LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề thực tập, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, sự
đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Hoàng Mạnh Hùng - Giảng viên
Khoa Bất Động Sản & Kinh Tế Tài Nguyên - Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Uỷ ban nhân dân huyện Thạch Hà, tập thể
phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài chính Kế hoạch, phòng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, phòng Thống kê, cấp uỷ, chính quyền và bà con
nhân dân các xã, thị trấn trong huyện Thạch Hà đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài trên địa bàn.
Tôi xin cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn !
Thạch Hà, ngày 20 tháng 4 năm 2015
Tác giả chuyên đề
Trần Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục đích nghiên cứu 3
1.3 Yêu cầu của đề tài 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
TT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 CNH - HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2 CN-TTCN Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
3 CN-XDCB Công nghiệp, xây dựng cơ bản
4 GTSX Giá trị sản xuất
5 CPSX Chi phí sản xuất
6 CPLĐ Chi phí lao động
7 CLĐ Công lao động
8 TCP Tổng chi phí
9 TNHH Thu nhập hổn hợp
10 HTX Hợp tác xã
11 LĐ Lao động
12 LUT Loại hình sử dụng đất
13 TM-DV Thương mại, dịch vụ
14 UBND Uỷ ban nhân dân
15 KTXH Kinh tế xã hội
16 BVTV Bảo vệ thực vật
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG:
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục đích nghiên cứu 3
1.2 Mục đích nghiên cứu 3
1.3 Yêu cầu của đề tài 3
1.3 Yêu cầu của đề tài 3
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước. Chúng ta biết rằng không có đất thì
không thể sản xuất, cũng không có sự tồn tại của con người và đất là là tư liệu sản
xuất để phát triển nông, lâm nghiệp, là đối tượng lao động rất đặc thù bởi tính chất
độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có thể thay thế được, đó là độ phì nhiêu.
Chính vì vậy mà các hệ sinh thái và ngay cả cuộc sống của loài người cũng hoàn
toàn phụ thuộc vào tính chất này của đất.
Đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp, trong quá trình sử dụng con người đã
tác động làm thay đổi theo hai chiều hướng tốt lên và xấu đi, đây là kết quả của
một thời gian dài do con người sản xuất nông nghiệp phiến diện và không quan
tâm đến bồi dưỡng đất, hay nói cách khác con người đã không coi đất đai như
một cơ thể sống cần được chăm sóc để nó khỏe mạnh và phục vụ con người tốt
hơn nên đã có nhiều vùng đất thoái hóa. Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả cao là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông
nghiệp phát triển bền vững.
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài người.
Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở phát
triển nông nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho
việc phát triển các ngành khác. Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai
hợp lý có hiệu quả cao theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở
thành vấn đề mang tính toàn cầu. Điều mà các nhà khoa học trên thế giới quan
tâm là làm thế nào để sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm đáp ứng cho
những ai có nhu cầu, trong khuôn khổ xã hội và kinh tế có thể thực hiện được.
Mục đích của sử dụng đất là làm thế nào để bắt nguồn tư liệu có hạn này phát
huy hiệu quả kinh tế, hiệu quả sinh thái, hiệu quả xã hội cao nhất, đảm bảo lợi
ích trước mắt và lâu dài. Nói cách khác mục tiêu hiện nay của loài người là phấn
1
đấu xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện về kinh tế, xã hội, môi trường một
cách bền vững. Để thực hiện mục tiêu trên cần bắt đầu từ nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trong nông nghiệp một cách toàn diện.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao, con
người tìm ra nhiều phương thức sử dụng đất có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do có sự
khác nhau về chất lượng, mỗi loại đất bao gồm những yếu tố thuận lợi và hạn chế
cho việc khai thác sử dụng (chất lượng đất thể hiện ở yếu tố tự nhiên vốn có của đất
như địa hình, thành phần cơ giới, hàm lượng các chất dinh dưỡng, chế độ nước, độ
chua, độ mặn…), nên phương thức sử dụng đất cũng khác nhau ở mỗi vùng, mỗi
khu vực, mỗi điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
Thực tế, trong những năm qua, đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả như tiến hành giao quyền sử dụng đất lâu dài ổn định cho người sử dụng đất,
hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa các giống cây trồng
năng suất cao vào sản xuất, nhờ đó mà hiệu quả sử dụng đất được nâng lên. Khai
thác tiềm năng đất đai sao cho đạt hiệu quả cao nhất là việc làm hết sức quan trọng
và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như nền kinh
tế đất nước. Cần phải có các công trình nghiên cứu khoa học, đánh giá thực trạng
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế
làm cơ sở định hướng phát triển sản xuất, thiết lập các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất đai của huyện Thạch Hà có địa hình phức tạp, gồm có đồng bằng, trung du,
miền núi và dải đất cát pha ven biển; địa bàn huyện Thạch Hà vừa có rừng, có biển và
các dải đất đồng bằng khá phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng
về giao thông, điều kiện tưới tiêu, gặp nhiều trở ngại do địa hình bị chia cắt, điều kiện
khí hậu khăc nghiệt của miền trung không ưu ái cho huyện trong sản xuất nông nghiệp.
Thạch Hà là huyện sản xuất nông nghiệp, nguồn thu nhập chủ yếu của người dân từ
nông nghiệp. Hiện nay áp lực về lương thực đã giảm xuống, xu hướng thay đổi độc
canh cây lúa để chuyển dịch sang một số loại cây khác có thu nhập cao hơn trên một
2
đơn vị diện tích. Những địa phương điển hình thực hiện thành công quá trình chuyển
dịch đó là các xã Thạch Liên, Thạch Tân, Thạch Thắng, Tượng Sơn và Thạch
Hương.v.v
Tuy nhiên các mô hình sử dụng đất nông nghiệp như đã nêu ở trên mới mang
tính tự phát, còn gặp nhiều khó khăn do chưa xác định đúng tiềm năng để khai thác có
hiệu quả đối với đất đai. Đặc biệt các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện chưa được đánh giá trên cơ sở khoa học để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương.
Vấn đề đặt ra là cần phải phát triển hệ thống sử dụng đất nông nghiệp nâng cao
hiệu quả sản xuất, ổn định đời sống dân cư đồng thời bảo vệ tài nguyên môi trường. Để
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế của huyện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiệu quả sử dung đất nông nghiệp huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh giai
đoạn 2010-2014 và định hướng sử dụng đất đến năm 2020”.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện Thạch Hà -
tỉnh Hà Tĩnh để đề xuất các giải pháp và định hướng sử dụng đất nông nghiệp có
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của huyên.
1.3 Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu điều kiện sản xuất (tự nhiên, kinh tế - xã hội) của huyện nhằm
phát hiện những khó khăn, thuận lợi trong việc sử dụng đất nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng sản xuất và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trong
điều kiện cụ thể của huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh để đề xuất giải pháp và định hướng
sử dụng đất nông nghiệp.
3
CHƯƠNG 1
SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm cơ bản.
Việt Nam là một nước có ngành nông nghiệp nhiệt đới phát triển. Từ trước
tới nay, ông cha ta sống và làm việc chủ yếu dựa vào ngành nông nghiệp. Vậy nông
nghiệp là gì? Nông nghiệp được thực hiện trên những loại đất canh tác như thế nào?
Làm sao để đạt hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp và sử dụng tốt những loại
đất trồng sẵn có?
Sau gần 30 năm thực hiện Đổi mới đến nay, nông nghiệp Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn và có đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.Trong những lúc nền kinh tế gặp khó khăn nhất do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế và các cú sốc từ bên ngoài thì nông nghiệp trở thành bệ đỡ mặc
dù chính ngành nông nghiệp cũng chịu nhiều ảnh hưởng của những biến động thị
trường và những diễn biến bất lợi của thời tiết và thiên tai. Nông nghiệp phát triển
đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Không những thế, nông nghiệp
còn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đảm bảo tiêu dùng trong nước, thậm chí một số
hàng nông sản xuất khẩu chiếm vị trí cao trong thị trường thế giới. Cùng với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đất nước đang diễn ra nhanh
chóng hiện nay là quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp và chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang hoạt động
tại các ngành kinh tế khác.
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó
không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học-kỹ thuật.
Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn
4
nuôi và ngành dịch vụ. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành
lâm nghiệp và thủy sản.
Tùy thuộc vào mỗi đặc tính của vật nuôi, cây trồng mà chúng được canh tác
và nuôi trồng trên những loại đất đai phù hợp để chúng phát triển và mang lại năng
suất cao cho người dân.
Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông
nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế
hệ loài người kế tiếp nhau (theo C.Mac)
Các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và qui hoạch Việt Nam cho rằng: “ Đất đai là
phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được”
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có giới hạn, theo
chiều thẳng đứng, gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm
thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong
lòng đất; theo chiều ngang, trên mặt đất là sự kết hợpgiữa thổ nhưỡng, địa hình,
thủy văn thảm thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng
và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài
người Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích
bảo vệ, phát triển rừng: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi
trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác.
2. Đặc điểm sử dụng đất cho nông nghiệp.
Luật Đất đai 2003 phân loại đất thành 3 nhóm theo mục đích sử dụng, đó là:
Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Đất
nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như
đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng, đất rừng trồng, nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp. Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản
5
xuất và làm ra sản phẩm cần thiết nuôi sống xã hội .
Đất đai là sản phẩm của thiên nhiên, đất đai có những tính chất đặc trưng riêng
khiến nó không giống bất kỳ một tư liệu sản xuất nào khác, đó là: đất có độ phì, giới
hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không gian và vĩnh cửu với thời gian nếu
biết sử dụng đúng.
Nhận thức đúng được các vấn đề trên sẽ giúp người sử dụng đất có các định
hướng sử dụng tốt hơn đối với đất nông nghiệp, khai thác có hiệu quả các tiềm năng
tự nhiên của đất đồng thời không ngừng bảo vệ đất và môi trường sinh thái.
Xét cho cùng, đất chỉ có giá trị thông qua quá trình sử dụng của con người, giá
trị đó tuỳ thuộc vào sự đầu tư trí tuệ và các yếu tố đầu vào khác trong sản xuất. Hiệu
quả của việc đầu tư này sẽ phụ thuộc rất lớn vào những lợi thế của quỹ đất đai hiện
có và các điều kiện KT-XH cụ thể.
3. Vai trò đất sản xuất nông nghiệp.
Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng quay của
bánh xe thời gian thì con người xuất hiện và tác động vào đất đai, cải tạo đất đai và
biến đất đai từ sản phẩm của tự nhiên lại mang trong mình sức lao động của con
người, tức cũng là sản phẩm của của xã hội.
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng
là yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh
vật khác trên trái đất. Các Mác viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là
điều kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu
sản xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp”. Bởi vậy, nếu không có đất đai thì
không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người không thể tiến hành sản xuất
ra của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống đến ngày nay. Trải
qua một quá trình lịch sử lâu dài con người chiếm hữu đất đai biến đất đai từ một
sản vật tự nhiên thành một tài sản của cộng đồng, của một quốc gia. Luật Đất đai
năm 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “Đất đai là tài
nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
6
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế
hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất
đai như ngày nay!”.Vì thế đất đai có vai trò to lớn trong cuộc sống hằng ngày
nhất là đối với đất sản xuất nông nghiệp.
Đất sản xuất nông nghiệp có vai trò rất lớn trong việc tạo ra các sản phẩm nông
ngiệp phục vụ cho nhu cầu sống hằng ngày. Đất đai hoạt động với tư cách là tư liệu
sản xuất chủ yếu và đặc biệt, tham gia vào việc tạo ra các nông sản, trước hết là các
sản phẩm của ngành trồng trọt. Các sản phẩm nông nghiệp một mặt cung cấp cho
nhu cầu sống hằng ngày của con người, mặt khác là nguồn thức ăn quan trọng cho
ngành chăn nuôi.
4. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp.
a. Nguyên tắc sử dụng chung:
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người lấy
từ đất ngày càng tăng, mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do bị trưng
dụng sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta với mục
tiêu nâng cao hiệu quả KT-XH trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm,
tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử dụng đất nông
nghiệp trong sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển
KT-XH, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm
ảnh hướng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo
cho khai thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đất. Do đó, đất nông nghiệp cần
được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”, phải có các quan điểm đúng đắn
theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện
việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp “đầy đủ và hợp lý” là cần thiết vì:
- Sử dụng đất nông nghiệp hợp lý sẽ làm tăng nhanh khối lượng nông sản trên
1 đơn vị diện tích, xây dựng cơ cấu cây trồng, chế độ bón phân hợp lý góp phần bảo
vệ độ phì đất.
- Sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ và hợp lý là tiền đề để sử dụng có hiệu quả
cao các nguồn tài nguyên khác, từ đó nâng cao đời sống của nông dân.
7
- Sử dụng đầy đủ và hợp lý đất nông nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường
cần phải xét đến tính quy luật của nó, gắn với các chính sách vĩ mô nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển nền nông nghiệp bền vững.
b. Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm bền vững
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi nhu cầu của con người về các sản
phẩm được lấy từ đất ngày càng tăng. Mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị thu
hẹp do bị trưng dụng sang các mục đích khác mà chủ yếu cho phát triển công
nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta cần hướng tới mục tiêu nâng cao
hiệu quả kinh tế, xã hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng
cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử dụng đất nông
nghiệp dựa trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng
được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác và sử
dụng bền vững tài nguyên đất đai. Do đó đất nông nghiệp cần được sử dụng theo
nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”.
Thuật ngữ “sử dụng đất bền vững” được dựa trên các quan điểm sau:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất.
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất.
- Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa đất và nước.
- Có hiệu quả lâu bền.
Bốn nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất nông nghiệp bền vững, nếu
sử dụng đất đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất được bảo vệ và sử dụng cho phát
triển nông nghiệp bền vững.
Từ những vấn đề chung nêu trên mỗi nước lại có chiến lược phát triển nông
nghiệp khác nhau, có thể chia thành 2 hướng:
+ Nông nghiệp công nghiệp hoá: dựa chủ yếu vào các yếu tố vật tư, kỹ thuật,
hoá chất và các sản phẩm khác của công nghiệp.
+ Nông nghiệp sinh thái: nhấn mạnh các yếu tố sinh học, các yếu tố tự nhiên,
có chú ý hơn đến các quy luật sinh học, quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, trong nhiều
8
trường hợp nông nghiệp sinh thái không đảm bảo hiệu quả cao.
Gần đây nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nền nông nghiệp bền vững. Đó là
một dạng nông nghiệp sinh thái với mục tiêu là sản xuất nông nghiệp đi đôi với giữ
gìn và bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững,
lâu dài. Để duy trì sự sống còn của con người, nhân loại đang phải đương đầu với
nhiều vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn, sự bùng nổ dân số, nạn ô nhiễm và suy
thoái môi trường, mất cân bằng sinh thái Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng và
phát triển nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp bền vững.
5. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Diện tích đất có hạn, dân số ngày càng tăng, nhu cầu về lương thực thực
phẩm cũng tăng. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất cần
thiết, cần xem xét ở các khía cạnh sau:
- Quá trình sản xuất trên đất nông nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố đầu vào
kinh tế và không kinh tế (ánh sáng, nhiệt độ, không khí ). Chính vì vậy, khi đánh
giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước tiên phải được xác định bằng kết quả
thu được trên 1 đơn vị diện tích cụ thể, thường là 1 ha, tính trên 1 đồng chi phí, 1
lao động đầu tư.
- Trên đất nông nghiệp có thể bố trí các cây trồng, các hệ thống luân canh, do
đó cần phải đánh giá hiệu quả của từng cây trồng, từng hệ thống luân canh trên mỗi
vùng đất.
- Thâm canh là một biện pháp sử dụng đất nông nghiệp theo chiều sâu, tác động
đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài. Vì thế, cần phải nghiên
cứu hiệu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nghiên cứu ảnh hưởng của
việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất (môi trường đất, nước).
- Đối với sản xuất nông nghiệp, môi trường vừa là tài nguyên vừa là đối tượng
lao động, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của toàn bộ nền nông nghiệp. Mặt
khác, nông nghiệp thường tác động mạnh mẽ lên môi trường. Trong quá trình phát
triển, ở nhiều giai đoạn phản ứng của môi trường thường tạo ra những trở ngại to
lớn, có khi không thể vượt qua được. Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp
9
được khi con người biết cách làm cho môi trường không bị phá huỷ gây tác hại đến
đời sống xã hội. Đồng thời, cần tạo ra môi trường thiên nhiên và xã hội thuận lợi
cho sự phát triển nông nghiệp ở giai đoạn hiện tại và mở ra những điều kiện phát
triển trong tương lai. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần
quan tâm đến ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp với môi trường xung quanh. Cụ
thể là khả năng thích hợp của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp có phù hợp với
đất đai hay không? Việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp có để lại tồn dư hay
không?
- Lịch sử nông nghiệp là một quãng đường dài thể hiện sự phát triển mối quan
hệ giữa con người với thiên nhiên. Hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính xã hội
rất sâu sắc. Nói đến nông nghiệp không thể không nói đến nông dân, đến các quan hệ
sản xuất trong nông thôn.Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần
quan tâm đến những tác động của sản xuất nông nghiệp, đến các vấn đề xã hội như:
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ dân trí trong nông thôn
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả là mục tiêu chung, chủ yếu xuyên suốt mọi quá trình
sản xuất của xã hội. Tuỳ theo nội dung của hiệu quả mà có những tiêu chuẩn đánh
giá hiệu quả khác nhau ở mỗi thời kỳ phát triển KT-XH khác nhau. Tiêu chuẩn để
đánh giá hiệu quả là một vấn đề phức tạp và có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Tuy
nhiên, đa số các nhà kinh tế đều cho rằng tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh
giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí và
tiêu hao các nguồn tài nguyên, sự ổn định lâu dài của hiệu quả.
Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có thể
xem xét ở các mặt sau:
+ Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đối với toàn xã hội là khả năng thoả mãn nhu
cầu của sản xuất và tiêu dùng cho xã hội bằng của cải vật chất sản xuất ra. Đối với
nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mức đạt được các mục tiêu KT-XH,
môi trường do xã hội đặt ra như tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng chất lượng
và tổng sản phẩm, thoả mãn tốt nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và tăng
10
xuất khẩu, đồng thời đáp ứng yêu cầu về bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có đặc thù riêng, trên 1 đơn vị
đất nông nghiệp nhất định có thể sản xuất đạt được những kết quả cao nhất với chi
phí bỏ ra ít nhất, ảnh hưởng môi trường ít nhất.Đó là phản ánh kết quả quá trình đầu
tư sử dụng các nguồn lực thông qua đất, cây trồng, thực hiện quá trình sinh học để
tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường xã hội với hiệu quả cao.
+ Các tiêu chuẩn được xem xét với việc ứng dụng lý thuyết sản xuất cơ bản
theo nguyên tắc tối ưu hoá. Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí các yếu
tố đầu vào, theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất
định, hoặc thực hiện cực đại hoá lượng nông sản khi có một lượng nhất định đất
nông nghiệp và các yếu tố đầu vào khác.
+ Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến những
người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải theo quan
điểm sử dụng đất bền vững hướng vào 3 tiêu chuẩn chung như sau:
* Bền vững về mặt kinh tế.
Loại cây trồng nào cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển ổn định thì được thị
trường chấp nhận. Do đó, phát triển sản xuất nông nghiệp là thực hiện tập trung,
chuyên canh kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân
vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và
phụ (đối với cây trồng là gỗ, củi, hạt, củ, quả, và tàn dư để lại). Một hệ thống
nông nghiệp bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ
không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường. Mặt khác, chất lượng sản phẩm phải
đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong nước và hướng tới xuất khẩu tuỳ theo
mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của
hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn
11
hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức của vùng thì nguy
cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền
vay vốn ngân hàng.
* Bảo vệ về môi trường:
Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ phì đất, ngăn ngừa sự thoái hoá đất
bảo vệ môi trường sinh thái.
Độ phì nhiêu của đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với việc quản lý và
sử dụng đất nông nghiệp bền vững. Độ che phủ phải đạt ngưỡng an toàn sinh
thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững
hơn độc canh, ).
* Bền vững về mặt xã hội:
Thu hút được nguồn lao động trong nông nghiệp, tăng thu nhập, tăng năng
suất lao động, đảm bảo đời sống xã hội. Đáp ứng được các nhu cầu của nông hộ là
điều cần quan tâm trước tiên nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất,
môi trường ). Sản phẩm thu được phải thỏa mãn cái ăn, cái mặc và nhu cầu hàng
ngày của người nông dân.
+ Tiêu chuẩn đảm bảo hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong cung
cấp tư liệu sản xuất, xử lý chất thải có hiệu quả.
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
6.1. Nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết, địa hình, thổ nhưỡng ) có
để sinh vật tạo nên sinh khối. Vì vậy, khi xác định vùng nông nghiệp hoá cần đánh
giá đúng điều kiện tự nhiên, trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù
hợp, định hướng đầu tư thâm canh đúng.
Theo C.Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I.
Theo N.Borlang người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước phát
triển cho rằng: yếu tố duy nhất, quan trọng nhất, hạn chế năng suất cây trồng ở tầm
cỡ thế giới trong các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ
phì đất.
6.2. Nhóm các nhân tố kinh tế, kỹ thuật.
12
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai, cây
trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của các quá trình sản xuất
để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những tác động thể hiện
sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và
thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa
chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào nhằm đạt các mục tiêu sử dụng đất đề
ra. Theo Frank Ellis và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác động
tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tưới tiêu hiệu quả thì cũng đặt
ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghiệp sản
xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh.
Cho đến giữa thế kỷ 21, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất
kinh tế, trong nền nông nghiệp nước ta.
Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình khai thác đất đai theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
6.3. Nhóm các nhân tố tổ chức.
Nhóm yếu tố này bao gồm:
- Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên (khí
hậu, độ cao tuyệt đối của địa hình, tính chất đất, khả năng thích hợp của cây trồng
đối với đất, nguồn nước và thực vật) làm cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng vật
nuôi hợp lý, nhằm khai thác đất một cách đầy đủ, hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để
đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hóa, chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
- Hình thức tổ chức sản xuất.
Cần phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở
sản xuất, thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập
một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hình
thức đó.
6.4. Nhóm các nhân tố xã hội.
13
Nhóm yếu tố này bao gồm :
- Hệ thống thị trường và sự hình thành thị trường đất nông nghiệp, thị trường
nông sản phẩm. Ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất là : năng
suất cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra. (Nguyễn Duy Tính, 1995).
- Hệ thống chính sách.
- Sự ổn định chính trị- xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển
sản xuất nông nghiệp của Nhà nước.
- Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ năng lực của
các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư.
7. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn
của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp .
Sử dụng đất đai có hiệu quả là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối
quan hệ giữa người và đất một trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi
trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên
cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đó là
một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển nền nông nghiệp hướng về xuất
khẩu có tính ổn định và bền vững đồng thời phát huy tối đa công dụng của đất,
nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất.
Các nội dung sử dụng đất có hiệu quả được thể hiện ở các mặt sau:
- Sử dụng hợp lý về không gian để hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử
dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành
cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp hình thành quy mô kinh tế
14
sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp hình thành việc sử dụng đất một cách kinh
tế, tập trung thâm canh. Việc sử dụng đất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố liên
quan. Vì vậy, việc xác định bản chất khái niệm hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát
từ luận điểm triết học của Mác và những nhận thức lý luận của lý thuyết hệ thống
nghĩa là hiệu quả phải được xem xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội,
hiệu quả môi trường.
- Phải xem xét đến lợi ích trước mắt và lâu dài.
- Phải xem xét cả lợi ích riêng của người sử dụng đất và lợi ích của cả cộng
đồng.
- Phải xem xét giữa hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả sử dụng các nguồn lực
khác.
- Đảm bảo sự phát triển thống nhất giữa các ngành.
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất người ta thường đánh giá trên ba khía cạnh:
hiệu quả về mặt kinh tế sử dụng đất, hiệu quả về mặt xã hội và hiệu quả về mặt môi
trường.
7.1. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế, xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực sản xuất của xã hội
ngày càng trở nên khan hiếm, việc nâng cao hiệu quả là một đòi hỏi khách quan của
mọi nền sản xuất xã hội .
Theo quan điểm của Mác tăng hiệu quả phải được hiểu rộng và nó bao hàm
cả việc tăng hiệu quả kinh tế và xã hội.
Các nhà khoa học kinh tế Samuel – Nordhuas cho rằng: “ Hiệu quả có nghĩa
là không lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội. Hiệu
quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá này mà
không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Mọi nền kinh tế có hiệu quả nằm
trên đường giới hạn khả năng năng suất của nó".
15
Theo L.M Canirop " Hiệu quả của sản xuất được tính toán và kế hoạch hoá
trên cơ sở những nguyên tắc chung của nền kinh tế quốc dân bằng cách so sánh kết
quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn lực đã sử dụng".
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế nhưng đều thống
nhất ở bản chất của nó. Người sản xuất muốn thu được kết quả phải bỏ ra những chi
phí nhất định, những chi phí đó là nhân lực, vật lực, vốn. So sánh kết quả đạt được
với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó sẽ có hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn của hiệu
quả là sự tối đa hoá kết quả với một lượng chi phí định trước hoặc tối thiểu hoá chi
phí để đạt được một kết quả nhất định.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới sản xuất
nông nghiệp và với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Vì thế hiệu quả
kinh tế phải đáp ứng được ba vấn đề:
Một là: mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật “tiết kiệm thời
gian”, nó là động lực phát triển của lực lượng sản xuất, là điều kiện quyết định phát
triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua mọi thời đại.
Hai là: hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết hệ
thống. Quan điểm của lý thuyết hệ thống cho rằng nền sản xuất xã hội là một hệ
thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất .v.v Việc tận dụng khai thác các điều kiện sẵn có,
hay giải quyết các mối quan hệ phù hợp giữa các bộ phận của một hệ thống với yếu
tố môi trường bên ngoài để đạt được khối lượng sản phẩm tối đa là mục tiêu của
từng hệ thống. Đó chính là mục tiêu đặt ra đối với mỗi vùng kinh tế, mỗi chủ thể
sản xuất trong mọi xã hội.
Ba là: hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ cho lợi ích
của con người. Do những nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng, vì thế
nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội.
Các nhà sản xuất và quản lý kinh tế cần phải nâng cao chất lượng các hoạt
động kinh tế nhằm đạt mục tiêu với một lượng tài nguyên nhất định tạo ra một khối
lượng sản phẩm lớn nhất hoặc tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định với chi phí
16
tài nguyên ít nhất.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được
là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của
các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và
tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.Một
phương án đúng hoặc một giải pháp kinh tế kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao là đạt
được tương quan tối ưu giữa kết quả thu được và chi phí nguồn lực đầu tư.
Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: Với một diện tích đất
đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng
đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về vật chất của xã hội.
* Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Có hai cách tính hiệu quả kinh tế sử dụng đất biểu hiện bằng hai hệ thống chỉ
tiêu sau:
- Cách thứ nhất: để tính được hiệu quả kinh tế sử dụng đất phải tính được các
chỉ tiêu.
+ Giá trị sản xuất : GO (Gross Outpu); là giá trị toàn bộ sản phẩm sản xuất ra
trong kỳ sử dụng đất (một vụ, một năm, tính cho từng cây trồng và có thể tính cho
cả công thức luân canh hay hệ thống sử dụng đất)
+ Chi phí trung gian : IC (Intermediate Cost); Là toàn bộ chi phí vật chất và
dịch vụ sản xuất qui ra tiền sử dụng trực tiếp cho quá trình sử dụng đất (giống, phân
bón, thuốc hoá học, dụng cụ, nhiên liệu, nguyên liệu).
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả:
+ Giá trị gia tăng : VA (Value Added); Là giá trị sản phẩm vật chất mới tạo
ra trong qúa trình sản xuất, trong một năm hoặc một chu kỳ sản xuất, được xác định
bằng: giá trị sản xuất trừ chi phí trung gian.
VA = GO – IC
Thường tính toán ở 3 góc độ hiệu quả :
VA/ 1ha đất
17
VA/ 1 đơn vị chi phí (1VNĐ, 1USD)
VA/ 1 công lao động
+ Thu nhập hỗn hợp : MI (Mixed Income) ; Là thu nhập sau khi đã trừ
các khoản chi phí trung gian, thuế hoặc tiền thuê đất, khấu hao tài sản cố định, chi
phí lao động thuê ngoài.
MI = VA – T (thuế) – A (khấu hao) – L (chi công lao động).
Thường tính trên 3 góc độ hiệu quả:
MI/ 1ha đất
MI/ 1 đơn vị chi phí (1VNĐ, 1USD)
MI/ 1 công lao động
- Cách tính thứ hai:
Các chỉ tiêu tính toán để tính hiệu quả kinh tế sử dụng đất:
+ Giá trị sản xuất (GO)
+ Chi phí biến đổi (VC) hay chi phí khả biến, là chi phí thay đổi khi qui mô
năng suất và khối lượng đầu ra thay đổi
Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế :
+ Lãi thô (GM) là phần dôi ra khi so sánh giá trị sản xuất với chi phí biến đổi.
GM = GO – VC
Thường tính trên 3 góc độ hiệu quả.
GM/ 1ha đất.
GM/ 1 đơn vị chi phí biến đổi (1VNĐ, 1USD.)
GM/ 1 công lao động.
+ Chi phí cố định (FC) hay chi phí bất biến là chi phí không thay đổi khi quy
mô năng suất và lượng đầu ra thay đổi.
Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế :
+ Lãi ròng (NI) còn gọi là lãi tinh hay lãi thuần là phần lãi còn lại sau khi trừ
toàn bộ chi phí biến đổi và chi phí cố định.
NI = GM – FC
18
Thường tính trên 3 góc độ hiệu quả.
NI/ 1ha đất
NI/ 1 đơn vị tiền tệ chi phí (1VNĐ, 1USD…)
NI/ 1 công lao động
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi lựa chọn cách tính thứ nhất vì
cách tính này thường áp dụng tính cho các hộ nông dân, các trang trại qui mô nhỏ
mà chia bóc tách được chi phí lao động.
7.2. Hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và
thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hoá các chỉ tiêu biểu
hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng các chỉ tiêu
mang tính định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xoá đói giảm nghèo,
định canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của toàn dân.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp. Hiện nay, việc
đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là vấn đề đang
được nhiều nhà khoa học quan tâm.
•Chỉ tiêu về hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội chính là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội (kết quả
xét về mặt xã hội) và tổng chi phí bỏ ra. Các chỉ tiêu hiệu quả xã hội thể hiện cụ thể:
- Mức thu hút lao động, sử dụng lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập.
- Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học.
7.3. Hiệu quả môi trường.
Môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, hiệu quả môi trường được
các nhà môi trường học rất quan tâm trong điều kiện hiện nay. Một hoạt động sản
xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó không gây tổn hại hay có những tác
động xấu đến môi trường như đất, nước, không khí và hệ sinh học, là hiệu quả đạt
được khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra không làm cho môi trường xấu đi mà
ngược lại quá trình sản xuất đó làm cho môi trường tốt hơn, mang lại một môi
19
trường xanh, sạch, đẹp hơn trước.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính lâu
dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai, nó
gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi trường
sinh thái.
Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vững phải quan tâm tới cả ba hiệu
quả trên, trong đó hiệu quả kinh tế là trọng tâm, không có hiệu quả kinh tế thì không
có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường, ngược lại, không
có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không bền vững .
•Chỉ tiêu hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường sinh thái có thể phân tích thông qua các chỉ tiêu sau:
- Đánh giá tính thích hợp của các cây trồng đối với điều kiện đất đai hiện tại
thông qua các chỉ tiêu cụ thể:
+ Mức độ đầu tư phân bón.
+ Mức độ sử dụng thuốc BVTV.
- Hệ số sử dụng đất, biện pháp luân canh cải tạo đất.
- Tỉ lệ diện tích đất đai được bảo vệ và cải tạo, bị ô nhiễm hay thoái hoá.
- Mức độ bảo vệ môi trường sinh thái trong vùng (đất, nước, không khí, động,
thực vật.)
- Sự thích hợp với môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Môi trường trong nông nghiệp bao gồm các biện pháp làm đất, bón phân,
tưới tiêu nước. Nếu như sự phối hợp các khâu này trong canh tác không hợp lý sẽ
dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất bởi các chất hoá học, đất bị chua, mặn hoặc laterit
hoá, làm giảm độ phì nhiêu của đất, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, phẩm chất
nông sản và làm suy thoái môi trường.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông
nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích
trong một thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ dừng lại ở việc đánh
20
giá hiệu quả môi trường thông qua việc đánh giá thích hợp của các cây trồng đối với
điều kiện đất đai hiện tại, thông qua kết quả điều tra về đầu tư phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật và kết quả phỏng vấn hộ nông dân về nhận xét của họ đối với các loại
hình sử dụng đất hiện tại.
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất cần kết hợp chặt chẽ giữa ba hệ thống chỉ
tiêu kinh tế-xã hội và môi trường trong một thể thống nhất. Tuy nhiên, tuỳ từng điều
kiện cụ thể mà ta có thể nhấn mạnh từng hệ thống chỉ tiêu ở mức độ khác nhau.
II. Cơ sở thực tiễn của hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
1. Thực tiễn một số nước trên thế giới.
Diện tích đất đai có hạn trong khi dân số ngày càng tăng, việc nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài là vấn đề
quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Các phương
pháp đã được nghiên cứu, áp dụng dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp được tiến hành ở các nước Đông Nam Á như: phương pháp chuyên khảo,
phương pháp mô phỏng, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp phân tích
chuyên gia Bằng những phương pháp đó, các nhà khoa học đã tập trung nghiên
cứu vào việc đánh giá hiệu quả đối với từng loại cây trồng, từng giống cây trồng
trên mỗi loại đất, để từ đó có thể sắp xếp, bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp nhằm
khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của từng vùng.
Hàng năm, các Viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nước trên thế giới
cũng đã đưa ra nhiều giống cây trồng mới, những công thức luân canh mới giúp
cho việc tạo thành một số hình thức sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả cao
hơn. Viện Lúa quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống lúa và hệ
thống cây trồng trên đất canh tác. Tạp chí “Farming Japan” của Nhật ra hàng
tháng đã giới thiệu nhiều công trình ở các nước trên thế giới về các hình thức
sử dụng đất đai, đặc biệt là của Nhật.
Các nhà khoa học Nhật Bản cho rằng quá trình phát triển của hệ thống nông
nghiệp nói chung và hệ thống cây trồng nói riêng là sự phát triển đồng ruộng đi từ
đất cao đến đất thấp. Điều đó có nghĩa là hệ thống cây trồng đã phát triển trên đất
21