Bộ môn: Chính sách kinh tế đối ngoại
Đề tài thảo luận
CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP WTO
Nhóm thực hiện:
1. Nguyễn Đức Trí Dũng
2. Nguyễn Anh Đức
3. Lại Hà Quang Huy
4. Đinh Quang Linh
5. Nguyễn Văn Nam
6. Trần Ngọc Tùng
7. Nguyễn Thị Duyên
I. Thực trạng thu hút FDI hiện nay của Việt Nam:
Hiện nay, Việt Nam vẫn được đánh giá là một nước có môi trường thu
hút FDI tương đối thuận lợi. Nhiều chính sách của chính phủ đã được thực
hiện nhằm thu hút nguồn vốn nhiều tiềm năng này.
Vai trò của nguồn vốn FDI trong nền kinh tế là không thể phủ nhận.
Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam đã tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời tạo nên những điều kiện cho
phát triển kinh tế và nhiều tác dụng khác nữa. Vì vậy nguồn vốn này luôn
nhận được sự quan tâm của chính phủ và các nhà hoạch định chính sách.
Nguồn vốn FDI vào nước ta đến từ nhiều nước khác nhau thể hiện
trong biều đồ:
Biểu đồ 1: FDI vào Việt Nam từ 1990- 2010
(nguồn: )
Nhìn chung FDI vào nước ta có xu hướng tăng dần qua các năm và đạt
được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên trong phạm vi thảo luận này chúng ta
sẽ không đề cập sâu đến vấn đề này.
Tình hình FDI vào nước ta trong những tháng đầu năm 2011 có một số
biến động. Theo số liệu báo cáo các địa phương gửi về tính đến ngày 20/08
đã có 7,3 tỷ USD vốn FDI được giải ngân từ đầu năm(Cục đầu tư nước ngoài-
Bộ kế hoạch và đầu tư), tăng 1% so với cùng kỳ. Như vậy, mức giải ngân 1 tỷ
USD trong tháng này là cao hơn so với bình quân khoảng 900 triệu
USD/tháng tính đến nay.
Đây có lẽ là dòng vốn duy nhất giữ được “phong độ”. Theo ước tính
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm nay có thể
chỉ bằng khoảng 34-35% GDP, thấp hơn rất nhiều con số trên 42% của năm
ngoái. Tình hình sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp FDI đang rất
thuận lợi, nếu nhìn trên các chỉ tiêu về xuất, nhập khẩu trong 8 tháng đầu năm
nay.
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, ước tính kim ngạch xuất
khẩu của khối doanh nghiệp FDI đến nay đạt khoảng 32,64 tỷ USD, nếu kể cả
dầu thô, tăng tới 34% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu loại trừ dầu thô thì còn
đạt 27,73 tỷ USD và tăng 32%. Con số tương ứng của nhập khẩu là 30,1 tỷ
USD và tăng 31%. Như vậy, ước tính khu vực doanh nghiệp FDI đã xuất siêu
khoảng 2,54 tỷ USD trong 8 tháng qua. Nếu không kể dầu thô thì nhập siêu
gần 2,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, các con số về thu hút vốn đăng ký còn khá ảm đạm, đặc biệt
là vốn đăng ký mới. Chưa có đánh giá về sự dịch chuyển dòng đầu tư Nhật
Bản sau thảm họa kép động đất, sóng thần tại đất nước này, nhưng rõ ràng,
khủng hoảng tài chính nhiều nơi trên thế giới đã có tác động đến dòng vốn
FDI vào Việt Nam.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong 8 tháng qua mới có 582 dự án được
cấp giấy chứng nhận đầu tư, tổng vốn đăng ký đạt trên 7,9 tỷ USD, giảm 34%
về số dự án và 30% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái.
Biểu đồ 2: Diễn biến thu hút FDI 8 tháng đầu năm 2011 và 2010
(nguồn:Cục đầu tư nước
ngoài )
Cùng thời gian này, đã có 168 lượt dự án đăng ký tăng vốn với tổng
vốn đăng ký tăng thêm trên 1,6 tỷ USD, giảm 47% về số dự án nhưng tăng
khoảng 1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ.
Dòng vốn FDI vẫn tiếp tục đổ vào lĩnh vực chế biến chế tạo. Tính đến
nay, đã có khoảng 4,6 tỷ USD cả đăng ký mới và tăng vốn vào lĩnh vực này,
chiếm tới trên 48% tổng vốn FDI vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm. Tiếp
theo vẫn là 2 lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, gas, nước và xây dựng
với vốn đăng ký tương ứng trên 2,5 tỷ USD và khoảng 671 triệu USD. Đáng
chú ý là lĩnh vực bất động sản đã 2 tháng nay không thấy có thay đổi trong
thống kê về số vốn đăng ký mới và tăng thêm. Cùng với dòng chảy này, nhiều
quan điểm cho rằng thị trường bất động sản đang thiếu sức hút với dòng tiền.
Về phía các quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ đầu tư với Việt Nam,
tính đến tháng này các vị trí dẫn đầu vẫn là Hồng Kông, Singapore và Hàn
Quốc với vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm lần lượt là gần 2,9 tỷ USD, gần
2,5 tỷ USD và 851 triệu USD.
Các địa phương thu hút vốn lớn cũng không có sự thay đổi thứ hạng
trong tháng này, Hải Dương vẫn dẫn đầu với gần 2,5 tỷ USD vốn đăng ký.
Tiếp theo là Tp.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt kéo về 1,65 tỷ USD và
gần 780 triệu USD.
II. Một chính sách thu hút FDI hiện nay:
Để thu hút nguồn vốn FDI, chính phủ đã áp dụng rất nhiều chính sách và
biện pháp như nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, ưu
đãi thuế, cải cách thủ tục hành chính,…Các biện pháp, chính sách này bên
cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận cũng vẫn còn rất nhiều bất
cập cần sửa đổi. Mỗi chính sách đều có vai trò riêng, không thể nói cái nào
quan trọng hơn song để tránh tìm hiểu quá mien man, không đi vào chiều sâu,
chúng ta sẽ chỉ đi tìm hiểu một số chính sách tiêu biểu hiện nay. Mỗi chính
sách được đề cập đến thực trạng và những vấn đề hạn chế được đặt ra để giải
quyết. Đó là:
Nâng cấp hạ tầng cơ sở:
Công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển có vai trò quan trọng
trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình huy
động nguồn lực tài chính thông qua các công cụ tài chính để huy động với
nhiều kênh khác nhau, nhưng tựu trung lại huy động vốn trong nước vẫn là
chủ yếu; việc huy động vốn nước ngoài thường mang tính giai đoạn, bởi vì
nền kinh tế phát triển nếu không dựa trên cơ sở tích luỹ từ nội bộ thì thiếu
tính bền vững. Thực tế cho thấy, chính sách thu hút vốn FDI bao giờ cũng
gắn liền với nguồn vốn trong nước; đơn cử như: để thu hút vốn FDI hoặc các
dự án lớn thì số vốn đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở hạ tầng trong các khu
công nghiệp cũng như bên ngoài hàng rào dự án luôn luôn là khâu đi trước
với số vốn được huy động lớn.
Cơ sở hạ tầng là 1 phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư FDI vào
việt nam.Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư của Việt
Nam.sau đây là bảng so sánh về cơ sở hạ tầng của Việt Nam với những nước
trong khu vực ASEAN
BẢNG So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN năm 2010
Nước Sân
bay
Cảng
biển
Giao
thông
Điện
lực
Viễn
thông
Bình
quân
Singapore 4,9 4,9 4,6 4,4 4,7 4,7
Brunei 3,3 3,0 3,3 3,6 3,5 3,3
Malaysia 3,1 3,1 2,7 2,6 3,2 2,9
Thái Lan 3,1 2,5 1,6 2,7 3,0 2,6
Philippin 2,3 2,4 1,9 2,2 2,7 2,3
Indonesia 3,0 2,4 2,3 2,6 2,7 2,6
Việt Nam 1,9 2,0 1,9 1,9 2,2 2,0
Myanmar 1,6 1,5 1,6 1,4 1,4 1,5
Lào 1,5 1,5 1,7 1,5 1,5
Campuchia 1,6 1,5 1,8 1,4 1,4 1,5
Xếp hạng: Điểm 5 là cao nhất
(nguồn: Tổng cục thống kê)
Điều này cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam so với những nước trong khu
vực còn kém vì thế trong cuộc đua thu hút vốn FDI chúng ta luôn có những
bất lợi đáng kể từ cơ sở hạ tầng gây ra những khó khăn cho những nhà đầu tư
nước ngoài khi muốn tham gia vào thị trường Việt Nam.vì vậy nâng cao chất
lượng cơ sở hạ tầng là một trong những yêu cầu được đặt ra với nhà nước
Việt Nam để nâng cao thu hút vốn đầu tư FDI và cải thiện môi trường đầu tư
Những hạn chế còn tồn tại
• Cơ sở hạ tầng không đồng bộ, không đáp ứng nhu cầu
Cơ sở hạ tầng không phải là một nỗi lo mới đối với Việt Nam.đây là
một trong những trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn
đầu tư vào Việt NamTheo khảo sát mới nhất của Ban thư ký Diễn đàn doanh
nghiệp Việt Nam 2009,87,8% doanh nghiệp nước ngoài và 83% doanh
nghiệp trong nước trong tổng số 291 doanh nghiệp đánh giá chất lượng
cơ sở hạ tầng ở mức kém và rất kém. Kết quả này cũng tương đồng với Báo
cáo năng lực cạnh tranh quốc gia 2009 của Diễn đàn kinh tế thế giới, trong đó
cơ sở hạ tầng bị xếp hạng thấp nhất trong bộ chỉ số cạnh tranh của Việt Nam.
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) cho biết qua khảo sát mới nhất
với 600 doanh nghiệp Nhật, cơ sở hạ tầng yếu kém của Việt Nam vẫn là trở
ngại hàng đầu như hồi 2008. Điểm tích cực là năm nay, số lượng các doanh
nghiệp Nhật rất không hài lòng với cơ sở hạ tầng giảm xuống từ 43,1% xuống
còn 33,8%. Đa số doanh nghiệp Nhật (80%) cho rằng Việt Nam cần cải thiện
hệ thống đường xá, sau đó là điện năng, cảng và hệ thống cấp thoát nước.
Qua những con số trên ta có thể nhận thấy được sự yếu và thiếu về cơ sở hạ
tầng tại Việt Nam.trong khi đây là một yếu tố quan trọng để có thể thu hút
được vốn đầu tư của những doanh nghiệp nước ngoài.Việt Nam không thể
đáp ứng được những nhu cầu về điện nước.đường xá cho hoạt động kinh
doanh sản xuất
• Đầu tư thiếu chiến lược và vấn nạn tham nhũng
Những nguồn vốn dành cho đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam là
một con số không nhỏ nhưng sử dụng nguồn vốn này bị hạn chế bởi tính thiếu
hiệu quả cũng như nạn tham nhũng tại Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư cho cơ
sở hạ tầng lên đến 10% GDP của cả nước nhưng lại không mang lại những
hiệu quả như mong muốn. Có những con đường được đầu tư hàng nghìn tỷ
USD như dự án đường dẫn cầu Phú Mĩ trị giá hơn 1800 tỷ vẫn chưa hoàn
thành xong, đoạn đường đi được thì “nát như tương”, xe container trọng tải
lớn khó có thể đi được. Hay như vấn đề đại lộ Thăng Long trong thời gian
vừa qua với mức đầu tư gần 8000 tỷ đồng nhưng lại lộ rõ các lỗi bớt xén diện
tích lòng đường, sai lệch giá trị nguyên vật liệu, và nhiều con đường, “đại lộ”
khác nữa thể hiện những yếu kém trong quản lý, hoạch định chính sách đầu
tư-xây dựng.
Bên cạnh đó, Hà nội cũng có những dự án nâng cấp hệ thống giao
thông nhưng tình trạng ùn tắc vẫn diễn ra hang ngày các đường quốc lộ nối hà
nội với những tỉnh lân cận,những khu công nghiệp xung quanh hà nội,với mật
độ xe lớn việc ùn tắc sẽ gây ra cho doanh nghiệp những trở ngại lớn trong
luân chuyển hang hóa
Tại buổi họp ngày 11/1/2008 của các đại diện công ty tàu biển, và những
nhà nhập khẩu - xuất khẩu, về các vấn đề liên quan đến hải cảng, một số đề
xuất đã được đưa ra. Đại diện của Gemadept nói rằng công việc xây dựng các
con đường và nạo vét những lòng sông ở các cảng phía Nam phải được đặt ưu
tiên hàng đầu của Bộ Giao thông và Cơ quan Hàng hải Việt Nam - Tập đoàn
đã xây dựng cảng số 5 và cảng Thị Vải – Cái Mép tại tỉnh miền Nam, Bà Rịa
– Vũng Tàu. Đây là dự án cảng lớn nhất ở miền Nam, sẽ trực tiếp ảnh hưởng
đến nhiều hoạt động sản xuất và xuất - nhập khẩu của nhiều doanh nghiệp.
Song theo Gemadept, một trong những công ty tàu biển lớn nhất Việt Nam,
Bộ Giao thông và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cần phải đẩy mạnh công việc nạo
vét hành lang Cái Mép - Thị Vải.
Hoàn thiện thể chế chính sách:
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện để quản lý nhà nước
bằng luật đối với nền kinh tế xã hội là một yêu cầu khách quan trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hệ thống luật pháp và qui
định cần được xây dựng theo hướng đơn giản, dễ hiểu, tập trung vào các khâu
then chốt để điều chỉnh nhằm nâng cao tính hiệu lực. Thứ nhất, sự ra đời của
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là một bước tiến lớn về tư duy. Tư duy
truyền thống về doanh nghiệp theo thành phần kinh tế đang dần được thay thế
bằng tư duy theo loại hình pháp lý của doanh nghiệp. Xét về mặt hoàn thiện
thể chế kinh tế, việc ban hành và thực thi hai luật này đã hoàn thành quá trình
thống nhất khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp, không còn phân biệt tính chất
sở hữu và thành phần kinh tế. phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ hai, việc
ban hành và thực thi hai luật trên đã xóa bỏ các quy định trước đây của các
địa phương liên quan đến đầu tư; thống nhất được các thủ tục về đầu tư theo
hướng đơn giản, rõ ràng và thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Đây là một bước tiến lớn có tính đột phá trong cải cách hành chính về
thủ tục đầu tư. Nhờ đó, các nhà đầu tư về cơ bản được quyền đầu tư vào tất cả
các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Thứ ba, phân cấp một cách toàn diện
cho UBND cấp tỉnh trong việc trực tiếp quản lý nhà nước về đầu tư đã thực
sự tạo động lực khuyến khích và phát huy tính năng động, sáng tạo của các
địa phương trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư cũng như
xúc tiến đầu tư để phát triển kinh tế địa phương; đồng thời tạo điều kiện để
các bộ tập trung nhiều hơn vào xây dựng và hoàn thiện chính sách, quy hoạch
định hướng thu hút đầu tư phát triểnTuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực thi luật pháp, Chính phủ cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn thi
hành luật và xóa bỏ các qui định về giấy phép không còn phù hợp. Trong năm
2006, Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã kiến nghị
bãi bỏ 42 giấy phép, nhưng vẫn còn 247 loại giấy phép con. Trong Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cũng còn có một số quy định không tương
thích với các quy định trong một số luật khác như Luật Xây dựng, Luật Đất
đai, Luật Bảo vệ môi trường đòi hỏi sớm có những sửa đổi cho phù hợp.
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã tinh giản số lượng các bộ, xóa
bỏ cơ chế bộ chủ quản thông qua cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước,
chuyển sang quản lý đa ngành. Tuy nhiên, quá trình cải tổ phải được tiến
hành theo chiều sâu, phải thực sự chuyển từ nền hành chính cai trị sang phục
vụ nhân dân.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc định hướng, hỗ trợ, tạo dựng môi trường kinh
doanh thông thoáng và cơ chế khuyến khích các nguồn lực đầu tư vào phát
triển kinh tế, quản lý nền kinh tế thông qua các công cụ thị trường (tài chính,
thu nhập, thuế, giá, tỷ giá,…).
Nâng cao tính minh bạch của thể chế, tách biệt rõ ràng hoạt động sản
xuất kinh doanh và quản lý nhà nước. Ổn định các chính sách tài chính, thuế,
xuất nhập khẩu, hải quan; từng bước xây dựng chính phủ điện tử, nâng cao
năng lực của các cơ quan quản lý kinh doanh và hành chính công quyền trong
các hoạt động thực thi luật pháp, cấp phép đầu tư, quản lý đất đai, thuế, xuất
nhập khẩu và hải quan.
Thể chế hoá vai trò của chính quyền địa phương, tập trung vào những
yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả đầu tư và phát triển kinh tế: tính
năng động, tính thân thiện, tính minh bạch và sự cam kết ủng hộ phát triển
kinh doanh. Về thực chất, tính năng động của địa phương chính là thái độ của
chính quyền đối với việc phát triển của các thành phần kinh tế, thể hiện qua
hai khía cạnh: (1) sự phối hợp giữa các cơ quan ở địa phương để tạo điều kiện
cho hoạt động kinh doanh; (2) hợp tác với doanh nghiệp tìm cách pháp giải
quyết các vướng mắc không rõ ràng về văn bản luật pháp, cho phép thực thi
thí điểm và nếu thành công sẽ được thể chế hóa bằng văn bản luật pháp.
Thực hiện quyền tự do kinh doanh và xã hội hóa việc trợ giúp phát triển
kinh doanh thông qua việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi Một
cách hỗ trợ thiết thực là phát triển mạnh các tổ chức cung cấp các dịch vụ
phát triển kinh doanh (tư vấn pháp lý, kế toán, tài chính, đào tạo, quản lý và
thông tin thị trường).
Xây dựng hệ thống thuế minh bạch đảm bảo tính ổn định, đơn giản, dễ
hiểu, dễ vận dụng, có cơ chế kiểm soát thích hợp, giảm thời gian cho các cuộc
thanh tra, làm lãng phí nguồn lực của cơ quan thuế lẫn doanh nghiệp.
Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, tỉ giá hối đoái để bảo đảm giá trị
đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm an ninh tài chính cho hệ thống
tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng trước các cú sốc tỷ giá và lãi suất
đến từ bên ngoài.
Mở rộng cho các tổ chức kinh tế đầu tư ra nước ngoài, tập trung vào các
lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
và cung cấp nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
Những vấn đề còn tồn tại
Về hệ thống pháp luật:
- Tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa theo kịp
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Sự bất cập này thể hiện ở tính chưa đồng
bộ, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật; một số vấn đề
chậm thể chế hóa, như quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà
nước, đăng ký kinh doanh bất động sản, kiểm soát độc quyền.
- Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tình trạng văn bản
hướng dẫn thi hành mâu thuẫn với văn bản luật chưa được khắc phục triệt để.
- Tính cụ thể, minh bạch và dự báo trước của nhiều luật còn thấp.
- Hiệu lực thi hành của một số văn bản pháp luật chưa cao, như Luật cạnh
tranh, Luật đất đai, Chưa qui định rõ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh,
thể chế hóa các hoạt động giao dịch, chống độc quyền, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, bảo hiểm và an sinh xã hội.
- Qui trình xây dựng văn bản pháp luật còn thiếu dân chủ, cứng nhắc, cách
phân công cho các bộ, ngành soạn thảo văn bản pháp luật dễ dẫn đến tình
trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của bộ, ngành.
Về cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường:
- Vận dụng chưa đồng bộ các công cụ quản lý và điều tiết thị trường.
- Năng lực của bộ máy quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiệu
quả nền kinh tế thị trường, thiếu tính chuyên nghiệp và sự tận tâm phục vụ
doanh nghiệp.
Về các ưu đãi thuế quan:
- Khi một công ty chuẩn bị đầu tư ra nước ngoài, họ sẽ tìm hiểu môi trường
đầu tư của cả khu vực, chứ không phải chỉ là một nước. Điều mà các doanh
nghiệp quan tâm là giá thuê đất, nhân công rẻ, thị trường lớn… và một yếu tố
quan trọng nữa là chính sách ưu đãi về thuế. Nhưng Nghị định số
124/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra
đời, trong đó khu công nghiệp, khu chế xuất không được liệt vào đối tượng
được hưởng ưu đãi thuế, điều này rất có thể, các nhà đầu tư sẽ không chọn
Việt Nam.
- Những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp hiện nay cũng có ảnh hưởng phần
nào tới các quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Như đối với trường hợp như
tập đoàn Bosch của Đức trong thời gian gần đây. Tập đoàn này đã có ý định
mở rộng vốn đầu tư từ 73 triệu USD lên 132,6 triệu USD vào năm 2015.
Trước khi mở rộng, tập đoàn này cũng đã phân vân giữa Việt Nam và
Malaysia,sau đó họ đã chọn Malaysia vì có nhiều chính sách và hỗ trợ thuận
lợi hơn.
Đào tạo nguồn nhân lực
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87
triệu người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển
dồi dào. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công
nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong
đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số;
nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân
lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người,
chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2
triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự
xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong
nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được
nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn được chính phủ và cả doanh
nghiệp chú trọng quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay. Về phía
chính phủ, các chính sách giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như trao
học bổng cho những học sinh, sinh viên có kết quả xuất sắc. Đồng thời, chính
phủ cũng khuyến khích các trường Đại học, Cao đẳng, THPT tổ chức những
buổi định hướng nghề nghiệp, định hướng tương lai cho học sinh, sinh viên;
hỗ trợ các trường dạy nghề. Ta có thể thấy trong thời gian vừa qua, bộ Công
thương cũng đã đứng lên tổ chức một số khóa học dạy nghề miễn phí cho đối
tượng lao động hiện đang thất nghiệp, có hoàn cảnh khó khăn góp phần giảm
gánh nặng xã hội đồng thời nâng cao được chất lượng lao động phổ thông.
Trong chính sách thu hút FDI thì vấn đề về nguồn nhân lực luôn được
đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ theo như nhận xét chung, nguồn nhân lực nước ta
dồi dào nhưng chất lượng chưa cao. Lượng đào tạo lao động , công nhân có
bằng cấp, chứng chỉ còn rất hạn chế. Vì vậy , trong các chính sách về nguồn
nhân lực của mình, chính phủ luôn cố gắng tạo điều kiện khắc phục, nâng cao
trình độ tay nghề người lao động. Có thể ví dụ như Hội thi tay nghề thế giới
Wordskills sắp tới diễn ra ở London, năm nay, Việt Nam sẽ đưa những thí
sinh và chuyên gia giàu kinh nghiệm tham gia dự thi ở 12 nghề như Thiết kế
cơ khí, Giải pháp phần mềm cho doanh nghiệp; Điện tử; Thiết kế web…
Theo đề nghị hỗ trợ kỹ thuật của Tổng cục dạy nghề, đơn vị chịu trách nhiệm
về công tác chuẩn bị cho đoàn Việt Nam trong các cuộc thi nghề trong nước
và quốc tế, Hội đồng Anh đã mời hai chuyên gia Jennie James và Matthew
James Bell từ dự án Kỹ năng và Cơ hội nghề nghiệp Vương quốc Anh đến
làm việc với các chuyên gia Việt Nam trong chương trình hội thảo tập huấn
kéo dài hai ngày (29 và 30-8). Jennie James là một nhà quản lý và chuyên gia
đào tạo về thiết kế web còn Matthew James Bell là nhà quản lý đào tạo nổi
tiếng thế giới về thiết kế cơ khí CAD cho đội tuyển thi nghề của Anh. Đây sẽ
là cơ hội lớn để nâng cao trình độ tay nghề cho Việt Nam.
Một trong những giải pháp được Bộ Giáo dục và đào tạo đưa ra giải
quyết vấn đề thiếu giáo viên là đề án đào tạo 20.000 , căn cứ vào Nghị quyết
số14/2005NQ-CP ngày 02-11-2005 của∗tiến sỹ Chính phủ về “đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”.
Những vấn đề còn tồn tại
“Thừa thầy , thiếu thợ”
Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa
được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi
đến chốn. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất, “thừa thầy, thiếu thợ”. Tỷ lệ đào tạo đại học – trung cấp –
dạy nghề của nước ta là 1-1.3-0.9 trong khi trên thế giới là 1-4-10. Chúng ta
bị thiếu trầm trọng nguồn lao động, công nhân có tay nghề bằng cấp gây khó
khăn cho các doanh nghiệp, đặt biệt là doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư
mà không có nguồn nhân lực phù hợp.
Vấn đề chất lượng giảng dạy
Về chương trình giảng dạy: Nhiều học giả Việt Nam sống trong nước và ở
ngoài nước đã giới thiệu nhiều mô hình khác nhau của các nước có nền giáo
dục tiên tiến (Phần Lan, Anh, Đan Mạch, Bỉ, New Zealand, Úc…). Chương
trình giáo dục được thay đổi thường xuyên và liên tục trong vài năm trở lại
đây. Song chương trình vẫn còn những bất cập gây tranh cãi, chưa thống nhất.
Về người dạy ở nước ta: Gần đây có nhiều tiếng nói trên báo chí thẳng thắn
phê phán tình trạng chất lượng thầy dạy nhìn chung trong cả nước là thấp;
không hiếm trường hợp thầy, cô giáo đứng nhầm bục dạy; dạy theo giáo án
tủ, giáo án mượn; dạy theo theo lối mài chữ, chép chữ; tình trạng các trường
thiếu thầy…
Chất lượng nhà trường nước ta: Nhiều trường, nhiều trường lớn và đông, chất
lượng nhìn chung thấp. Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam
thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng
nguồn nhân lực này lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,
điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế – xã hội Việt Nam.
Tình trạng sức khỏe nguồn nhân lực
Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trước mắt và
lâu dài cần phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức
dân. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ
còi cọc, ốm yếu. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân
không được bồi dưỡng. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác
như chính sách xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách xây
dựng cơ sở hạ tầng…. Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một
cách cơ bản.
Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ:
Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ
những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành
phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì,
nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm
trung gian, những nguyên liệu sơ chế.
Những hỗ trợ cho ngành từ phía Nhà nước như ban hành các quyết
định về phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như:
- Quyết định của bộ công nghiệp số 34/2007/qđ-bcn ngày 31 tháng 7 năm
2007 phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm
nhìn đến năm 2020
-Vào cuối tháng 4/2009, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã ấn
nút khởi công dự án Khu công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản số 1 tại
Quế Võ, Bắc Ninh. Đây là khu công nghiệp hỗ trợ đầu tiên của Việt Nam.
-Tháng 7/2010, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư khu công
nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội và bổ sung khu công nghiệp này vào Danh mục
các khu công nghiệp dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và định
hướng 2020.
-Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính quy định tại quyết định
số 12/2011/qđ-ttg ngày 24/2/2011 của thủ tướng chính phủ về chính sách phát
triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ
-Quyết định 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 24/2/2011 là một cú hích
mới cho ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.
-Triển khai thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Nhật
Bản về việc Nhật Bản sẽ hỗ trợ Việt Nam phát triển hơn nữa ngành công
nghiệp phụ trợ. Ví dụ như dự án phát triển công nghiệp phụ trợ tại khu vực
miền Nam Việt Nam đã được khởi động từ năm 2009-2013.
-Các chương trình hỗ trợ từ cục xúc tiến thương mại và đầu tư .
VD: Triển lãm hỗ trợ hơn 8.000 doanh nghiệp chế tạo và sản xuất phụ kiện
diễn ra từ 15 - 17/9 do Trung tâm Xúc tiến Thương mại Hà Nội (Sở Công
thương Hà Nội) phối hợp với Công ty Reed Tradex (Thái Lan) và Tổ chức
Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO)
Thực trạng một số ngành
Ngành ô tô:
Theo lộ trình, các nhà sản xuất ôtô trong nước cần phải tăng dần tỷ lệ
nội địa hóa nhằm từng bước phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam. Tuy nhiên,
cho đến nay, phần lớn các nhà sản xuất trong nước chưa chú trọng đến việc
này mà thường chỉ nhập linh kiện rồi tiến hành lắp ráp, khiến chi phí sản xuất
tăng cao. Sự yếu kém của CNPT trong ngành sản xuất ô tô đang là trở lực lớn
để có thể phát triển ngành công nghiệp non trẻ này. Tỷ lệ nội địa hoá cũng rất
thấp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe cá nhân. Hơn 10 năm qua, tỷ
lệ nội địa hoá của các DN ô tô FDI chỉ từ 5%-10%. Nhiều DN chỉ tìm được
các sản phẩm nội địa như dây điện, khung ghế ngồi, bàn đạp chân ga, chân
phanh và ăng ten (dùng cho radio trong xe), còn lại tất cả phải nhập khẩu từ
bạt, da, mút để làm ghế cho đến cả ốc vít
Ví dụ : Ngay như Toyota, năm 2005 nhập khẩu linh kiện trị giá 460 triệu
USD trong khi giá trị linh kiện sản xuất trong nước chỉ đạt 2,3 triệu USD.
- Ngành xe máy:
Có lẽ cho đến nay chỉ có công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực sản xuất xe
máy là phát triển mạnh nhất, với khả năng đáp ứng tới 75% các linh phụ kiện
tại chỗ cho các DN lắp ráp . Việt Nam hiện có trên 230 doanh nghiệp sản xuất
linh kiện, phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó
có hơn 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa đối với
một số loại xe máy sản xuất tại Việt Nam đạt mức khá cao (từ 40-70%) do
trong những năm gần đây nhu cầu xe máy tăng đột biến tạo nên thị trường
rộng lớn cho CNPT. Tuy nhiên, các linh phụ kiện sản xuất trong nước chủ
yếu do các liên doanh sản xuất xe máy tự sản xuất hoặc mua từ các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài khác. Số doanh nghiệp thuần túy trong nước có đủ
năng lực cung cấp linh phụ kiện cho lắp ráp xe máy rất ít. Đơn cử, trong hàng
trăm doanh nghiệp nội địa, hãng Honda đến năm 2003 chỉ chọn ra được 13
doanh nghiệp có khả năng cung cấp đủ chất lượng.
Những hạn chế còn tồn tại
- Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực này còn rất
hạn chế. Các doanh nghiệp này chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thuộc sở hữu nhà nước, vẫn còn thói quen bao cấp nên rất thụ động trong việc
tìm kiếm khách hàng và "ngại" đổi mới. Các doanh nghiệp cũng chưa nhận
thức được đúng vai trò của mình nên không cạnh tranh để phát triển. Ví dụ:
Hiện Việt Nam có tới 50 doanh nghiệp lắp ráp ôtô, nhưng chỉ có trên 60
doanh nghiệp cung cấp linh kiện, quá thấp so với con số 385 doanh nghiệp ở
Malaixia và 2.500 doanh nghiệp ở Thái Lan. Theo tính toán, một doanh
nghiệp ôtô phải cần tối thiểu 20 nhà cung cấp các loại linh kiện khác nhau.
Nhưng trên thực tế, thời gian qua, các doanh nghiệp lắp ráp ôtô chỉ có 2-3 nhà
cung cấp linh kiện trong nước….
- Thứ hai, chất lượng của các sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất trong
ngành CNPT rất thấp và kém ổn định. Một mặt, các sản phẩm không đáp ứng
yêu cầu về chất lượng của nhà cung cấp. Sản phẩm CNPT chủ yếu do doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc do các hộ kinh doanh cá thể sản xuất, chất
lượng kém và giá thành cao (vì công nghệ lạc hậu, khó khăn về vốn, trình độ
quản lý kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các DNNN. Mặt khác,
ngay cả trong trường hợp đáp ứng, chất lượng của các lô hàng đều bị giảm
dần sau các lần cung ứng. Chính điều đó khiến các công ty e ngại đối với các
nhà cung cấp của Việt Nam.
- Thứ ba, tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp của Việt Nam là rất
thấp. Hiện nay ở Việt Nam, một số ngành như dệt may, da giày, điện tử đều
phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Do vậy, họ luôn phải phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu nhập khẩu, không thể chủ động được hoạt động sản xuất
kinh doanh, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt vỏn vẹn
10% - một con số quá thấp so với các nước có ngành CNPT phát triển khác.
Theo Báo cáo tháng 6/2006 của VDF, tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất
Nhật Bản tại Việt Nam mới chỉ đạt 22,6% vào năm 2003, trong khi ở
Malaixia và Thái Lan tỷ lệ này là trên 45%. Còn theo nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), 32/80 doanh nghiệp FDI
khi được hỏi đều cho rằng việc cung ứng nguyên vật liệu và các hoạt động
kinh tế phụ trợ của Việt Nam rất kém. Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối
hợp với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, nhưng rất khó có thể tìm được nhà cung cấp thích
hợp. Chính sách gần đây về việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện để ép các công
ty lắp ráp đồ điện gia dụng ( tivi, máy giặt… ) phải tăng cường nội địa hoá,
theo một số chuyên gia kinh tế, là một biện pháp chưa được cân nhắc thận
trọng. Mặc dù mục tiêu của chính sách về lâu dài là đúng vì muốn nhanh
chóng tạo điều kiện xây dựng các ngành phụ trợ, tuy nhiên, tình hình hiện nay
cho thấy là nên làm ngược lại để giữ chân các công ty đã đầu tư lắp ráp ( đối
phó trước thách thức AFTA ) thực hiện nhập khẩu tự do, miễn thuế các linh
kiện bộ phận lắp ráp để giảm giá thành sản phẩm, duy trì khả năng cạnh tranh
với các nước ASEAN khác.
- Thứ tư, chưa có sự triển khai các chính sách phù hợp và sự hỗ trợ kịp thời,
đúng mức. Quá trình phát triển CNPT ở Việt Nam chưa diễn ra một cách có
hiệu quả. Doanh nghiệp trong nước đã có nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của thị
trường. Do vậy, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và các
công ty trong nước. Mặc dù, các doanh nghiệp ngoài nhà nước ra đời khá
nhiều sau Luật Doanh nghiệp 2000, trong đó có lẽ có khá nhiều doanh nghiệp
thuộc các ngành CNPT, nhưng có nhiều báo cáo cho thấy, các doanh nghiệp
này đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn và công nghệ.
III. Kiến nghị một số giải pháp
Về hạ tầng cơ sở
Vấn đề đầu tiên phải giải quyết là tập trung quản lý nguồn vốn đang có
đầu tư cho cơ sở hạ tầng.giảm thiểu tham nhũng cùng với những chiến lược
xây dựng phát triển đồng bộ khoa học. Có như vậy chất lượng kết cấu cơ sở
hạ tầng mới được nâng lên, đây là điều kiện quan trọng tác động đến quyết
định đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài, cũng như các doanh nghiệp
trong nước.
Sự đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng như hệ thống điện nước đường xá tại các
khu kinh tế khác nhau cũng cần sự quan tâm có chọn lọc của chính phủ.Cần
chú tâm phát triển những khu kinh tế trọng điểm,những vùng kinh tế biên giới
để có thể tận dụng hết những nguồn lực như lao động,nguyên vật liệu tại địa
phương, tăng cường thu hút FDI đầu tư theo định hướng phát triển của quốc
gia.
Về thể chế chính sách
Hoàn thiện hệ thông pháp luật, đặc biệt là luật Đầu tư , tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp có vốn FDI đầu tư vào nước ta.
Tạo cơ chế hành chính thông thoáng, thủ tục giản đơn và nhanh chóng sẽ
là một điểm cộng trong mắt các doanh nghiệp nước ngoài khi có ý định
đầu tư vào Việt Nam. Đây cũng là quy luật tất yếu trong quá trình phát
triển kinh tế, cần thay đổi để phù hợp với cơ chế chung của thế giới.
Minh bạch các thông tin, số liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng
như website, truyền thông điện tử, thông tư,… để các doanh nghiệp trong
và ngoài nước được tiếp cận một cách nhanh chóng, dễ dàng. Chính sách
này sẽ khắc phục vấn đề thông tin bị chậm, không đầy đủ hay không rõ
ràng trong môi trường kinh doanh, điều này tác động lớn đến quyết định
đầu tư của doanh nghiệp.
Về đào tạo nguồn nhân lực
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của
nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo
đột phá “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Thứ nhất: xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 579/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời
kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng
quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển
chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các
biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi
trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố
quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát
triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị
của con người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần
học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã
hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được tiếp tục phát huy
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại
hội XI đã đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu
cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri
thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao
động cao.
Thứ tư, cải thiện và tăng cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng
rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và trên thế giới
Thứ năm, cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt
Nam.
Thứ sáu, cần đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực
Việt Nam.
Về phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
Chính phủ cần cải thiện về mặt hành chính ( bỏ giấy phép con, tinh
giản thanh tra,, kiểm tra ), hỗ trợ về vốn và thông tin… để thúc đẩy các xí
nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh vực công nghiệp phụ trợ phát triển. Cũng phải
có biện pháp để các công ty nhà nước trong lĩnh vực này tăng khả năng cạnh
tranh bằng các biện pháp tích cực, tiếp nhận sự chi viện về công nghệ từ nước
ngoài, liên doanh, hợp tác với các công ty nước ngoài, nhất là với các xí
nghiệp nhỏ và vừa của Nhật – những công ty có trình độ kỹ thuật cao và có bề
dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Đây cũng là chính sách cần thiết để tăng
khả năng cạnh tranh của các công ty trong nước với những xí nghiệp của
Trung Quốc sẽ đầu tư vào nước ta trong thời gian tới.
Để phát triển các doanh nghiệp trong nước sản xuất phụ tùng và
nguyên liệu, cũng như thu hút các công ty nước ngoài vào lĩnh vực này,
Chính phủ cần có quy hoạch tổng thể cho các ngành công nghiệp chủ lực và
phải tiến hành các giải pháp quan trọng sau :
- Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển Công nghiệp phụ trợ.
- Xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các
trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp
phụ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thực hiện các biện pháp ưu đãi cho Công nghiệp phụ trợ ( hỗ trợ huy
động vốn, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin
công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm, ưu đãi thuế suất ).
- Thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp phụ trợ.
- Cần có chương trình hành động cụ thể, kế hoạch chi tiết để triển khai đảm
bảo mục tiêu, tiến độ
LỜI KẾT
Trong bối cảnh hội nhập WTO, Việt Nam nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu
của nền kinh tế thế giới. Mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đồng
nghĩa với việc tăng thêm áp lực cạnh tranh, áp lực phát triển. Đứng trước
hoàn cảnh đó, chính phủ phải luôn hoạch định các chính sách phù hợp, tìm
kiếm nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trong đó, nguồn vốn FDI là một nguồn
vốn có tác động lớn đến quá trình phát triển, cần được đẩy mạnh thu hút.
Chính phủ đã thực hiện rất nhiều biện pháp như nâng cấp cơ sở hạ tầng,
đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện thể chế pháp lý,…và đã có được những
thành tựu đáng kể. Việt Nam đã từng đứng vị trí thứ 6 trong số 10 nước hấp
dẫn nhất về dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2007-2009
(theo tổ chức về Phát triển và Thương mại Liên hợp quốc).
Tuy nhiên những chính sách này cũng bộc lộ những hạn chế cần xem xét
và giải quyết. Nếu chúng ta khắc phục được những hạn chế này sẽ là tiền đề
thuận lợi cho quá trình phát triển trong tương lai, giúp Việt Nam tiền xa hơn
trong bước đường phát triển của mình./.
♥
Xin chân thành cảm ơn!
♥
Tài liệu tham khảo
/> />mang-tam-chien-luoc.aspx
/> /> /> />len-dang-ky-let-det.htm
/>san-nha.htm
/>%C3%BAt-FDI-v%C3%A0o-Vi%E1%BB%87t-Nam
/>dtnn