loạt các yếu tố như: Sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần; mức
sống; trình độ giáo dục, đào tạo về văn hóa và về chuyên môn nghề nghiệp;
năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng và văn hóa lao động, các
khía cạnh tâm lý, đạo đức, lối sống…, trong đó thể lực, trí lực và đạo đức
là những yếu tố quan trọng nhất. Bên cạnh đó, nó cũng nói lên sự biến đổi
và xu hướng sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực
lượng lao động ở nông thôn.

14
Trong NNLNT, thanh niên nông thôn và một lực lượng khá đông đảo,
chiếm trên 30% dân số và trên 50% lực lượng lao động trong nông nghiệp.
Đây là một nguồn lực vô cùng quý giá để thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực trẻ, có chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho thanh niên nông thôn và giải quyết tốt
các vấn đề xã hội ở nông thôn là một nhiệm vụ và yêu cầu cấp thiết trong quá
trình CNH - HĐH. NNLNT còn bao hàm một lực lượng hết sức đông đảo và
có vai trò đặc biệt quan trọng ở nông thôn là phụ nữ nông thôn. Phụ nữ nông

thôn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình và đặc biệt là
trong xây dựng gia đình văn hóa mới, trong công tác dân số và kế hoạch hóa
gia đình… Do vậy, trong việc phát triển NNLNT phải coi trọng việc phát huy,
khai thác tạo điều kiện để đảm bảo sự công bằng về giới của phụ nữ trong sự
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn tạo điều kiện để họ phát huy vai trò của
mình trong quá trình CNH - HĐH và xây dựng nông thôn mới.
1.1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn
- Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt
đạo đức, trí tuệ, kỹ năng lao động, thể lực, tâm hồn… Để họ có thể tham gia
vào lực lượng lao động, thực hiện tốt quá trình sản xuất và tái sản xuất ra
nhiều sản phẩm, góp phần làm giàu cho đất nước làm giàu cho xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực được xem xét trên hai mặt chất và lượng. Về
chất phát triển NNL phải được tiến hành trên các mặt: Phát triển nhân cách,
phát triển trí tuệ, thể lực, kỹ năng và tạo môi trường thuận lợi cho NNL phát
triển; Về lượng là gia tăng số lượng nguồn nhân lực, điều này tùy thuộc vào
nhiều nhân tố trong đó dân số là nhân tố cơ bản.
Bất kỳ quá trình sản xuất nào cũng có 3 yếu tố: Sức lao động, đối tượng
lao động và tư liệu lao động. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực chính là đầu

15
tư vào các yếu tố của quá trình sản xuất. Cần lưu ý rằng trong tất cả các yếu tố
đầu tư thì đầu tư vào con người, đầu tư cho nguồn nhân lực là đầu tư quan
trọng nhất. Đầu tư cho con người được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau
như: Thông qua các hoạt động giáo dục - đào tạo, đào tạo nghề, tăng cường
kỹ năng và chăm sóc sức khỏe.
- Phát triển nguồn nhân lực nông thôn.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là giải quyết vấn đề phát triển
người lao động nông thôn, phát triển nông dân và cơ cấu xã hội ở nông thôn.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là sự biến đổi số lượng và chất lượng

NNLNT về các mặt: Cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần… cần
thiết cho công việc, nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn định
công ăn việc làm, nâng cao địa vị kinh tế, xã hội và đóng góp cho sự phát
triển xã hội. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH - HĐH
là hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân lực có số lượng và chất lượng đáp ứng
yêu cầu kinh tế - xã hội của giai đoạn CNH - HĐH đất nước.
Phát triển NNLNT thực chất là quá trình làm gia tăng giá trị cho con
người ở nông thôn trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực,
làm cho họ trở thành những người lao động có những năng lực và phẩm chất
mới và đáp ứng những yêu cầu to lớn của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Từ những điều trình bày trên có thể khẳng định rằng: Phát triền
NNLNT là quá trình nâng cao năng lực của con người nông thôn về mọi mặt;
đồng thời phân bố, sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất nguồn nhân lực
nông thôn thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm ở
nông thôn.
- Sự cần thiết khách quan, phát triển nguồn nhân lực nông thôn.
+ Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi phải có nguồn
nhân lực không chỉ về chất lượng và số lượng mà còn phải có một cơ cấu

16
đồng bộ. Nguồn nhân lực được coi là vấn đề trung tâm của sự phát triển. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định “Nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”, [14,tr. 108] “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [14,tr. 201].
Nguồn lực con người là điểm cốt yếu nhất của nguồn nội lực, do đó phải bằng
mọi cách phát huy yếu tố con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Vai trò và vị trí nguồn nhân lực và nguồn nhân lực nông thôn đối với
sự phát triển của đất nước ngày càng cao đặc biệt đối với khoa học xã hội và
nhân văn. Nó là cơ sở “ Cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định

đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người, phát huy
những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới của Việt
Nam” [14,tr.112].
Trong chương trình KX - 05 “ Xây dựng văn hóa, phát triển con người
và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã phản ánh
một cách đầy đủ và súc tích về mối quan hệ các vấn đề văn hóa, con người
nguồn nhân lực gắn quyện với nhau: Hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người tạo ra qua giáo dục lại trở lại với con người, được con người kế
thừa và phát triển, phải trở thành sức mạnh ở mỗi con người cũng như trong
từng tập thể lao động thành vốn người, nguồn lực con người tạo ra các giá trị
mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của từng người, nhóm người, đội lao động,
tập thể một đơn vị sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
nói chung và của từng tế bào kinh tế nói riêng.
+ Sự cần thiết khách quan phát triển nguồn nhân lực nông thôn xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết sự phát triển NNLNT xuất
phát từ nhu cầu lao động. Sở dĩ như vậy bởi yêu cầu phát triển của xã hội
ngày càng tăng, nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng lớn, ngày càng phong

17
phú và đa dạng. Điều đó tất yếu xã hội phải tạo ra nhiều của cải theo đà phát
triển ngày càng tăng của xã hội; nghĩa là lực lượng tham gia vào các hoạt
động của nền sản xuất xã hội phải ngày càng nhiều, chất lượng lao động phải
ngày càng nâng lên, phải nâng cao trình độ trí tuệ và sức sáng tạo của con
người hay nói cách khác phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung,
NNLNT nói riêng để tạo một đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao mới
đáp ứng được yêu cầu đó.
+ Sự cần thiết phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực nông thôn còn từ
nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Khi kinh tế phát triển
mạnh hơn, xã hội trở nên văn minh hơn thì con người luôn luôn được hoàn
thiện ở cấp độ cao hơn. Do vậy nó đòi hỏi việc nâng cao trình độ tri thức của

nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nông thôn nói riêng không phải
chỉ do yêu cầu thực tiễn của sản xuất mà do yêu cầu đòi hỏi từ chính bản thân
của nguồn nhân lực và nguồn nhân lực nông thôn, hay nói cách khác chất
lượng của nguồn nhân lực sẽ tăng lên là điều tất yếu trong tiến trình phát triển
của nền sản xuất xã hội.
+ Sự cần thiết của nguồn nhân lực nông thôn còn là một tất yếu do tiến
trình phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là sự phát triển của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, yêu cầu khoa học của Ninh Bình đồng bộ trong
tiến trình phát triển của đất nước. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế, chất lượng NNL tăng lên không chỉ có ý nghĩa để sử
dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ mà còn có điều kiện để sáng
tạo ra các tư liệu lao động mới. Hơn thế nữa quá trình CNH - HĐH yêu cầu
NNL nói chung, NNLNT nói riêng phải có sự chuyển biến về chất từ lao động
thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.
Sự phân tích trên cho thấy NNLNT có vai trò rất quan trọng, việc
nâng cao chất lượng NNL và phát triển NNLNT là một tất yếu khách quan,

18
là xu thế phát triển của thời đại, là yêu cầu tất yếu của quá trình CNH -
HĐH, là sự cần thiết khách quan đối với Việt Nam nói chung và Tỉnh Ninh
Bình nói riêng.
1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực nông thôn
Nguồn nhân lực nông thôn có những đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực nông thôn nước ta chiếm tỷ trọng lớn và tăng
nhanh.
Do dân số nước ta phần lớn sống ở nông thôn nên NNLNT hiện nay khá
đông. Theo Tổng cục Thống kê năm 2009, lực lượng lao động nông thôn có
35.119,1 nghìn người, chiếm 74,1%; năm 2008 có 34.453,2 nghìn người,
chiếm 73,6%. Qua hai năm 2008 - 2009 tỷ lệ lao động ở nông thôn đã có xu
hướng tăng, nhìn chung NNL NT vẫn còn lớn. Dự báo sau năm 2015, lao động

nông thôn nước ta vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động xã hội.
Đặc điểm này cho thấy tiềm năng nhân lực ở nông thôn nước ta rất lớn
và dồi dào. Chỉ tính trong 5 năm (2005 - 2009) lao động nông thôn đã tăng lên
3.033,3 nghìn người (trong đó tăng tự nhiên gần 2.200 nghìn người, tăng do
giảm biên chế khu vực Nhà nước, do quân nhân xuất ngũ, hợp tác lao động
nước ngoài trở về… khoảng trên 1 triệu người). Đây là lực lượng lao động trẻ
khỏe, có khả năng tiếp thu và nắm bắt kỹ thuật mới nhanh, sử dụng công nghệ
mới, tiếp thu kiến thức kinh doanh tốt, nếu được bồi dưỡng và đào tạo chu đáo.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng
nhanh, cùng với quá trình đô thị hóa và mất dần đất nông nghiệp (nhất là vùng
đồng bằng đông dân và vùng ven đô thị…) diễn ra tương đối nhanh như hiện
nay, trong khi chưa đủ điều kiện chuyển họ sang làm ngành nghề và dịch vụ
sẽ dẫn tới tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm tiềm tàng ở nông thôn là rất
lớn, gây sức ép lớn về giải quyết việc làm và thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn, làm cho mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế với

19
nhu cầu giải quyết việc làm quá lớn vốn đã căng thẳng lại thêm cẳng thẳng
hơn. Vì vậy, vấn đề khắc phục mất cân đối cung - cầu về lao động ở nước ta
phải giải quyết bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
- Nguồn nhân lực nông thôn nước ta phân bố không đều giữa các
ngành và các vùng.
Thực tế cho thấy, cơ cấu nguồn nhân lực nông thôn nước ta hiện nay
phân bố chưa hợp lý và còn nhiều bất cập. Lao động trong nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp và dịch vụ đã có bước phát triển mới nhưng
tốc độ phát triển còn chậm. Đây là vấn đề bất lợi, cần tập trung giải quyết
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng: Giảm tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ, phù hợp
với quy luật của quá trình CNH - HĐH.
Mặt khác, nguồn nhân lực nông thôn phân bố giữa các vùng lãnh thổ

cũng chưa hợp lý, chủ yếu vẫn ở trạng thái tự nhiên nhiều hơn, các vùng
chuyên canh lớn chưa được hình thành và định hình rõ nét. Sự mất cân đối về
lao động ở các vùng biểu hiện ở mật độ dân cư ở đồng bằng và miền núi,
trung du, mật độ dân số ở đồng bằng cao gấp nhiều lần so với miền núi. (80%
dân cư sống ở đồng bằng, 20% dân cư sống ở miền núi).
Các vùng còn lại có điều kiện tự nhiên, tài nguyên, kinh tế - xã hội và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất khác nhau. Sự mất cân đối về lao
động giữa các vùng tạo ra sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn đòi hỏi phải được phân bố
một cách hợp lý giữa các vùng nhằm phát huy thế mạnh của từng vùng. Kết
hợp giữa cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp là hết sức cần thiết, nhằm khắc phục tình trạng phát triển
không đồng đều ở nông thôn hiện nay. Giải quyết tốt vấn đề di dân có tổ chức

×