Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn thạc sĩ Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quy Nhơn (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 94 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CN QUY NHƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đà Nẵng – Năm 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CN QUY NHƠN
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60.34.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Liêm
Đà Nẵng – Năm 2012

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng NHNN
CNV : Công nhân viên
CTCP : Công ty cổ phần
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DPRR : Dự phòng rủi ro
GHTD : Giới hạn tín dụng
HĐQT : Hội đồng quản trị
KHCN : Khách hàng cá nhân
KHDN : Khách hàng doanh nghiệp
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHNT VN : Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
NHQD : Ngân hàng quốc doanh
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước

QTRRTD : Quản trị rủi ro tín dụng
RRTD : Rủi ro tín dụng
TCTD : Tổ chức tín dụng
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TSĐB : Tài sản đảm bảo
TW : Trung ương

DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình huy động vốn qua 3 năm Error:
Refere
nce
source
not
found
2.2 Tình hình sử dụng vốn qua 3 năm Error:
Refere
nce
source
not
found
2.3 Dư nợ cho vay theo ngành kinh tế năm 2010 Error:
Refere
nce
source
not
found
2.4 Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế Error:

Refere
nce
source
not
found
2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Error:
Refere

2.6 Bảng phân loại nợ Error:
Refere
nce
source
not
found
2.7 Tình hình trích lập dự phòng rủi ro qua 3 năm Error:
Refere
nce
source
not
found

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số hiệu hình vẽ Tên hình vẽ Trang
2.1
Tình hình vốn huy động trên địa bàn tỉnh Bình
Định năm 2010
Error:
Refere
nce
source

not
found
2.2
Tình hình dư nợ cho vay trên địa bàn tỉnh Bình
Định năm 2010
Error:
Refere
nce
source
not
found
2.3 Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế năm 2010
Error:
Refere
nce
source
not
found
2.4 Cơ cấu loại cho vay từ năm 2008 đến năm 2010
Error:
Refere
nce
source
not
found
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu hướng tự do hoá trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội cho các NHTM
mở rộng hoạt động về mặt địa lý, giúp các ngân hàng hạn chế được những tổn

thương do những thay đổi điều kiện kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa
các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu cũng tạo ra một thị trường tài chính rủi
ro hơn. Rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi
hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn đời sống kinh tế, xã hội của con người. Vì vậy,
chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều rất bình thường, không tránh khỏi,
nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay không có rủi ro, mà ở chỗ phải phòng
ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp nhận được. Kinh doanh tiền tệ ở các NHTM
càng không phải là một ngoại lệ, càng khó tránh được rủi ro. Trong bối cảnh đó,
không một ngân hàng hay tổ chức tài chính nào có thể tồn tại lâu dài mà không có
hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống quản trị nói chung và
quản trị rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối với hoạt động ngân hàng.
Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM đã cho thấy, rủi ro đối với
NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại rủi ro như rủi ro tín dụng,
rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái … trong đó rủi ro tín dụng chiếm tỷ
trọng lớn nhất. Vì vậy, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng là góp phần giảm
thiểu rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM.
Sau nhiều sự kiện đổ vỡ xảy ra cho ngành ngân hàng và gần đây là hàng loạt
vụ việc lừa đảo ngân hàng chiếm đoạt hàng tỷ đồng, chứng tỏ công tác quản trị rủi
ro tín dụng tại các ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, việc chọn đề
tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam –
Chi nhánh Quy Nhơn” cho luận văn tốt nghiệp là rất cần thiết cho việc hoàn thiện
lý luận chuyên môn của bản thân, tiếp cận nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro tín
dụng và bước đầu đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín
dụng tại Vietcombank Quy Nhơn, góp phần đẩy mạnh sự phát triển hoạt động tín
- 2 -
dụng trong điều kiện hội nhập.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài nghiên cứu muốn hướng đến các mục tiêu:
- Hệ thống hoá lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM.
- Phân tích thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank Quy

Nhơn.
- Trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, đề tài nêu ra một số giải pháp hoàn
thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng có thể áp dụng trong thực tiễn tại
Vietcombank Quy Nhơn nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở yêu cầu và với
khả năng nghiên cứu, luận văn lựa chọn đối tượng nghiên cứu chính là “Quản trị rủi
ro tín dụng”.
Đồng thời, nhằm tiến tới các kết quả nghiên cứu đạt yêu cầu, luận văn tiến
hành nghiên cứu các đối tượng bổ trợ khác như: “Rủi ro tín dụng, hậu quả, nội dung
và phương pháp quản trị rủi ro và thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
Vietcombank Quy Nhơn”.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu trên các mặt:
- Nội dung và phương pháp quản trị rủi ro tín dụng đối với các NHTM.
- Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank Quy Nhơn.
- Chủ yếu đề cập tới việc hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng của
Vietcombank Quy Nhơn.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính,
ngân hàng, đề tài nghiên cứu đã được thực hiện trên cơ sở:
- Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại
Vietcombank Quy Nhơn.
- 3 -
- Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, bằng các phương
pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản trị
rủi ro tín dụng của Vietcombank Quy Nhơn, và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác quản trị rủi ro tín dụng.
5. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Quy Nhơn.
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Quy Nhơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng của hệ
thống NHTM nói chung và Vietcombank Quy Nhơn nói riêng. Luận văn đi sâu
phân tích thực trạng kết hợp với các nghiên cứu, lý luận, tư duy của nhiều nhà
nghiên cứu, chuyên gia ngân hàng cũng như kinh nghiệm bản thân trong quá trình
tham gia hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng để đưa ra các ý kiến, nhận định, giải
pháp, nhằm đảm bảo các chuẩn mực trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
- 4 -
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 Rủi ro tín dụng
1.1.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn
huy động để cấp tín dụng.
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các dịch vụ khác.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho

khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.2 Khái niệm rủi ro tín dụng
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư.
Thông thường đối với các ngân hàng trên thế giới nó mang lại 2/3 phần thu nhập,
còn ở Việt nam là 60 đến 80 % thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy mang lại
nhiều thu nhập nhưng trong lĩnh vực này nếu gặp rủi ro thì hậu quả lại rất lớn.
Theo A.Saunders và H.Lange thì “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi
ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập
dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ
về số lượng và thời hạn”.
- 5 -
Còn với Timothy W.Koch cho rằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn
của thu nhập thuần và giá trị của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh
toán hay thanh toán trễ
h

n”.
Tuy có rất nhiều các khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng nhưng có thể
tổng hợp lại như sau:
“Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra
khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách
hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng
cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, thu nhập dự tính mang lại từ các tài
sản có sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt
giá trị và thời
h

n”.
1.1.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

Có bốn nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro tín dụng: đó là nguyên nhân
khách quan từ môi trường bên ngoài, nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân
do chính ngân hàng và nguyên nhân từ tài sản đảm bảo tín dụng tạo nên.
1.1.3.1 Nguyên nhân khách quan môi trường bên ngoài
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng cho vay không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách
hàng mà do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột
ngột, khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và
ngân hàng cho vay. Bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau:
Do sự thay đổi chính sách của Chính phủ
Nước ta đang thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
thị trường. Do đó phải tuân thủ và chấp nhận sự biến động theo quy luật của nền
kinh tế thị trường. Mỗi khi nền kinh tế biến động lên, xuống thì lập tức Chính phủ
phải đưa ra các chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn chế
ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế đất nước. Các chính sách của Chính phủ thường xuyên
quan tâm và có sự thay đổi kịp thời là:
- 6 -
+ Chính sách tài chính: Chính sách này liên quan đến cơ chế thu chi ngân
sách Chính phủ.
+ Chính sách tiền tệ: Chính phủ sử dụng các công cụ như: lãi suất chiết khấu,
dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… để điều chỉnh mức cung ứng tiền tệ khi
có biến động xảy ra.
+ Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi chính phủ
điều chỉnh sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp cho các ngân hàng thương mại, thường là
những ảnh hưởng không tích cực cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên nếu ngân hàng thương mại nắm bắt được thông tin kinh tế kịp thời
thì sẽ hạn chế được rủi ro xảy ra.
Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và

lành mạnh thì môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận
lợi. Ngược lại nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị
lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản… Kinh tế xã hội kém ổn định
dẫn đến kinh doanh gặp nhiều khó khăn, ngân hàng cho vay gặp rủi ro.
Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng hoạt động sản xuất
kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu tố
khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm soát của
con người. Vì vậy khi có thiên tai địch hoạ xảy ra khách hàng cùng các ngân hàng
cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh doanh không có nguồn
thu … Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẻ rủi ro với
khách hàng của mình. Ở Việt Nam do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự
nhiên được coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng cho vay khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế.
Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong một nước biến động chịu ảnh hưỏng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro
- 7 -
trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh
tế trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất.
Sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của Chính phủ
cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động cho vay của ngân hàng cho
vay.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay phụ thuộc rất nhiều thói quen, truyền thống,
tập quán của người dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế mở
rộng hoạt động cho vay của các ngân hàng cho vay.
Tất cả những nguyên nhân khách quan trên nếu không được dự báo, và có
biện pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh
và điều kiện kinh doanh của ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn.
Khi khách hàng gặp phải rủi ro do nguyên nhân khách quan gây nên, họ

không còn đủ khả năng thực hiện cam kết trong hợp đồng cho vay thì việc tốt nhất
là ngân hàng cho vay có thể làm là giúp đỡ hỗ trợ khách hàng để khách hàng khôi
phục lại hoạt động kinh doanh tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng cho vay.
1.1.3.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng
Các yếu tố chủ quan từ phía bên đi vay như: Khả năng kinh doanh yếu kém
hay bên đi vay có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… cũng gây nên các tổn thất
cho các ngân hàng cho vay. Trường hợp này nếu bên cho vay (ngân hàng cho vay)
phát hiện ra sớm thì rủi ro có thể được ngăn chặn.
Hiện nay cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bên đi vay thường
gặp rủi ro sau:
-Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào tăng
cùng với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi nguồn dự thu dự tính
của khách hàng, như vậy việc trả nợ cho các ngân hàng cho vay sẽ gặp nhiều khó
khăn.
- Do thị trường đầu ra: Thị trường đầu ra nếu có biến động phức tạp, giá cả
giảm thấp cũng làm nguồn thu của khách hàng không đảm bảo. Ngoài ra, sự thay
đổi thị hiếu tiêu dùng, cung vượt quá cầu, hoạt động marketing yếu kém… cũng gây
- 8 -
nên tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho các ngân hàng
cho vay.
- Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có hay thu
nhập của khách hàng nhỏ, khách hàng sẽ không có khả năng tự vực dậy khi gặp khó
khăn vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
Ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến ý thức trả nợ của bên đi vay
nhiều khi chưa tốt, nhiều đối tượng khách hàng sau khi nhận được tiền vay rồi bỏ
trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng cho vay.
Những tiêu chí trên cùng với những tiêu chí định lượng để ngân hàng xếp
hạng khách hàng.
1.1.3.3 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận ngân hàng nên

khi cho vay quá chú trọng về lợi tức.
Do ngân hàng tăng trưởng tín dụng mà không có sự kiểm soát chất lượng tín
dụng: bỏ bớt các điều kiện tín dụng, thực hiện cho vay không đúng quy định, thiếu kiểm
soát quản lý tín dụng trước, trong và sau khi cho vay.
Phương tiện cho vay chưa được cơ cấu hợp lý: số lượng vốn vay thừa hoặc thiếu
so với nhu cầu dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, kỳ hạn trả
nợ không phù hợp với dòng tiền thu được của khách hàng hoặc dòng đời dự án, thời hạn
rút vốn, tài sản đảm bảo
Do ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng: ngân hàng dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán từ
đó sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều hoặc
ngân hàng dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn.
Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng nên không dự đoán được rủi ro đối với
một khoản vay.
Ngân hàng đánh giá không đúng về đảm bảo (về tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
về người bảo lãnh).
- 9 -
Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém
dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay
vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong
trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến
khi giám sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm
chất đạo đức của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng
phải không những có trình độ mà còn phải có đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật
chất, nhiều cán bộ cho vay đã sa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức,
làm trái quy định, móc ngoặc với khách hàng, gây tổn thất to lớn với ngân hàng cho
vay.
Do sự cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn
các ngân hàng khác.
1.1.3.4 Xuất phát từ phía tài sản đảm bảo

Do sự biến động giá trị tài sản đảm bảo theo chiều hướng bất lợi (phụ thuộc vào
đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản đó). Có 3 yêu cầu đối với các
bảo đảm tài sản là: (1) dễ được định giá; (2) dễ cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp
pháp; (3) dễ tiêu thụ hay thuận tiện.
1.1.4 Hậu quả rủi ro tín dụng
1.1.4.1. Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí giảm lợi nhuận
Khi xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên là các ngân hàng phải
tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm mất thời gian của cán bộ tín
dụng, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để thu hồi nợ. Nếu các khoản nợ này có
liên quan đến nhiều bên thì ngân hàng phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công
việc thương lượng, gặp gỡ các bên trong quá trình xử lý nợ. Đây là những chi phí
trước mắt mà các ngân hàng phải bỏ ra. Bên cạnh đó các ngân hàng phải bỏ ra chi
phí cơ hội rất lớn: Các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm
mất đi các khoản đầu tư khác của ngân hàng, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn
của nợ quá hạn với tâm lý của cán bộ cho vay. Nợ quá hạn phát sinh làm cho cán bộ
tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới đồng
- 10 -
thời còn làm cho cán bộ tín dụng ngần ngại mở rộng hoạt động tín dụng… Tất cả
những vấn đề này làm giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân
hàng, từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.4.2. Rủi ro làm giảm uy tín của các ngân hàng
Các ngân hàng khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị giảm
sút trên thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
1.1.4.3 Rủi ro tín dụng còn gây ra tổn thất gián tiếp cho các ngân hàng khác
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên
quan đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền
kinh tế. Vì vậy, ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ
điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù
chỉ ở một ngân hàng trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản
ứng dây chuyền” đe doạ đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng,

gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng
của ngân hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính
của ngân hàng thương mại, là điều kiện cần phát triển cho nền kinh tế, việc các
ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống
ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
1.2 Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm
Các nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng đều cho rằng đối
với các NHTM, quản trị kinh doanh chính là quản trị rủi ro, và quản trị rủi ro chính là
trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM. Quản trị rủi ro: hiểu một
cách đơn giản chính là quá trình các NHTM áp dụng các nguyên lý, các phương
pháp và kinh nghiệm quản trị kinh doanh của mình để xác định, định lượng, quản lý
và kiểm soát rủi ro trong hoạt động để:
- Bảo vệ ngân hàng trong việc tránh khỏi những thất bại, mất mát không dự tính
trước.
- 11 -
- Bảo đảm mức độ rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu không vượt quá khả
năng về vốn và tài chính.
- Bảo đảm không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và khả năng tồn tại của
ngân hàng.
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các
chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,
hiệu quả và phát triển bền vững; Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và
giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu,
giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong
ngắn hạn và dài hạn của NHTM.
1.2.2 Mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng gắn liền với quản trị và kinh doanh tín dụng, một
trong những hoạt động chủ đạo của NHTM. Quản trị rủi ro tín dụng nhằm đạt các

mục tiêu:
- Đạt kết quả kinh doanh cao trong giới hạn rủi ro có thể giám sát, có thể
chịu đựng được.
- Thực hiện đúng các quy định của Nhà nước, quy định của Pháp luật.
- Đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững trong điều kiện
thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
Nói một cách cụ thể hơn thì quản trị rủi ro tín dụng nhằm vào việc hạ thấp rủi
ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn cho kinh doanh của mỗi NHTM bằng các chính
sách, các biện pháp quản lý, giám sát các hoạt động tín dụng khoa học và hiệu quả.
1.2.3 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm
ẩn nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng
Hoạt động kinh doanh của các NHTM bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Nhiều ý
kiến cho rằng các NHTM cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro
lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro
có thể chấp nhận được. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro gánh chịu là
- 12 -
hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
Nói một cách khác, hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín của
chính ngân hàng để có thể thu hút nguồn vốn huy động và dùng năng lực
quản trị
rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng để sử dụng nguồn vốn huy
động được và
phát triển các dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và
các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng.
1.2.3.2 Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan
mang đến rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên ngân hàng không thể tránh khỏi rủi
ro. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp

rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả
năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy, hiệu
quả kinh doanh của các NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro. Khi rủi ro quá lớn
đến mức các NHTM mất khả năng thanh toán, khi đó sẽ dẫn đến tình trạng phá sản.
1.2.3.3 Quản trị rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng của các NHTM
Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp
lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản
trị
NHTM cần được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro, cung cấp những
thông
tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm
soát nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Theo đó, nhiều ý kiến khẳng định: “quản trị rủi ro là nghiệp
vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống còn” của một NHTM”.
1.2.4 Nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng
Các nguyên tắc cần phải thấm nhuần trong quản trị rủi ro tín dụng tại một
ngân hàng bao gồm:
- 13 -
1.2.4.1 Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Một ngân hàng cần phải quyết định và xác định càng rõ càng tốt mức độ rủi
ro mà ngân hàng đó chấp nhận. Ví dụ: một ngân hàng cho vay với tài sản đảm bảo
là bất động sản thế chấp lần đầu và với một tỷ lệ thấp giữa nợ vay và giá trị tài sản
thế chấp sẽ chấp nhận một mức độ rủi ro hoàn toàn khác so với một ngân hàng
chuyên kinh doanh các sản phẩm phái sinh mới với số lượng lớn.
1.2.4.2 Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
Ngân hàng cần phải có đầy đủ các hệ thống để xử lý các sản phẩm và dịch vụ
ngân hàng đó cung cấp và để có thể đo lường và kiểm soát các rủi ro liên quan. Các
hệ thống cần có phải được đánh giá như là một phần của quy trình đánh giá một sản
phẩm mới và phải được đánh giá lại theo định kỳ.

1.2.4.3 Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung và khả năng đáp ứng của Ngân
hàng
Trên cơ sở mức độ rủi ro mà một ngân hàng có thể chấp nhận, ngân hàng cần
xác định càng rõ càng tốt những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đó cung cấp. Ngân
hàng đó cũng cần có các cơ chế để đảm bảo rằng bất cứ một sản phẩm mới nào
cũng phải trải qua một quy trình đánh giá chính thức để xem liệu sản phẩm đó có
phù hợp với chiến lược và mức độ rủi ro mà ngân hàng chấp nhận hay không. Trong
trường hợp này, ngân hàng đó cũng cần xem xét các vấn đề tác nghiệp như hiệu quả
kinh tế hay liệu ngân hàng có đủ nguồn lực cần thiết về khả năng tài chính, thời
gian cần thiết, năng lực về mặt kỹ thuật để triển khai hiệu quả sản phẩm đó.
1.2.4.4 Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt
Một ngân hàng cần phải đảm bảo rằng nhân viên của mình có đủ kiến thức
để quản lý tất cả các sản phẩm và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cũng như các loại
rủi ro riêng biệt gắn liền với chúng. Kiến thức này cần phải được trang bị cho nhân
viên tất cả các cấp, và không nên chỉ tập trung vào bộ phận giải quyết những sản
phẩm và dịch vụ đang đề cập. Cụ thể, Hội đồng quản trị và ban điều hành cấp cao
luôn luôn phải hiểu rõ và đầy đủ về hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó cũng
như có sự phân cấp xử lý rõ ràng cho các nhân viên ngân hàng.
- 14 -
1.2.4.5 Nguyên tắc xây dựng hệ thống đầy đủ để đo lường, kiểm soát rủi ro
Một ngân hàng cần phải có đầy đủ các hệ thống để xử lý các dịch vụ ngân
hàng đó cung cấp và để có thể đo lường và kiểm soát các rủi ro liên quan. Các hệ
thống không chỉ bao gồm hệ thống công nghệ thông tin, mà còn bao gồm các
phương thức tổ chức và hành chính.
1.2.5 Mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng
Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro, và vì
vậy tất cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường rủi ro. Do
đó cần thiết phải có một khái niệm rủi ro theo quan điểm lượng và phải xây dựng
công cụ để đo lường nó. Có nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng.
Các mô hình này rất đa dạng bao gồm các mô hình định lượng và mô hình định

tính. Các mô hình này không loại trừ lẫn nhau nên ngân hàng có thể sử dụng nhiều
mô hình để phân tích đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng.
1.2.5.1 Mô hình định tính
Đối với mô hình này ngân hàng cần đề cập tới 3 yếu tố sau:
* Yếu tố 1: Phân tích tín dụng: Đối với mỗi đơn xin vay, cán bộ tín dụng cần
phải trả lời được 3 câu hỏi cơ bản sau:
- Khách hàng vay có thể tín nhiệm và biết họ như thế nào? Khách hàng có
thiện chí trả nợ khi khoản vay đến hạn không? Điều này liên quan đến việc nghiên
cứu chi tiết tiêu chí 6C của khách hàng là: Tư cách (character), Năng lực
(Capacity), Thu nhập (Cash), Tài sản thế chấp (Collateral), Điều kiện (Conditions),
và kiểm soát (Control). Tất cả các chi tiết này phải được đánh giá tốt, thì khoản vay
mới được xem là khả thi.
- Hợp đồng tín dụng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ, khách
hàng có khả năng hoàn trả nợ vay mà không cần đến một sức ép nào? Một hợp đồng
tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của ngân hàng bằng cách quy định
những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay, nếu các hoạt động này đe doạ
khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Quá trình cưỡng chế thu hồi nợ vay cũng phải
được quy định rõ ràng và cụ thể trong hợp đồng tín dụng.
- 15 -
- Quyền của ngân hàng đối với thu nhập và tài sản của khách hàng trong
trường hợp khoản vay có vấn đề và khả năng ngân hàng có thể thu hồi vốn được kịp
thời với mức độ rủi ro và chi phí hợp lý? Quy định về thế chấp tài sản đáp ứng được
hai mục tiêu của người cho vay:
+ Ngân hàng có quyền thu giữ và bán tài sản để thu nợ trong trường hợp
người vay không có khả năng hoàn trả.
+ Việc thế chấp tài sản sẽ tạo ra lợi thế tâm lý cho người vay. Khi thế chấp,
người vay nợ sẽ chịu áp lực buộc phải nỗ lực hơn trong kinh doanh để có khả năng
trả nợ ngân hàng. Do vậy trách nhiệm của cán bộ ngân hàng là phải xác định rõ liệu
ngân hàng có thể hoàn thiện về quyền hợp pháp của mình đối với tài sản thế chấp
đó hay không.

* Yếu tố 2: Kiểm tra tín dụng: Các ngân hàng hầu hết đều có quy trình tín
dụng riêng để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên những nguyên lý chung nhất đang được
áp dụng tại các ngân hàng là:
- Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách
thận trọng và chi tiết, đảm bảo rằng những khía cạnh quan trọng của mỗi khoản tín
dụng đều được kiểm tra, bao gồm:
+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo trả nợ đúng hạn.
+ Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo.
+ Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đảm bảo tính hợp pháp để sở
hữu các tài sản khi người vay không trả được nợ.
+ Đánh giá điều kiện tài chính và những kế hoạch kinh doanh của người vay,
trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng.
+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân
hàng.
+ Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn vì chúng có ảnh hưởng rất
lớn tình trạng tài chính của ngân hàng.
- 16 -
+ Quản lý thường xuyên, chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường
kiểm tra, giám sát khi phát hiện những dấu hiệu xấu liên quan đến khoản vay.
+ Tăng cường công tác kiểm tra khoản tín dụng khi nền kinh tế có chiều
hướng đi xuống, hoặc những ngành nghề cho vay có biểu hiện quan trọng trong
phát triển.
* Yếu tố 3: Hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng:
Hệ thống chỉ tiêu tài chính dùng để phân tích đánh giá tín dụng doanh nghiệp
được chia thành 4 nhóm sau:
- Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios)
- Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios)
- Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy (Leverage ratios)
- Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios)

Tóm lại, các ngân hàng luôn mong đợi cho tất cả các khách hàng có chất
lượng vay tiền, và cho vay luôn là chức năng kinh tế cơ bản của các ngân hàng,
nhưng đồng thời cũng chứa đựng tiềm ẩn rủi ro cao. Để có thể kiểm soát được rủi ro
tín dụng thì chức năng cho vay của ngân hàng phải được thực hiện một cách chặt
chẽ nhằm tuân thủ chính sách và thực hành tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, để
kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường xây dựng một “chính sách tín
dụng” và “Quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng”.
Ngân hàng xem xét nhiều tiêu chí trong việc cấp tín dụng cho khách hàng,
tuy nhiên trong thực tế, thường tập trung vào 6 tiêu chí cơ bản, gọi là 6C.
Cuối cùng, một chính sách tín dụng lành mạnh phải luôn kèm theo điều
khoản kiểm tra định kỳ, thường xuyên tất cả các khoản tín dụng đã cấp cho đến khi
đáo hạn. Khi một khoản tín dụng trở nên có vấn đề thì cần đến sự xử lý nghiệp vụ
của cán bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải tìm ra được nguyên nhân của tín
dụng có vấn đề và hợp tác cùng khách hàng để tìm ra giải pháp thu hồi vốn cho
ngân hàng.
Các chuyên gia đưa ra các giải pháp thu hồi những khoản tín dụng có vấn đề
như sau:
- 17 -
- Tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi nợ.
- Khẩn trương khám phá và báo cáo kịp thời vấn đề thực chất liên quan đến
tín dụng.
- Tách chức năng cho vay và xử lý tín dụng ra riêng biệt nhằm tránh xung
đột có thể xảy ra về quan điểm cho vay.
- Dự tính những nguồn có thể dùng để thu hồi nợ có vấn đề.
- Cần xem trọng chất lượng, năng lực và sự nhất quán trong quản lý của
doanh nghiệp.
1.2.5.2 Mô hình định lượng
Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng.
Mô hình này ngày nay được xem là mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại

hơn, đó là lượng hoá rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hoá rủi ro tín
dụng được sử dụng nhiều nhất:
a. Mô hình điểm số Z:
Mô hình điểm số Z do E. I. Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với
công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín
dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: (i) chỉ số các yếu tố tài chính của người
vay – X
j
; (ii) tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ
của người vay trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau:
Z = 1,2X
1
+ 1,4X
2
+ 3,3X
3
+ 0,6 X
4
+ 1,0X
5

(1.1)
((1.1) Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống
kê, trang 334, năm 2005.)
Trong đó:
X
1
: tỷ số “Tài sản lưu động/ Tổng tài sản”
X
2

: tỷ số “Lợi nhuận tích luỹ/ Tổng tài sản”
X
3
: tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và lãi/ Tổng tài sản”
X
4
: tỷ số “Giá thị trường VTC/ Giá trị kế toán của khoản nợ”
X
5
: tỷ số “Doanh thu/ Tổng tài sản”

×