Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.9 KB, 44 trang )

Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất
cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu
đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK
không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh
hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về
ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập
WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này.
Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là:
• So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi
gia nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát
triển kinh tế đất nước.
• Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt
Nam là gì.
• Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt
hàng ô tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập
WTO, ảnh hưởng của chính sách đó.
Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích.
Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây
Vì thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên bài viết
của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, chúng em mong
thầy chỉ bảo để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm sinh viên:
Vũ Thị Kiều Hoa
Trần Thị Hương Giang
Nguyễn Thị Quỳnh Anh
Nguyễn Thanh Hiền
Nguyễn Thị Hạnh
Lớp Anh 5-TCQTB-K46


1
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU:
………………………………………………………3
B. MỤC LỤC: …………………………………………………………4
C. THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ HỘI NHẬP:
……………………………………………………… 5
I/ Thực trạng thuế XNK ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO: …….6
1. Tổng quan: … ………………………………………………… 6
1.1 Những chính sách của Nhà nước:.
…………………………… 6
1.2 Những mặt tích cực:… ……………………………………… 7
1.3 Những mặt hạn chế: ……………………………………… …8
1.3.1 Sơ hở trong chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của
Nhà nước:…………………………………………………8
1.3.2 Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả: 10
1.3.3 Mức thuế suất còn khá cao : … ……… ………………11
2. Một số cải cách về thuế XNK trên tiến trình gia nhập WTO:.….12
II/ Những đổi mới thuế XNK sau khi Việt Nam gia nhập WTO: … ….20
1. Đổi mới trong các chính sách của Nhà nước: …………… 20
2. Khung thuế xuất nhập khẩu 2008: … ………………………… 23
3. Thành công của những đổi mới: … …………………………….28
4. Những mặt còn hạn chế trong các chính sách đổi mới: ……… 30
5. Ví dụ về thuế nhập khẩu ô tô có ảnh hưởng đối với tiêu dùng:… 34
III/ Thuế XNK ở Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào? …………44
D. KẾT LUẬN: … …………………………………………………48
THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

2
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Trước khi đi nghiên cứu về các biến động về thuế xuất nhập khẩu ở
Việt Nam trong những năm gần đây chúng ta cần hiểu sơ lược thế nào là
thuế, thuế xuất nhập khẩu.
Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân,
doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuế XNK là thuế đánh vào hàng hóa XNK, kể cả phi mậu dịch và
làm thủ tục kê khai nộp thuế tại cửa khẩu, nên còn gọi là thuế quan. Ở
những nước có khu chế xuất, đối tượng đánh thuế gồm cả hàng hóa từ khu
chế xuất, đối tượng đánh thuế gồm cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị
trường trong nước và từ thị trường trong nước đưa ra khu chế xuất.
Thuế XNK được tính theo công thức:
Thuế XNK = (Số lượng hàng XNK x Giá tính thuế đơn vị) x Thuế suất
Giá tính thuế đơn vị là giá xuất, giá nhập tại cửa khẩu. Nếu vận
chuyển bằng đường biển là giá FOB, giá CIF. Giá xuất không bao gồm cả
chi phí vận tải và bảo hiểm tới cửa khẩu đến.
Thuế suất là số tiền thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng tính thuế.
Sau khi xác định đối tượng tính thuế là gì ta có thể xác định nội dung, cách
quy định mức thuế suất.
Tiếp đến chúng ta sẽ xem xét tình hình chung về thuế xuất nhập khẩu
Việt Nam những năm trước khi gia nhập WTO.
I/ Thực trạng thuế XNK ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO.
1.Tổng quan:
1.1 Những chính sách của Nhà nước:
3
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Về số lượng hàng nhập khẩu, Nhà nước áp dụng các chính sách hạn
chế định lượng XNK đối với mặt hàng ô tô, các mặt hàng điện tử, điện lạnh,
phân bón, thuốc lá, thực phẩm và các mặt hàng xa xỉ phẩm; cấm nhập khẩu

một số mặt hàng như xe đạp, xe hai bánh, ba bánh gắn máy cũ, các vật tư,
phương tiện đã qua sử dụng. Hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép, quần áo,
đồ điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, thiết bị y tế, đồ
gia dụng, các sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cũng nằm trong
danh mục hàng cấm nhập. Nhà nước còn quy định hạn ngạch XNK đối với
mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, sữa nguyên
liệu chưa cô đặc, muối, ngô hạt và trứng gia cầm, Số lượng hàng hóa nhập
khẩu sẽ được điều chỉnh thuế suất dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng
lực sản xuất trong nước. Ngoài ra còn có những quy định về việc cấp phép
nhập khẩu tùy ý đối với một số mặt hàng (đường,…)
Về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, chủ trương áp dụng bảng
giá tối thiểu và giá tham khảo để tính thuế nhập khẩu với một số mặt hàng:
rượu vang, rượu mạnh, gạch lát, v.v…
Về quyền kinh doanh XNK của các doanh nghiệp, quy định rõ:
doanh nghiệp FDI và cá nhân nước ngoài không được chuyên kinh doanh
XNK, mà doanh nghiệp FDI chỉ được nhập khẩu những mặt hàng qui định
trong giấy phép đầu tư nhằm phục vụ mục đích sản xuất của mình.
Về biểu thuế nhập khẩu: Ban hành biểu thuế xuất khẩu theo danh
mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế
suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng.
1.2 Những mặt tích cực
Những chính sách trên đã có tác động không nhỏ tới nền kinh tế đất
nước. Thực tế cho thấy những chính sách này được đặt ra có rất nhiều mặt
4
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thời kì hội
nhập.
• Trước tiên các chính sách trên giúp hạn chế những mặt hàng xa xỉ phẩm
vì một số mục đích xã hội. Nếu chính phủ cho phép nhập khẩu những

mặt hàng xa xỉ phẩm một cách tràn lan, không đánh thuế suất cao thì tài
sản đất nước (bao gồm cả tài sản của toàn dân, của các hãng, và của nhà
nước) sẽ không thể tập trung vào phát triển nền sản xuất. Trong khi đất
nước còn kém phát triển điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới tăng
trưởng kinh tế.
• Thứ hai, nhà nước có những qui định khắt khe về các mặt hàng như
rượu, thuốc lá, xì gà, vì đây là những mặt hàng thực tế nếu nhập nhiều
sẽ gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người.
• Thứ ba, Nhà nước có những chính sách hạn chế nhập với những mặt
hàng dệt may, ô tô, đã góp phần làm giảm cạnh tranh cho các doanh
nghiệp trong nước. Khi các doanh nghiệp trong nước chưa tạo được chỗ
đứng cho mình mà nhà nước cho phép các mặt hàng này được phép nhập
với thuế xuất thấp, không có hạn ngạch thì chắc chắn sản phẩm nhập sẽ
tràn lan trên thị trường, các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh
tranh nổi và tất yếu đi đến phá sản!
• Thứ tư, nó còn giúp Nhà nước quản lý lượng dự trữ tài nguyên quốc gia
như: than đá, kim loại màu, điện,….
Có thể thấy rõ các chính sách như trên không chỉ đem lại nguồn thu ngân
sách cho nhà nước mà còn bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, phục vụ một
số vấn đề vĩ mô của đất nước. Tuy nhiên, những chính sách này còn quá
nhiều những hạn chế.
1.3 Những mặt hạn chế
5
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
1.3.1 Sơ hở trong chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của
Nhà nước.
Để khuyến khích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước đã
có những chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế xuất nhập khẩu. Nhưng
những thiếu sót trong các ưu đãi này đã tạo kẽ hở cho doanh nghiệp lách luật
và gây một số điểm bất bình đẳng.

Một ví dụ là chính sách ân hạn thuế trong Luật thuế XNK có phần hơi
“thông thoáng”. Cụ thể, thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu
là 15 ngày, với nguyên phụ liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu là 275
ngày kể từ ngày ra thông báo nộp thuế. Đây là kẽ hở cho doanh nghiệp cho
những doanh nghiệp nhập khẩu nguyên phụ liệu. Họ có thể bán hết số
nguyên phụ liệu đã nhập về cho thị trường trong nước khi chưa hết hạn nộp
thuế. Sau đó họ giải tán doanh nghiệp để trốn cả thuế tiêu thụ nội địa lẫn
thuế nhập khẩu.
1
Bên cạnh đó, việc áp dụng nhiều mức thuế khác nhau với các nhãn
sản phẩm khác nhau cũng tạo điều kiện cho việc thừa cơ chuộc lợi của nhiều
công ty. Việc áp thuế cho xe 6 – 9 chỗ ngồi thấp hơn xe từ 6 chỗ trở xuống
làm doanh nghiệp hạn chế nhập xe con vì sợ chịu thuế cao. Hay đơn cử việc
áp dụng Bảng giá tối thiểu tính thuế nhập khẩu cũng dẫn đến doanh nghiệp
nhập hàng giá cao không có trong danh sách bảng giá này để hưởng lợi
nhuận. Minh chứng cho điều này là trường hợp của công ty Đông Nam.
Theo Quyết định 177 của Tổng cục Hải quan thì Bảng giá tối thiểu tính thuế
chỉ quy định các loại Nokia 3210, 5110, 5510 (90 USD/chiếc), 6110, 6150,
8210 (120 USD/chiếc), 8810, 8850 (190 USD/chiếc), 9910 (400
USD/chiếc); còn các loại khác (chưa quy định) chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc.
1 />6
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Doanh nghiệp Đông Nam đã lợi dụng kẽ hở này, cho nhập ồ ạt các nhãn điện
thoại Nokia như 8250, 8855, 8310,8910 là những sản phẩm giá cao nhưng
chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc. Như vậy áp dụng bảng giá tính thuế còn nhiều
bất cập vì các sản phẩm thường ra các dòng mới liên lục và thường đắt hơn
những loạt trước đấy. Trong khi đó, bảng giá chậm cập nhập nên những mặt
hàng mới này lại chỉ chịu thuế thấp.
2
Một sơ hở nữa là vấn đề thanh toán. Tại các công văn số 1482/TC/TCT ngày

11-4-2000, số 5957/TC/TCT ngày 9-6-2003, số 8282/TC/TCT ngày 12-6-
2003, Bộ Tài chính có đưa ra ưu đãi thuế GTGT với hàng xuất nhập khẩu:
Nếu được thanh toán qua ngân hàng thì chỉ chịu mức thuế suất 0%. Nhiều
hợp đồng kinh doanh có giao dịch bằng giấy tờ có giá nhưng làm hợp đồng
danh nghĩa là thanh toán qua ngân hàng để không phải chịu thuế. Ví dụ: Tại
Nghệ An, khi kiểm tra sau thông quan 6 doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá
qua cửa khẩu Móng Cái, ô 20 đều ghi thanh toán qua ngân hàng nhưng khi
cán bộ hải quan đến ngân hàng thương mại Móng Cái để xác minh thì đã
phát hiện một số doanh nghiệp không thanh toán qua ngân hàng.
3
1.3.2 Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả
Hiện nay thủ tục khai báo và thu nộp thuế tại Hải quan còn khá rườm
rà. Việc càng nhiều khâu, nhiều quy trình đồng nghĩa với càng nhiều khe hở
để xảy ra hiện tượng gian lận và trốn thuế. Tại hầu hết các khâu, các lĩnh vực
trong quá trình làm thủ tục Hải quan đều xảy ra hiện tượng gian lận thương
mại, cụ thể như: Khai báo không đúng tên hàng, khai báo nhiều chủng loại
hàng hoá với một tên hàng để áp mã có mức thuế suất thấp; làm giả C/O để
2 />3 Báo Hải quan 31/05/2004
7
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt; Khai báo không đúng giá trị thực
thanh toán để gian lận trị giá; bán nguyên phụ liệu, thành phẩm ra thị trường
nội địa đối với loại hình nhập khẩu đầu tư gia công sản xuất - xuất khẩu để
trốn thuế với số lượng lớn…
4
Ngoài ra, sự thiếu nhất quán trong quản lý cũng gây khó khăn cho
việc nộp thuế của các doanh nghiệp, khiến cho nguy cơ gian lận thuế càng
tăng. Đơn cử như trường hợp Bảng giá tính thuế tối thiểu nói trên, Tổng cục
Hải quan cho phép: ''Đối với mặt hàng nhập khẩu không có hợp đồng, mặt
hàng nhập khẩu có hợp đồng có trị giá tính thuế ước tính dưới 20 triệu đồng,

thì Cục trưởng uỷ quyền cho Chi cục trưởng ra quyết định xây dựng, sau đó
báo cáo Cục Hải quan tổng hợp ban hành áp dụng thống nhất trong Cục và
báo cáo Tổng cục Hải quan''. Các doanh nghiệp ái ngại không chỉ vì mỗi chi
cục tính giá mỗi khác, mà ngay khi Cục Hải quan tổng hợp từ các chi cục để
ban hành bảng giá áp dụng thống nhất thì cũng không áp dụng hồi tố, các
doanh nghiệp đã đóng thuế rồi thì không được áp mức giá thống nhất ấy.
Việc xây dựng giá cũng tạo kẻ hở cho tiêu cực.
5
Thêm nữa, nhiều cán bộ hải quan còn thiếu sự nhạy bén và hiểu biết
tường tận về Luật thuế XNK. Điều này dẫn đến không phát hiện được hành
vi gian lận thuế.
1.3.3 Mức thuế suất còn khá cao
Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
6
4 />5 />6 “Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng người tiêu
dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới lên bằng với
giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu”.
8
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Mức thuế còn khá cao so với nhiều nước trong ASEAN và trên thế
giới. Để bảo vệ sức mạnh của hàng hoá trong nước, nhà nước đã áp dụng
mức thuế cao. Nhưng điều này gây khó khăn cho nhiều mặt hàng nhập khẩu
có nhu cầu lớn.
Có thể xem xét mặt hàng sữa nhập khẩu tại Việt Nam là một ví dụ.
Theo đánh giá của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp
nông thôn, giá sữa bán lẻ ở Việt Nam đứng ở mức cao nhất thế giới. Tính
bình quân cho các nước Bắc Mỹ, châu Đại Dương, Trung Quốc, Israel và
EU là 0,8 USD/kg; các nước thuộc khu vực Đông Âu, Nam Mỹ có mức giá
trung bình thấp nhất là 0,4 USD/kg. Trong khi đó, giá sữa bán lẻ Việt Nam
lại lên đến 0,82 USD/kg.

Tóm lại các chính sách như trên đã kìm hãm sự phát triển của các doanh
nghiệp chuyên kinh doanh XNK, hạn chế sự phát triển một số mặt hàng, làm
tăng giá cả trên thị trường, giảm tính cạnh tranh của thị trường. Ngoài ra,
9
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
cách tính trị giá nhập khẩu chưa hợp lý sẽ làm mất đi sự công bằng của luật
thuế.
2. Một số cải cách về thuế XNK trên tiến trình gia nhập WTO
Trong quá trình đàm phán đa phương để gia nhập WTO, các thành viên
đã đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách kinh tế ở Việt Nam. Trong đó
có rất nhiều đề xuất liên quan đến thuế xuất nhập khẩu và hải quan. Đó là:
• Xúc tiến việc thành lập hệ thống thuế hải quan minh bạch dựa trên
Biểu thuế thống nhất của ASEAN.
• Thông tin và giải thích cụ thể về cụm từ "Những khoản thuế và
phụ thu khác", như các loại thuế và khoản thu tài chính (Ngoài
thuế hải quan) áp dụng đối với nhập khẩu những sản phẩm không
sản xuất trong nước.
• Áp dụng thuế nội địa - đặc biệt là các mức thuế đặc biệt đánh vào
các mặt hàng thuốc lá và bia. .
• Huỷ bỏ mức giá nhập khẩu tối thiểu. áp dụng những qui định về
xác định mức giá hải quan theo WTO.
7
Và trên thực tế để đẩy nhanh quá trình vào WTO, Việt Nam đã thực hiện
một số cải cách quan trọng về thuế nói chung và thuế XNK nói riêng. Tính
đến cuối năm 2002, Việt Nam đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với
167 nước, quan hệ ngoại thương với hơn 155 nước; khai thông các quan hệ
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB (1992);gia nhập
các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN (1995); gia nhập APEC
(1998) Việt Nam cũng đã ký kết được 82 hiệp định thương mại song
phương, 42 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đã thiết lập được mối

7 />type=1&hoinhap=1&SubId=1&NewsId=7723
10
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
quan hệ thương mại với nhiều nước lớn trên thế giới, đặc biệt là ký kết Hiệp
định thương mại Việt Mỹ vào 7/2000
Hệ thống kế hoạch hoá ngoại thương cứng nhắc của Việt Nam đã được
cải cách theo xu hướng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
∗ Về cơ chế nhập khẩu:
Chính phủ đã sử dụng những công cụ chính sách thông thường như thuế
quan, côta, cấp giấy phép nhập khẩu.
Thuế quan: Việt Nam đã đạt được những bước cắt giảm thuế quan rất
quan trọng kể từ năm 1996 khi tiến hành gia nhập AFTA. Trong quá trình
hội nhập kinh tế khu vực, Việt Nam đã cam kết cắt giảm thuế quan đối với
5.505 sản phẩm, trong đó có 80% sản phẩm cắt giảm ở mức thuế 0-5% và
20% sản phẩm ở mức thuế trên 5%. Khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ
chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với
244 mặt hàng trong vòng 3-6 năm với mức thuế giảm bình quân từ 35%
xuống còn 26% (trong đó có 80% là sản phẩm nông nghiệp). Cũng theo cam
kết này, Việt Nam đang tiến hành bãi bỏ ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ
nội địa hoá và dần dần tháo bỏ việc áp dụng chế độ thu phí và lệ phí liên
quan đến hàng hoá XNK. Tuy nhiên, Việt Nam hiện duy trì thuế suất, thuế
nhập khẩu trung bình đối với hàng nông sản là khoảng 25%, với thuế suất
đỉnh lên đến từ 40% đến 100% áp dụng cho hoa quả tươi, đường kính, ngũ
cốc, rượu vang, bia, thuốc lá Mà theo quy định của WTO, các nước xin gia
nhập thường phải giảm thuế suất trung bình đối với hàng nông sản xuống
còn khoảng 20%, đối với hàng chế tạo còn 10%.
Hệ thống miễn thuế nhập khẩu hàng hoá cũng được chính phủ áp
dụng, đặc biệt đối với hai loại hàng hoá chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng
hoá trung gian phục vụ sản xuất hoặc các hàng hoá lắp ráp sử dụng để xuất
11

Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
khẩu. Hệ thống pháp luật phục vụ các hoạt động chế biến xuất khẩu ở Việt
Nam được thành lập năm 1991 thông qua những quy định về việc thành lập
các khu chế xuất. Hệ thống này đang dần dần đưa Việt Nam lại gần với thị
trường thế giới hơn, tránh được sự bóp méo và kiểm soát nhập khẩu như
trước đây. Nhờ đó, hoạt động sản xuất và chế biến xuất khẩu của Việt Nam
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Các hàng rào phi thuế quan: Chính phủ đã sử dụng một loạt các biện
pháp phi thuế quan để kiểm soát và điều tiết nhập khẩu. Hệ thống cấp giấy
phép nhập khẩu và côta thực sự được nới lỏng khi hệ thống danh mục hàng
XNK chịu thuế được đưa vào áp dụng năm 1992 theo nghị định 114-HĐBT.
Theo Nghị định này, số lượng mặt hàng nhập khẩu phải chịu quản lý bằng
hạn ngạch đã giảm đáng kể, và mọi hàng hoá đều được tự do XNK và chịu
điều tiết bằng thuế XNK, trừ danh mục hàng cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu,
danh mục hàng XNK được quản lý bằng hạn ngạch. Hiện tại, Việt Nam đang
cố gắng loại bỏ hạn ngạch, côta theo đúng tiến trình thực hiện hiệp định
thương mại Việt - Mỹ, hạn chế các khoản phụ phí nhập khẩu, ban hành
những quy định mới về giá trị tính thuế hải quan, và mở rộng quyền kinh
doanh XNK đối với các hình thức doanh nghiệp khác ngoài thành phần kinh
tế Nhà nước.
Những hạn chế về quyền giao dịch thương mại truyền thống cũng là
một trong những hàng rào phi thuế quan quan trọng mà chính phủ đã sử
dụng. Quyền giao dịch buôn bán, thường được gọi là thương mại Nhà nước,
đơn giản là quyền XNK hàng hoá, đã được nới lỏng. Trước năm 1986, quyền
XNK hàng hoá chủ yếu nằm trong tay Nhà nước dưới dạng những tổng công
ty XNK mang tính chất độc quyền. Luật thuế XNK ra đời (1988) đã nới lỏng
hơn đối với việc thành lập các tổ chức thương mại nước ngoài, và việc Nhà
12
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
nước độc quyền ngoại thương đã chấm dứt. Các tổ chức, các công ty thuộc

nhiều thành phần kinh tế của Việt Nam đã được phép tham gia các hoạt động
thương mại quốc tế. Trong những năm sau đó, quyền tham gia kinh doanh
nhập khẩu của các doanh nghiệp được mở rộng hơn. Mọi doanh nghiệp đều
có thể được cấp giấy phép kinh doanh XNK nếu đảm bảo một số điều kiện
như phải có mức vốn lưu động tối thiểu là 200.000 USD, hoạt động đúng
ngành hàng đăng ký, và không hạn chế kim ngạch nhập khẩu Cho đến
năm 1998, theo nghị định 57/1998/NĐ-CP, những quy định về các điều kiện
kinh doanh XNK đề ra trước đây đã được bãi bỏ hoàn toàn nhằm khuyến
khích hơn nữa các thành phần doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK.
∗ Về cơ chế xuất khẩu
Cải cách cơ chế xuất khẩu của nước ta cũng có những thành tích nổi bật
như cải cách hệ thống quản lý nhập khẩu. Hệ thống lập kế hoạch xuất khẩu
trực tiếp mang tính cứng nhắc dần được thay thế bằng những hoạt động phi
tập trung hoá và theo cơ chế thị trường. Xu hướng thờ ơ và không coi trọng
xuất khẩu của hệ thống thương mại trước cải cách dần dần đã được huỷ bỏ
vì chính phủ phi tập trung hoá hoạt động ngoại thương và đưa vào thực hiện
các chính sách tỷ giá hối đoái không đối xử phân biệt với hàng xuất khẩu.
Mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu: Thay đổi quan trọng nhất là
mở rộng quyền kinh doanh thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Như trên
đã đề cập, quyền kinh doanh XNK đã được nới lỏng, và ngay cả những mặt
hàng thiết yếu Nhà nước cũng không có chủ trương độc quyền hoàn toàn về
kinh doanh XNK. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn
thuế doanh thu, nếu doanh nghiệp dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng
xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp sản xuất hàng cần
thay thế nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời
13
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
gian sản xuất ban đầu; các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài
được nhập khẩu miễn thuế thiết bị vật tư phục vụ sản xuất. Kể từ năm 1998,
những ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu được mở rộng hơn. Theo Nghị

định 57/1998/NĐ-CP Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
phép xuất khẩu những mặt hàng không nêu trong giấy phép đầu tư của mình.
Còn các doanh nghiệp trong nước thì được quyền xuất khẩu sản phẩm trực
tiếp mà không cần có giấy phép XNK.
Tháo dỡ hạn ngạch xuất khẩu: Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, trừ một số mặt hàng thiết yếu đặc biệt là
gạo. Trong Bản ghi nhớ về chế độ ngoại thương nộp cho WTO, gạo là nông
sản duy nhất bị áp dụng hạn ngạch xuất khẩu vì lý do an ninh lương thực
quốc gia. Cùng với đó, cải cách thuế xuất khẩu cũng được thực hiện. Ví dụ,
thuế xuất khẩu đối với gạo đã giảm từ 2%/năm (1997) xuống còn 0%/năm
(1998). Tuy nhiên, là một nước đang phát triển nghèo, Việt Nam không phải
đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6 năm
khi gia nhập WTO.
Cải cách ngoại hối: Cải cách giá cả và phân bổ ngoại hối là một yếu tố
khác rất quan trọng liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu trong những năm
qua. Trong giai đoạn trước cải cách, nhà nước đã cố định tỷ giá theo hướng
định giá cao đồng nội tệ để trợ cấp nhập khẩu các hàng hoá ưu tiên có hàm
lượng vốn cao mà trong nước chưa thể sản xuất được. Vào cuối thập kỷ
1980, nhà nước đã thay đổi dần các yếu tố này của hệ thống ngoại hối, cơ
chế hai tỷ giá đã được xoá bỏ để thay thế bằng cơ chế một tỷ giá chủ đạo là
tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các quy định về kết hối ngoại
tệ cũng được nới lỏng, các quy định về quản lý dự trữ ngoại hối đã có sự
thay đổi, và các nghiệp vụ thị trường mở đang được xem xét áp dụng. Chính
14
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
sách tỷ giá trong thời gian qua đã có những điều chỉnh, phân theo ba giai
đoạn sau:
 Thời kỳ thứ nhất: 1988-1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa dần các yếu tố thị
trường vào cơ chế xác định tỷ giá.
 Thời kỳ thứ hai: 1992-1997 (trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền tệ),

tỷ giá được ấn định và điều chỉnh gần như cố định để kiềm chế lạm phát, ổn
định thị trường tài chính tiền tệ và thu hút đầu tư nước ngoài.
 Thời kỳ thứ ba: từ sau khủng hoảng đến nay, chính phủ đã có những điều
chỉnh có tính chủ động hơn để khắc phục khủng hoảng và tránh đồng Việt
Nam bị định giá quá cao.
Chính sách tỷ giá như trên đã có tác động tích cực đến ngoại thương,
đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu. Đồng tiền đã được định giá ngày càng
sát với giá trị thực của nó. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái như hiện nay vẫn cần
phải có sự điều chỉnh hơn nữa, tiến tới tự do hoá tỷ giá trong giai đoạn sớm
nhất.
Hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp: Hiệp định
nông nghiệp của WTO yêu cầu các nước phải giảm các hình thức trợ cấp
bóp méo thương mại. Hiệp định nông nghiệp của WTO đã chia trợ cấp thành
4 nhóm: trợ cấp hộp xanh lơ, trợ cấp hộp xanh lá cây, trợ cấp hộp vàng và
trợ cấp hộp đỏ. Trợ cấp thuộc diện hộp xanh lơ và xanh lá cây là các biện
pháp trợ cấp được phép mà không phải chịu sự điều chỉnh. Trợ cấp hộp vàng
ảnh hưởng đến thương mại, phải ràng buộc và cam kết điều chỉnh. Trợ cấp
hộp đỏ bị cấm và phải loại bỏ khi đã trở thành thành viên chính thức của
WTO. Ở Việt Nam, trợ cấp hộp vàng trước kia được sử dụng để hỗ trợ nông
phẩm thông qua Quỹ bình ổn giá. Gần đây, Quỹ này được đổi tên là Quỹ hỗ
15
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
trợ xuất khẩu. Tổng trợ cấp tính gộp hàng năm của Việt Nam trong thời kỳ
1996-1998 là khoảng 1.644,84 tỷ VND. Gạo, đường, thịt lợn, bông, gia súc,
gia cầm, dứa là những đối tượng được hưởng những khoản trợ cấp này. Tuy
nhiên, lượng tiền hỗ trợ này của Việt Nam được WTO coi là thấp, chưa cần
phải cắt giảm trong giai đoạn hiện nay.
Bảng 1: Mức thưởng theo kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng năm 2002
Mặt hàng Mức
thưởng

(đ/USD)
Mặt hàng Mức thưởng
(đ/USD)
Gạo các loại 180 Cà phê nhân 220
Thịt lợn sữa 280 Cà phê hoà tan, cà phê bột 100
Thịt lợn miếng 900 Rau quả hộp 400
Thịt gia súc, gia cầm 100 Rau quả tươi, sấy khô và sơ chế 100
Chè 220 Lạc nhân 100
Hạt tiêu 100 Hạt điều 100
Thủ công mỹ nghệ 100 Hàng mây tre lá 100
Đồ nhựa 100 Hàng cơ khí 100
Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn lớn về thuế XNK cần giải
quyết. Trong chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu, Việt
Nam đã đạt được những kết quả to lớn. Tốc độ tăng trưởng XNK trong giai
đoạn 1991-2000 là 18,4%, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần.
Xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã
qua chế biến tăng nhanh (từ 8% năm 1991 lên 31,4% năm 2002). Tăng
trưởng xuất khẩu chủ yếu được dựa vào việc khai thác các nguồn lực tương
đối dễ dàng, cần ít vốn đầu tư, hoặc cần đến vốn đầu tư của bên ngoài (FDI),
và gắn liền với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn như gạo, cà phê, thuỷ
sản, dệt may, dầu thô, điện tử Tuy nhiên, trong thực tế, mô hình thương
mại của Việt Nam trong thời gian qua có xu hướng nghiêng về thay thế nhập
16
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
khẩu. Nhà nước đã khuyến khích đầu tư phát triển các ngành công nghiệp
thay thế nhập khẩu và đa số các dự án FDI được phê duyệt là giành để sản
xuất các sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Năm 1997, số ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu được nhà nước tập trung đầu tư là 11 ngành,
trong khi số ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu là 3 ngành. 9 tháng
đầu năm 2002, con số này tương ứng là 18 ngành và 2 ngành. Năm 2002,

tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đạt 5,1%/năm trong khi tăng trưởng
nhập khẩu đạt 10,8%/năm. Trong xu thế giá cả thế giới ngày càng giảm sút,
xuất khẩu hàng hoá của Việt nam có nguy cơ càng sản xuất nhiều càng thua
lỗ nặng. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước còn chiếm tỷ lệ khá
lớn cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến mô hình thương mại của Việt
nam trong thời gian qua. Xu hướng bảo hộ mậu dịch đi ngược với định
hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua
thiệt khi tiến hành tự do hoá thương mại theo quy định của WTO.
Bảng 2: Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế (%)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Xuất khẩu 33,2 26,6 1,9 23,3 25,5 3,8 5,1
Nhập khẩu 36,6 4,0 -0,8 2,1 33,2 3,4 10,8
GDP 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,8 7,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
Ngoài ra, mức thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của Việt Nam
còn cao. Điều này có tác dụng bảo hộ các doanh nghiệp và các ngành công
nghiệp non trẻ trong nước, tuy nhiên đã làm cho biểu thuế của Việt Nam
phức tạp, chồng chéo, khó quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trốn
thuế, lậu thuế. Ngoài ra, việc áp dụng tính giá tính thuế tối thiểu như hiện
nay của Việt Nam chưa phù hợp với những quy định của WTO. Hiện tại,
17
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
chúng ta vẫn sử dụng các công cụ phi thuế quan như cấm, tạm ngưng, hạn
ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và những công cụ này
sẽ phải cắt giảm và tiến tới xoá bỏ khi gia nhập WTO.
II/ Những đổi mới thuế XNK sau khi Việt Nam gia nhập WTO
1. Đổi mới trong các chính sách của Nhà nước:
Thực hiện các chính sách về thương mại hàng hóa: thương mại không
phân biệt đối xử, tự do hóa thương mại, cạnh tranh công bằng, chính sách
minh bạch và một số ngoại lệ.

Về thương mại không phân biệt đối xử, thực hiện đối xử tối huệ quốc
(MFN) tức là đối xử bình đẳng giữa hàng hóa xuất khẩu từ các nước thành
viên WTO liên quan đến thuế xuất, nhập khẩu, thuế nội địa, qui định liên
quan đến XNK và bán hàng trong nước. (Ngoại lệ: Khu vực mậu dịch tự do,
GSP).Chính sách đối xử quốc gia (NT): đối xử bình đẳng giữa hàng hóa sản
xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu tương tự về chính sách thuế nội địa,
các qui định liên quan đến bán hàng trong nước.
Về tự do hóa thương mại, cấm áp dụng hạn chế định lượng XNK (VD:
cấm nhập khẩu, hạn ngạch, cấp phép nhập khẩu tùy ý. Sau khi gia nhập
WTO, không được tăng thuế nhập khẩu lên cao hơn mức đã ràng buộc ở
Biểu cam kết thuế.
Về thương mại công bằng, cấm áp dụng trợ cấp dựa vào thành tích xuất
khẩu hoặc sử dụng hàng nội địa thay cho hàng nhập khẩu; áp dụng thuế đối
kháng khi hàng nhập khẩu được trợ cấp gây thiệt hại vật chất cho ngành sản
xuất trong nước của nước nhập khẩu; áp dụng thuế chống bán phá giá khi
hàng nhập khẩu được bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản
18
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
xuất trong nước. Ngoài ra còn có các biện pháp tự vệ và những quy định về
doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Thực hiện những cam kết đa phương và những cam kết về việc mở
cửa thị trường: cam kết cắt giảm thuế quan, cam kết về hạn ngạch thuế
quan, cam kết mở của thị trường dịch vụ,…
Trước hết là cam kết về quyền kinh doanh XNK, quy định: Doanh nghiệp
và cá nhân nước ngoài được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu như doanh
nghiệp và cá nhân VN kể từ khi gia nhập (trừ một số trường hợp cụ thể);
được đăng ký quyền XNK tại VN mà không cần có hiện diện; có quyền nhập
khẩu (không bao gồm quyền phân phối) tức là được nhập khẩu hàng hóa và
bán cho doanh nghiệp, cá nhân có quyền phân phối ở Việt Nam.
Về thuế nội địa, Việt Nam cam kết: trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập

WTO: áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc phần trăm thuế TTĐB thống
nhất với rượu trên 20 độ cồn,
8
một mức thuế phần trăm thuế TTĐB với bia.
Về hạn chế số lượng hàng nhập khẩu, cam kết: không áp dụng hạn
ngạch nhập khẩu; xóa bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với xe máy phân khối lớn
(31/5/2007), ô tô cũ sản xuất 5 năm trở lại nhưng đánh thuế nhập khẩu cao,
thuốc lá điếu, xì gà, các sản phẩm chứa phần mềm mã hóa lưu thông rộng rãi
trên thị trường; chỉ kiểm duyệt nội dung văn hóa phẩm ở lô hàng nhập khẩu
đầu tiên.
Về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, áp dụng Hiệp định về xác
định trị giá tính thuế của WTO (CVA) kể từ khi gia nhập: lấy giá trị để tính
thuế nhập khẩu theo giá trị giao dịch thực tế; bỏ bảng giá tối thiểu,…
8 Chính sách thuế TTĐB của VN trước khi gia nhập:
Rượu 40
o
trở lên: 65%
Rượu từ 20
o
đến dưới 40
o
: 30%
Bia chai và bia lon: 75%
Bia tươi và bia hơi: 30%
19
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, bãi bỏ trợ cấp nông nghiệp (về
trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa).
Đối với các đặc khu kinh tế: tuân thủ các nguyên tắc của WTO và cam
kết về trợ cấp bị cấm, thuế nội địa, các biện pháp đầu tư liên quan đến

thương mại trong các đặc khu này: các doanh nghiệp sẽ không cần phải đáp
ứng các điều kiện về xuất khẩu hay tỷ lệ nội địa hóa khi đầu tư vào các khu
này; hàng hóa khi nhập vào và xuất ra khỏi các khu này sẽ chịu sự điều
chỉnh của các quy định (về thuế, về thủ tục hải quan v.v.) theo đúng các quy
định của WTO và cam kết của Việt Nam.
Những cam kết về thuế quan: những điều chỉnh về biểu thuế nhập khẩu
MFN
9
, cắt giảm thuế quan theo ngành
10
(cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các
sản phẩm của một ngành); áp dụng hạn ngạch thuế quan với nông sản (dưới
mức hạn ngạch: thuế suất thấp, trên mức hạn ngạch: thuế suất cao), bảo đảm
việc áp dụng, phân bổ và quản lý hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch,
không phân biệt đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định của WTO.
2. Khung thuế xuất nhập khẩu 2008:
Theo Bộ Tài chính, hiện nay các nước ASEAN đã xây dựng và thống
nhất áp dụng Danh mục AHTN 2007 làm cơ sở để xây dựng Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi. VN cũng đã áp dụng Danh mục Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
mới từ ngày 1/1/2008.
9 Biểu thuế nhập khẩu MFN: Phần I
- Giảm bình quân từ 17,4% à 13,4%
- Nông sản: 23,5% à 20,9%
- Công nghiệp: 16,8% à 12,6%
- Giảm nhiều nhất: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện -
điện tử
10 Tham gia 100%: sản phẩm công nghệ thông tin (0%), dệt may (13,2%) và thiết bị y tế (0%)
Tham gia từng phần: thiết bị khoa học, thiết bị xây dựng
20
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46

Theo đó, Biểu khung thuế xuất khẩu mới được xây dựng nhằm tiếp
tục thực hiện mục tiêu hạn chế xuất khẩu những sản phẩm thô, khuyến khích
sử dụng nguyên liệu để tái chế và về cơ bản vẫn giữ nguyên khung thuế suất
với hầu hết các nhóm hàng chịu thuế.
Khung thuế suất trần của một số nhóm hàng được điều chỉnh tăng lên
là dầu mỏ (từ 0-8% lên 0-20%); than đá (từ 0-5% lên 0-20%); quặng kim
loại (từ 0-3%; 0-5% và 5-20% lên thành 0-20%) nhằm định hướng hạn chế
xuất khẩu nguyên liệu thô và tập trung cho sản xuất trong nước là chính.
Các mặt hàng được giảm thuế suất trần và sàn là nhóm hàng phế liệu
sắt thép (từ 30-40% xuống 10-30%); phế liệu kim loại màu (từ 40-50%
xuống còn 10-40%) để phù hợp với cam kết gia nhập WTO.
Trên cơ sở Biểu khung thuế nhập khẩu gồm 1.221 nhóm mặt hàng
hiện hành, Bộ Tài chính đã ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi với 10.680
dòng thuế chi tiết và theo cam kết WTO, VN ràng buộc với toàn bộ biểu
thuế này.
Hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm có thuế suất cam kết thấp hơn mức
trần, chỉ một số mặt hàng có mức cam kết thấp hơn mức thuế sàn của khung
thuế suất. Do đó, Biểu khung thuế nhập khẩu ưu đãi mới sẽ giảm mức thuế
suất trần khung của 1.149 nhóm hàng (chiếm 94%) để phù hợp với cam kết
WTO và những nhóm hàng mà mức khung thuế suất hiện hành đang cao hơn
nhiều so với thực tế áp dụng.
Giảm mức thuế suất sàn khung của 202 nhóm hàng (chiếm khoảng
16,5% trong Biểu khung) để thực hiện cam kết gia nhập WTO và lộ trình cắt
giảm thuế nhập khẩu trong điều kiện thực hiện các cam kết quốc tế, đồng
thời góp phần giảm thuế đầu vào đối với những nhóm nguyên vật liệu phục
21
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
vụ sản xuất. Mức sàn khung của 1.019 nhóm hàng khác vẫn được giữ
nguyên.
Cũng theo Bộ Tài chính, biểu khung thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện

hành đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng để đảm bảo phù hợp với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải sửa đổi.
Trước hết, vì theo cam kết gia nhập WTO, hầu hết các mức thuế của
những mặt hàng trong Biểu thuế NK ưu đãi đều thấp hơn mức trần của
khung và nhiều mặt hàng có mức thuế suất cam kết thấp hơn mức sàn của
khung. Do đó, để phù hợp với cam kết, chúng ta phải hạ các mức thuế suất
trần và sàn.
Thứ hai, từ năm 2008, VN phải thực hiện Danh mục Biểu thuế chung
ASEAN mới (AHTN 2007) đã được các nước xây dựng trên Hệ thống mô tả
và mã hàng hóa HS2007 của Tổ chức Hải quan thế giới, trong đó mô tả của
nhiều nhóm mặt hàng đã được thay đổi so với Danh mục biểu thuế mà chúng
ta đang áp dụng.
Ngoài ra, Biểu khung thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi mới cũng
được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo thực hiện chính sách bảo hộ sản
xuất trong nước có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn; ổn định khung thuế
suất đối với những nhóm mặt hàng đang được thực hiện có hiệu quả và phù
hợp với cam kết quốc tế.
Tháng 5/2008, Bộ Tài chính cân nhắc phương án giảm thuế nhập
khẩu từ mức 15% xuống 5 hoặc 0% đối với mặt hàng xăng dầu phục vụ
lĩnh vực hàng không, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà vận chuyển
trong bối cảnh giá thế giới không ngừng tăng cao.
Theo Bộ Tài chính, giá nhiên liệu thế giới liên tục tăng cao trong thời
gian qua khiến các hãng vận tải hàng không như Vietnam Airlines, Pacific
22
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
Airlines bị lỗ trên các chuyến nội địa. Trong khi đó thuế nhập khẩu đối với
mặt hàng xăng dầu phục vụ hàng không vẫn giữ nguyên thuế suất nhập khẩu
15% trong nhiều năm qua.
Một quan chức Bộ Tài chính cho hay trong lúc Chính phủ yêu cầu các
đơn vị này tiếp tục giữ giá vé, đồng thời khống chế mức giá trần cho các trục

bay nội địa là 1,7 triệu đồng, giảm thuế nhiên liệu đầu vào là việc làm tốt
nhất có thể nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Các mức thuế đang được xem xét và ban hành trong thời gian sớm
nhất.
Tháng 6/2008, Bộ Công Thương có văn bản gửi Bộ Tài chính đề
nghị tăng thuế nhập khẩu đối với xe máy phân khối lớn, mỹ phẩm, điện
thoại di động và rượu. Riêng mặt hàng ôtô con được đề nghị nâng thuế
tiêu thụ đặc biệt từ 50% lên 60-70%.
Đối với mặt hàng mỹ phẩm, Bộ Công Thương cho biết, hiện nay kim
ngạch nhập khẩu nhóm hàng này không lớn, khoảng 27 triệu USD trong qúy
I, tăng trên 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên, đây là nhóm hàng đã
có sản xuất trong nước, không phải là hàng tiêu dùng thiết yếu, không
khuyến khích nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Công Thương đề nghị điều chỉnh thuế
đối với mỹ phẩm bình thường sẽ tăng từ 15-30% lên 20-40%; chế phẩm
dùng cho tóc tăng từ 15-32% lên 30-35%; chế phẩm dùng cho răng, miệng
có tăng từ 30% lên 40%.
Đối với điện thoại di động, theo Bộ Công Thương, quý I, kim ngạch
nhập khẩu điện thoại di động khoảng 273 triệu USD, trong đó trên 50%
nhập khẩu từ Trung Quốc (thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là 0%),
khoảng 17% nhập khẩu từ các nước ASEAN và Hàn Quốc (thuế suất ưu đãi
23
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
đặc biệt 5%), trên 31% còn lại được nhập khẩu từ các nước khác với mức
thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành 5%.
Với tốc độ nhập khẩu hiện nay, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này cả
năm 2008 có thể lên đến 1,2-1,3 triệu USD. Việc hạn chế nhập khẩu mặt
hàng này gặp khó khăn do đã cam kết dành ưu đãi thuế quá mạnh (0% và
5%) cho một số thị trường hết sức cạnh tranh là Trung Quốc và Hàn Quốc.
Để hạn chế nhập khẩu từ các thị trường còn lại với thị phần khoảng
30%, Bộ Công Thương đề nghị Bộ Tài chính tăng thuế suất thuế nhập khẩu

ưu đãi từ mức 5% hiện hành lên 8% là mức trần cam kết theo lộ trình trong
WTO.
Ngày 4/8/2008, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) đã gửi công văn mời các doanh nghiệp và hiệp hội tham gia góp
ý cho dự thảo sửa đổi khung thuế xuất khẩu. Dự thảo này do Bộ Tài
Chính đưa ra.
Theo đó, tăng mức trần thuế xuất khẩu hàng loạt mặt hàng như gạo,
dầu thô, sắt thép để khi cần thiết thì Bộ Tài Chính có thể áp dụng mức thuế
trần mới.
Đồng thời, nhiều mặt hàng hiện không chịu thuế xuất khẩu sẽ được
đưa vào biểu thuế này để đánh thuế như phân bón, một số khoáng sản, vàng
bạc Mức sàn thuế xuất khẩu hầu như không thay đổi.
Ngày 6/10/2008, Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế xuất khẩu
thép xuống 5%, áp dụng cho các tờ khai hải quan kể từ ngày 7/10/2008.
Theo Quyết định số 84/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi mức thuế suất
thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng sắt thép không hợp kim của biểu
thuế xuất khẩu do Bộ Tài chính ban hành ngày 6/10, thuế suất thuế xuất
khẩu đối với mặt hàng sắt, thép thuộc phân nhóm 7204.50.00.00 và thuộc
24
Thuế XNK ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập Nhóm TT lớp Anh 5-TCQTB-K46
các nhóm 7206 và 7207 từ 10% (quy định tại Quyết định số 64/2008/QĐ-
BTC ngày 1/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) được điều chỉnh xuống
còn 5%.
3. Thành công của những đổi mới
Đầu tiên phải nói đến chính là vị thế thành viên WTO sẽ giúp chúng ta
tăng cường trao đổi thương mại, tăng lượng FDI (đầu tư nước ngoài) chảy
vào Việt Nam. Nếu nhập khẩu tăng sẽ dẫn đến việc làm giảm, còn xuất khẩu
tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn và Việt Nam cần
có chính sách tăng cường xuất khẩu, tận dụng những cơ hội mà WTO mang
lại. Ngoài ra, xét trên một khía cạnh nào đó, thì nhập khẩu cũng đóng vai trò

như một động lực không kém phần quan trọng tạo thêm nhiều việc làm mới.
Nhập khẩu là kênh nhập đầu vào cho nhiều ngành kinh tế mũi nhọn của
chúng ta. Trên thực tế, ngành dệt may và da giày, hai ngành thu hút rất nhiều
lao động hiện phải nhập 70% đến 80% nguyên liệu, nếu không có số nguyên
liệu này, họ không thể hoạt động, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu và tất yếu
công nhân sẽ bị đẩy ra đường. Bên cạnh đó ta còn nhập khẩu nhiều loại máy
móc vật tư, tạo tiền đề cho nhiều ngành doanh nghiệp sản xuất phụ tùng thay
thế hàng nhập khẩu. Nếu nhập khẩu hiệu quả sẽ góp phần nuôi dưỡng nền
kinh tế.
Thứ hai, gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông
sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/ năm). Nông sản, thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng
rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi
từ việc chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm năng cao hiệu quả sản xuất.
Công nghệ mới của các tập đoàn đa quốc gia sẽ được du nhập vào nước ta.
Mức tăng trưởng xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3%
25

×