Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm qua.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.67 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTT KINH TẾ
BÀI THẢO LUẬN MÔN NHẬP MÔN TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI:
Đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm qua.
Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà Chính Phủ Việt Nam đã và
đang thực hiện.
Giảng viên hướng dẫn : CN. Nguyễn Hữu Thao
Nhóm thực hiện : Nhóm 2
Mã lớp học phần : 1452EFIN2811
Hà Nội, 10/2014
KHOA HTTT KINH TẾ

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu khá nổi bật như tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, giảm tỷ lệ
đói nghèo trong dân cư xuống mức thấp, đời sống của người dân đạt được nhiều
cải thiện so với cách đây hơn 20 năm. Tuy nhiên thực tế cho thấy nền kinh tế
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng lạm phát cao, tình
trạng thâm hụt thương mại và nợ chính phủ cũng như nợ quốc gia tăng cao. Đặc
biệt khó khăn lớn hiện nay đối với nền kinh tế Việt Nam chính là tình trạng lạm
phát cao đã bắt đầu có xu hướng quay trở lại mức hai con số sau một thời gian
dài ngừng ở mức một con số. Một số dự báo thống kê gần đây của ngân hàng
phát triển châu Á ADB, hay ngân hàng thế giới WB đều dự báo rằng con số lạm
phát của Việt Nam sẽ vượt mức 11%, cụ thể là sẽ vào khoảng từ 12% cho đến
13%. Tuy nhiên con số lạm phát thực tế còn có thể cao hơn.
Tình trạng lạm phát đã có những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống
của người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Cụ thể lạm phát cao làm cho suy giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt


Nam rõ rệt, điều này có thể so sánh với nước láng giềng Trung Quốc, mặc dù tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc nhưng tỷ lệ lạm phát
của Việt Nam lại cao hơn so với Trung Quốc khiến cho thu nhập bình quân thực
tế của người Trung Quốc cao hơn nhiều so với Việt Nam, cụ thể ở đây là gấp 5
lần (nếu tính theo sức mua tương đương PPP). Không những vậy tình trạng lạm
phát cao còn đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào tình hình sản xuất khó khăn do
giá các nguyên vật liệu đầu vào tăng cao và sự sụt giảm từ doanh thu thực tế do
tình hình lạm phát. Bên cạnh đó lạm phát cao còn làm gia tăng khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội.
Để làm rõ về những vấn đề trên, nhóm 2 chúng tôi đã tập trung nghiên
cứu đề tài: “Đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm qua
.Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà Chính Phủ Việt Nam đã và đang thực
hiện”. Bài làm chắc hẳn vẫn còn nhiều thiếu sót và có thể một số thông tin còn
có sai sót nên rất mong nhận được sự đóng góp của Thầy giáo và các bạn đề bài
thảo luận của chúng tôi được hoàn thiện hơn.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
1. Khái niệm và các mức độ lạm phát.
1.1. Khái niệm:
• Theo quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá – gọi là lạm phát
giá cả: lạm phát là sự tăng giá chung của hàng hóa.

• Theo quan điểm lạm phát và lưu thông: lạm phát là kết quả của việc tăng
khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại lạm phát cao
kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao.
• Theo lạm phát nhu cầu ( lạm phát do cầu quá mức ) – gọi là lạm phát cầu
kéo: lạm phát này cảy ra khi các hiện tượng của nên kinh tế làm tăng tổng
cầu tiền, dẫn đến tăng tổng cầu cung, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế
không tương xúng đã dẫn điến lạm phát.
• Lạm phát chi phí: là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng sản
xuất khống tăng hoặc tăng ít- gọi là lạm phát chi phí đẩy.
 Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông
quá lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức
mua của đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó
biểu hiện.
1.2. Các mức độ lạm phát:
• Lạm phát vừa phải ( dưới 10%) còn gọi là lạm phát một con số: giá cả
hàng hóa tăng nhẹ -> giá trị tiền tệ tương đối ổn định ->tạo điều kiệ thuận
lợi cho các chủ thể và nên kinh tế phát triển.Tác hại không đáng kể, thậm
chí còn có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
• Lạm phát phi mã ( tối đa là 200%) là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa
tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số.
• Siêu lạm phát( trên 200%): phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm
với hiện tượng suy thoái nền kinh tế nghiệm trọng.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát:
 Nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước: Thay đổi về chính
sách tài chính – tiền tệ như: thu chi NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách
giá cả, chính sách tỷ giá,…làm cho lượng tiền trong nên kinh tế biến động
hay làm cho giá ngoại tệ tăng lên.
 Nhóm nguyên nhần liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Nếu quá trình
điều hành kinh doanh kém thì cơ sở kinh doanh có thể làm tăng yếu tố đâu
vào (đặc biệt là giá của các nguyên vât liệu cơ bản của nên sản xuất tăng)

sẽ làm cho giá thành sản phẩm và giá bán tăng lên gây ra hiệu hứng tăng

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

giá dây chuyền trên diện rộng. Lúc này nên kinh tế rơi vào tình trạng lạm
phát.
 Nhóm nguyên nhân lien quan đến điều kiện tự nhiên: Các rủi ro như hạn
hán, lũ lụt, động đất… làm ảnh hưởng to lớn đến kinh tế - xã hội. Khi đó
để khắc phục, nhà nước cần chi một lượng tiền không nhỏ vào lưu thông.
Bên cạnh đó là tình trạng kân hiếm hàng hóa cục bộ và đồng thơi cũng là
một hiện tượng tất yếu của thiên tai gây ra lạm phát.
 Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác có thể gây ra lạm phát như: chiến
tranh, bất ổn chính trị, khủng hoảng,….
3. Đo lường lạm phát:
 Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu
hiện lạm phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ
hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Nó chính là GDP danh
nghĩa/ GDP thực tế.
 Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến độn giá cả của một giỏ hàng hóa
hay dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
I
P
= ∑i
p
.d
Trong đó:
• I
p
– chỉ số giá cả của giỏ hàng.

• i
p
– chỉ số giá cả của từng loại hàng, nhóm
hàng trong giỏ.
• d– tỉ trọng mức tiêu dùng của từng loại, nhóm
hàng trong giỏ (với ∑d =1). Nó phản ánh cơ
cấu tiêu dùng của xã hội.
 Tỷ lệ lạm phát: là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy
mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát được tính như sau:
gp = ( (I
P
/I
P-1
) -1) . 100
Trong đó:
• gp – Tỷ lệ lạm phát (%).
• I
P
– Chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu.
• I
P-1
- Chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

4. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nên kinh tế - xã hội:
 Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải: thì nó sẽ kích thích nên kinh tế phát
triển. Thậm chí còn là chính sachd tăng cường kinh tế của nhà nước.

 Nếu lạm phát ở mức độ cao và quá cao: có ảnh hưởng xấu đến nên kinh
tế:
• Đối với lĩnh vực sản xuất: lạm phát làm cho giá cả, nguyên vật liệu, hàng
hóa tăng lên dẫn đến lợi nhuận giảm sút. Quy mô sản xuất ngày càng thu
hẹp, tình trạng phát triển không đồng đều, mất cân đối giữa cung và cầu.
• Đối với lưu thông hàng hóa: Lạm phát làm rối loạn lưu thông, kích thích
tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa tạo nên nhu cầu giả tạo, giá cả hàng hóa
ngày càng leo thang tức là lạm phát ngày càng mạnh.
• Đối với lĩnh vực tiền tệ: lạm phát làm phá vỡ chức năng của tiền tệ, làm
cho sức mua của đồng tiền giảm sút. Dẫn đến dân chúng từ cho dân chúng
từ chối gửi nộ tệ vào ngân hàng thương mại. Khi lạm phát quá cao, dân
chúng có xu hướng là rút tiền tiết kiệm chuyển sang hàng hóa. Điều này
làm cho các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm ảnh
hưởng lớn đến vai trò điều hoad và lưu thông tiền tệ.
• Đối với lĩnh vực tài chính nhà nước: Lạm phát làm cho khoản thu NSNN
bi giảm sút trong khi chi tiêu của Chính phủ ngày càng gia tăng dẫn đến
tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng.
• Đối với tiêu dùng và đời sống con người lao động: lạm phát làm cho tiêu
dùng thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn, do tiền lương danh
nghĩa không đủ bù đắp cho tiêu dùng cần thiết, đông thời tình trạng thất
nghiệp ngày càng tăng.
 Tóm lại, ảnh hưởng của lạm pháp là rất nặng nề và nghiêm trọng đối với
tính hình kinh tế - xã hội của đất nước.
5. Các biện pháp kiểm soát lạm phát:
5.1. Giải pháp tình thế:
 Biện pháp về tiền tệ - tín dụng: mục đích là giảm bớt lượng tiền trong lưu
thông và kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ. Vì thế, NHTW và các
ngân hàng thương ại cần phải thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
 Thắt chặt cung ứng tiền, thực thiện chính sách đóng băng tiền tệ.
 Quản lý và hạn chế tối đa khả năng “ tạo tiền” của NHTM bằng cách tăng

tỉ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng,….
 Năng cao lãi suất tín dụng.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

 Các NHTM phải đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong
dân chúng.
5.2. Biện pháp điều hành về ngân sách: mục đích là làm giảm bớt tình
trạng mất cân đối trong thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách:
 Cắt giảm chi NS bằng cách cách cắt giảm các khoản chi không tác động
một cách trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nên kinh tế: Chi cho
bộ máy quản lý hành chính, chi phúc lợi xã hộ,…
 Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu NSNN: bằng cách cải cách chính
sách thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu.
 Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: vay trong, vay
ngoài, kêu gọi viện trợ,…
5.3. Các biện pháp khác
 Kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết giá cả thi trường đối với các
mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống như: trợ giá,quy định mức giá
trần,…
 Khuyến khích tự do mậu dịch nới lỏng thuế quan nhằm tăng quỹ hàng hóa
tiêu dung, giảm bớt mất cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông.
 Ổn định giá vàng và ngoại tệ.
 Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược:
 Xây dựng tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh
tế quốc dân.
 Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển ngành hàng hóa “ mũi nhọn” cho xuất
khẩu.
 Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước.

B LIÊN HỆ THỰC TẾ.
ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM QUA. CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT MÀ CHÍNH
PHỦ VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG THỰC HIỆN.
B1: Thực trạng
1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 đến nay
1.1. Giai đoạn 2010- 2013
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%: chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng
12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó thúc đẩy mức lạm phát năm của cả

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu
được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng thì lạm phát năm 2010
tăng 9,19% so với năm 2009.
Diễn biến tốc độ tăng CPI 2010
/>khong-the-du-bao.htm
Ta có thể thấy lạm phát tăng cao trong các tháng đầ
u năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng
thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. 3 tháng đầu năm CPI tăng cao sau đó có liền 5
tháng tăng thấp về gần mức 0%, sau đó lại vượt lên 1% vào 4 tháng còn lại của
năm. Các tháng từ tháng 9 đến tháng 11, mức tăng đều đạt tới mức kỷ lục của 15
năm trở lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó
là hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành giao thông,

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ


hàng hóa và dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn
thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá
vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền , đáng
chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của
khu vực thành thị.
Bước sang năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có
xu hướng giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng
trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và
năm 2010. Tháng 12 là tháng thứ năm liên tiếp trong năm nay có chỉ số giá tiêu
dùng tăng thấp hơn 1%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ , các nhóm có chỉ
số giá tăng cao hơn mức tăng chung là may mặc,mũ nón, giày dép tăng 0,86%;
nhóm nhà hàng và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% ( lương thực tăng 1,4%; thực
phẩm tăng 0,49%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0.68%. các nhóm hàng hóa
và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung gồm: Nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng 0,51%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%; văn hóa du lịch tăng
0.05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giá giảm 0,09%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so vwois tháng 12/2010 tăng 18,13%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm
2010.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

Biểu đồ so sánh lạm phát năm 2010 với 2011
Theo số liệu của tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng
0,27% so với tháng trước, lạm phát năm 2012 được kiềm chế ở mức 6,81%.
Trong năm 2012 có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ
tăng dưới 0,5%.
Cụ thể, theo phân tích của Tổng cục Thống kê, CPI tăng không quá cao vào

2 tháng đầu năm (tăng 1,0% vào tháng 1, và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng tăng
coa nhất vào tháng 9 với mức tăng 2.20%, chủ yếu là do tác động của nhóm
thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm
dần trong những tháng cuối năm.
Về nhóm hàng, CPI bình quân của nhiều nhóm hàng năm nay có mức biến
động nhiều và mức biến động nhiều và khác xu hướng so với năm trước. Nhóm
hàng lương thực, thực phẩm tăng thấp hơn mức tăng chung (lương thực tăng
3,26%, thực phẩm tăng 8,14%, CPI bình quân chung tăng 9,21%), trong khi năm
2011 đây là nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao nhất và cao hơn nhiều so với mức
tăng chung (lương thực tăng 22,82%, thực phẩm tăng 29,34%, CPI bình quân
chung tăng 18,58%).

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

Riêng nhóm dịch vụ y tế có sự thay đổi lớn với chỉ số giá tăng mạnh ở mức
20,37%, cao hơn nhiều mức tăng 4,36% của năm 2011. Trong 2 năm qua, chỉ số
giá nhóm giáo dục vẫn duy trì ở mức tăng cao ( năm 2011 tăng 23,18%; năm
2012 tăng 17,07%) và chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông vẫn duy trì mức
giảm (năm 2011 giảm 5,06%; năm 2012 giảm 1,11%).
Chỉ số giá vàng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước; tăng 0,4% so với
tháng 12/2011. Chỉ số giá USD tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng trước;
giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
CPI cả nước từ 12/2011 – 12/2012

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

/>%2FhOUaiPIzyO22coD06QNl%2FImage%2F2013%2F02%2Fcpi-thang-2-
2579d.JPG&imgrefurl=http%3A%2F%2Fdantri.com.vn%2Fkinh-doanh%2Fgia-

thuc-pham-keo-lam-phat-thang-2-tang-132-699679.htm
Nhìn lại năm 2012, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Thống kê cho biết, chỉ số
giá tiêu dùng tháng 12 (tăng 6,81% so với cùng kỳ năm 2011) xấp xỉ mức tăng
6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và
mức tăng 18,13% của năm 2011, nhưng lại là năm giá có nhiều bất thường. Cụ
thể chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá cao vào 2 tháng đầu năm (tăng 0,1% vào
tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2), nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức
tăng 2,20%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo
dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng cuối năm (chỉ
số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 0,85%, tháng 11 tăng 0,47%). Điều này thể hiện
tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012
của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình
ổn giá.
Với mức tăng chỉ số tiêu dùng 6,04% so với cuối năm 2012, lạm phát trong
năm 2013 được ghi nhận là mức tăng thấp nhất trong suốt 10 năm qua.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

Báo cáo trước Chính phủ của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT)
Bùi Quang Vinh cho thấy, lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tăng thấp, góp
phần đảm bảo kinh tế vĩ mô ổn định. “So với tháng 12.2012, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 12.2013 tăng 6,04%, thấp nhất trong vòng 10 năm qua, đạt mục tiêu
đề ra là khoảng 8%, thấp hơn mức tăng giá cuối năm 2012 6,81%”, ông Vinh
nhấn mạnh.
Về tốc độ tăng trưởng GDP, theo ông Vinh, qua thống kê đã có sự gia tăng
qua từng quý, dù tốc độ tăng GDP cả năm thấp hơn kế hoạch đề ra nhưng cao
hơn năm trước. Cụ thể, GDP cả năm ước tăng 5,421%, thấp hơn kế hoạch đề ra
là 5,5% nhưng cao hơn năm 2012 (5,25%).
/>201312230839597336ca33.chn

1.2. Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2014
Nhìn chung mặc dù lạm phát đã có dấu hiệu tăng tốc qua các tháng, song so
với mục tiêu chung của cả năm, CPI vẫn rất thấp, tháng 6 tăng 0,3% và nửa năm

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

mới chỉ 1,38%
 Diễn biến lạm phát theo tháng tính từ đầu năm 2014.
Theo tổng cục Thống kê vừa công bố vào ngày 24/6 chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 6/2014 của cả nước. Theo đó, lạm phát tháng 6 cả nước đã tăng 0,3%
so với tháng trước và tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, sau 6 tháng, lạm phát mới chỉ ở mức 1,38% - còn cách rất xa so
với mục tiêu lạm phát cả năm, ở mức thấp nhất trong 13 năm trở lại đây.
Dù vậy, trong tháng này có tới 10 trong tổng số 11 nhóm hàng thuộc rổ tính
CPI tăng giá. Tốc độ tăng CPI cũng đã cao hơn so với các tháng trước đây.
Trong nhóm tăng giá, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống góp vào 0,28% -
đây là nhóm có quyền số cao nhất trong rổ tính CPI. Chỉ số giá thực phẩm tăng
mạnh 0,54% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,15% trong khi chỉ số giá lương
thực vẫn giảm nhẹ 0,43%. Trong mùa nắng nóng sắp tới, với tình hình dịch bệnh
diễn biến phức tạp, chỉ số giá thực phẩm tiếp tục sẽ là một rủi ro cho CPI các
tháng hè.
Kế tiếp, nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng, điện, nước và chất đốt có mức tăng
mạnh thứ 2 ở mức tăng 0,61% so với tháng trước.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

Với việc giá gas bán lẻ tiếp tục tăng 5.000-6.000/ bình 12kg từ ngày 1/6 đã
khiến chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,61% so với tháng 5.

Nhóm này bao gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng.
Chỉ số giá thuốc và dịch vụ y tế có dấu hiệu rục rịch tăng mạnh trở lại khi
mức tăng so với tháng 5 đã là 0,74% (trong đó dịch vụ y tế tăng 0,87%).
Mang tính chất mùa vụ, chỉ số giá ở nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng
0,27%, trong khi chỉ số giá ở nhóm giáo dục lại gần như đứng yên với mức tăng
0,01% so với tháng trước.
Nhóm giao thông tăng 0,18%. Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,2%; may
mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,22%. Nhóm bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,13%.
Không nằm trong rổ tính CPI, chỉ số giá vàng tháng 6 giảm 0,12% so với
tháng trước, trong khi chỉ số giá đô la Mỹ diễn biến ngược chiều, tăng 0,49%.
2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010- 6/2014
2.1. Nguyên nhân khách quan
Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng
cao của các năm trước đó. Không thể phù nhận, lạm phát tăng cao như vậy một
phần là do những nguyên nhân khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như
trong nước:
+ Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu,
phôi thép, khí dầu mỏ… trên thị trường thể giới tăng cao đã tác động đến giá
xăng dầu, thép xây dựng, gas, phân bón trong nước tăng cao, điều này ảnh
hưởng đến cho chi phí sàn xuất, hay còn gọi là “chi phí đẩy”.
+ Giá vàng trên thị trường thế giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong
nước tăng mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác
trên thị trường.
+Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ cà nước có 30/63
tỉnh thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi
phí chăn nuôi. Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn
cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và vì vậy ảnh hưởng đến
nguồn cung nông sản thực phẩm tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.
+ Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do
chênh lệch giá một số mật hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ốn


GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
KHOA HTTT KINH TẾ

giá. Thời gian qua, nhiều mặt hàng, nhất là ở các mặt hàng lương thực, xăng dâu,
thực phấm như thịt lợn, thủy sản, đã bị thu gom và xuất khâu qua biên giới cũng
góp phẩn làm mất cân đối nguồn cung hàng hóa trong nước
+ Việc điều chỉnh lương cơ bản cũng làm chi phí sản xuất bị đấy lên gây ra
lạm phát
Tuy nhiên, nếu lập luận cho rằng đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn
tới tình trạng lạm phát cao thì hoàn toàn sai toàn sai lầm, do:
- Thứ nhất, khi so sánh lạm phát của Việt Nam với lạm phát của các nền kinh tể
khác, ta có số liệu ở bảng dưới:
So sánh lạm phát của Việt Nam và thế giới
Việt Nam
Bình quân các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển
Bình quân các nước đang phát triển châu Á
Bình quân các nước phát triển
Tính đến tháng 9 năm 2011, tốc độ tăng
CPI của Việt Nam đã lên đến 16,63%, tiệm cận
mục tiêu 18% đặt ra cho cả năm, cũng là cao
hơn các nước khác rất nhiều. Các nước trên thể
giới đều chịu tác động tiêu cực đến từ các thị
trường xăng dầu hay thị trường vàng, vậy tại
sao lạm phát của Việt Nam cao hơn một cách
đáng xấu hổ như vậy?
- Thứ hai, bão lũ, dịch bệnh đúng là có khắc nghiệt hơn
trong những năm gần


GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
Tốc
độ
2008
2009
2010
KHOA HTTT KINH TẾ

đây. Nhưng đây đã là những yếu tố cố
hữu ở Việt Nam, năm nào cũng có không
thế vì lý do này mà lạm phát lại tăng cao
đột biến như vậy.
- Thứ ba, việc điều chỉnh tăng lương cơ bản cũng không
phải là việc mà trong giai đoạn 2010 - 2011 mới thực
hiện.

GVHD: NGUYỄN HỮU THAO NHÓM 2 – NHẬP MÔN TC-TT
Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ năm 2002 đến
năm 2011, vậy tại sao chỉ trong các năm từ năm 2007 trờ lại đây, lạm phát mới
cao lên đột biến.
Từ những lý do trên, rõ ràng không thể nói những nguyên nhân khách quan
là yếu tố chính làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay, mà nguyên
nhân chính phải nằm ở những yếu tố nội tại của nền kinh tế.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam không khó để nhận ra
chính sách tiền tệ đă có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó, và hệ
luỵ của nó là tỷ lệ lạm phát cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Nhưng rõ ràng NHNN không đến mức khi thấy tình hình lạm phát căng
thẳng mà vẫn tiểp tục “phải” bơm tiền cho nền kinh tế. Nguồn gốc sâu xa cùa
lạm phát chính là đến từ chính sách tài khoá mở rộng của Chính phủ, mà cụ thể

là sự tập trung quá nhiều vốn cho hoạt động chi tiêu công kém hiệu quả, yếu tố
này cùng với sự thiếu độc lập của NHNN đã tạo sức đẩy cho mức giá cả chung
của nền kinh tế. Cộng thêm sự thiếu bài bản trong chính sách điều hành nền
kinh tế như: tăng giá đồng loạt nhiều hàng hoá quan trọng, phá giá tiền tệ một
cách giật cục đã góp phần khuếch đại tình trạng lạm phát của Việt Nam.
2.2.1. Chi tiêu công và sự độc lập của NHNN
Chi tiêu công mà cụ thể là những khoản chi tiêu và đầu tư kém hiệu quả của
Chính phủ thông qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là nguyên nhân
chủ quan quan trọng nhất. Các DNNN này không chi được ưu tiên trong việc sử
dụng các nguồn tài nguyên của đất nước, mà còn được phép sử dụng nguồn ngân
sách Nhà nước một cách dễ dãi hoặc nhận được rất nhiều ưu tiên, trợ giúp của
Nhà nước thông qua các hoạt động tín dụng cả trong và ngoài nước. Những ưu
tiên về nguồn vốn và việc trả nợ này đã khiến các DNNN không còn nhạy cảm
với lợi nhuận, tiết kiệm, tăng năng suất lao động. Từ đó đã dẫn tới hành vi sản
xuất kinh doanh thiểu trách nhiệm, đầu tư một cách tràn lan; tới khi thua lỗ, thậm
chí chỉ kêu lỗ là Nhà nước lại “bơm tiền” để giải cứu.
Trong khi những thông tin về tình hình hoạt động của các DNNN, việc sử
dụng nguồn vốn Nhà nước cấp hoặc ưu đãi cho vay còn quá bưng bít, thì chỉ khi
các DN này rơi vào tình trạng thua lỗ quá nặng, gần như vô phương cứu chữa, thì
thông tin mới được truyền ra, trường hợp tiêu biểu nhất có lẽ là của tông công ty
đóng tàu Việt Nam (VINASHIN) vào năm 2010.
Những khoản đầu tư thua lỗ, việc sử dụng đồng tiền một cách lãng phí khu
vực kinh tế Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mặc dù là khu vực được tập trung
nhiều vốn nhất nhưng chỉ đóng góp khoảng 10% vào nguồn thu cùa Ngân sách
Nhà nước mỗi năm, góp một phần không nhỏ cho tình trạng thâm hụt ngân sách
triền miên của Việt Nam:
Ngân sách không dư thừa, nhưng thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2010
để phục vụ cho mục tiêu tăng trường, Chính phủ lại tiếp tục hùn vốn cho chi tiêu
công, cho khu vực hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu các
DN này đi vay một cách công bằng trên thị trường tài chính, hiển nhiên theo lý

luận kinh tế sẽ làm tăng cầu quỹ cho vay, đẩy lãi suất lên từ đó có ảnh hưởng tích
cực đến lạm phát, nhưng ở đây lại nổi lên vấn đề về tính độc lập của NHNN.
Chính sách tiền tệ của NHNN đưa ra trong các năm qua luôn gắn kèm hai mục
tiêu gần chẳng thể nào thực hiện được cùng lúc: tăng trưởng kinh tế, đi đôi với
kiềm chế lạm phát; thể là khi Chính phủ đánh tiếng thiếu vốn để tăng trưởng kinh
tể, NHNN lại phải đi mua các trái phiểu đã bán từ hệ thống NHTM, đưa thêm
tiền vào hệ thống này, việc liên tục tung tiền ra lưu thông trong khi lạm phát vẫn
tăng cao là kịch bản lặp đi lặp lại trong nhiều năm trở lại đây.
Với các ưu đãi của mình, các DN thuộc khu vực kinh tể Nhà nước lại vay
được vốn, vòng xoáy thiếu hiệu quả lập lại, tiền đưa ra nhiều trong khi sản lượng
chẳng tăng lên là bao thì một kết quả tất yếu là lạm phát. Như vậy có thể nói, lạm
phát tăng cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011 là kết quả của
chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian trước đó, mà một phần rất lớn lượng
tiền đó là để phân bô cho các hoạt động chi tiêu công.
2.2.2. Khả năng điều hành nền kinh tế
Chính sách tài khoá mở rộng là nguyên nhân chính làm nảy sinh lạm phát,
nhưng để có được mức lạm phát cao như trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu
năm 2011, một phần trách nhiệm thuộc về chính sách điều hành nền kinh tế một
cách thiếu bài bản của Chính phủ, cụ thể gồm:
•Liên tục phá giá đồng tiền Việt.
•Tăng gíá đồng loạt và đột ngột 2 hàng hoá quan trọng là điện và xăng dầu.
+ Phá giá tiền tệ đột ngột
T Thời gian Tỷ giá USD/VXD
trước khi phá giá
Tỷ giá USD/VND
sau khi phá giá
Biên độ
giao dịch
Tỷ lệ % VNĐ
bị phá giá

111/2/2010 17.941 18.544 +/-3% 3,36%
1 18/8/2010 18.544 18.932 +/- 3% 2,09%
1 11/2/2011 18.932 20.693 +/- 1% 9,3%
Tính từ thời điểm năm 2010 đến nay, NHNN đã có tồng cộng 3 lần phá giá
đồng VND, trong đó lần phá giá vào tháng 2/2011 là có mức điều chinh sốc nhất,
khi điều chinh giảm giá VND tới 9.3%
Nhìn chung, nguyên nhân của các lần phá giá đều đến từ việc giữ cố định tỷ
giá bình quân liên ngân hàng trong một thời gian dài, trong khi tỷ giá giao dịch
trên thị trường tự do liên tục lên cao, đến khi chênh lệch giữa 2 thị trường đã lên
tới mức cao thì NHNN mới điều chỉnh giảm giá một cách đột ngột. Việc điều
chỉnh tỷ giá một cách bất ngờ như trên đã có ảnh hưởng rất tiêu cực đến mức giá
cả nền kinh tế, đặc biệt với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, việc giảm giá đồng tiền làm chi phí đầu
vào tăng lên đáng kể, kểt quà là tình trạng lạm phát leo thang do chi phí đẩy như
thời gian vừa qua.
+ Điều chỉnh tăng giá đồng loạt điện và xăng dầu
Điện và xăng dầu là 2 yểu tố đầu vào quan trọng đối với bất kì ngành sản
xuất nào, việc điều chỉnh giá 2 mặt hàng này đòi hỏi phải xem xét dẫn thận trọng
và có một thời gian tách biệt nhất định để tránh ảnh hưởng đến mức giá cả
chung. Trong năm 2010 và 2011, cà 2 mặt hàng này đều được điều chỉnh tăng
giá nhiều lần:
Giá xăng dầu liên tục được điều chỉnh, giá điện thì “đến hẹn lại lên”, đặc
biệt, trong quý I năm 2011, cả điện và xăng dầu đều tăng rất mạnh. Lý do mà
EVN hay PVG đưa ra trong mỗi lần tăng giá đều là bù lỗ cho việc phải bán với
giá thấp. Nhưng một điều đều nhận ra là trong khi PVG là đọc quyền trong lĩnh
vực xăng dầu, thì EVN cũng gần như một mình nắm giữ thị trường điện nếu đã
là độc quyền như vậy tại sao lại thua lỗ được? Trong khi việc lỗ lãi vẫn còn
mang tính mập mờ thì hậu quả giá đã tăng thấy rõ, việc tăng giá đòng loạt trong
tháng 3 đã dẫn tới hậu quả ngay sau đó là mức lạm phát cao ngất ngưởng trong

tháng 4 năm 2011.
2.3. Nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài thế giới đến tình hình kinh
tế Việt Nam.
Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
+ Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia
tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia
tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên
nhiên vật liệu đầu vào chính của sảnxuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm
soát giá xăng dầu, nhưng giá xăng dầu vẫn tiếp tục tăng , tính chung giá xăng
dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%;
giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí
sản xuất tăng cao. Trong khi đó : Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào
của sản xuất liên tục gia tăng, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng
toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự
tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa
từng có trong lịch, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép,
phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép
tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95%
+ Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu
trên thế nặng nề. Miền Trung phải hứng chịu những cơn bão liên tiếp, trong khi
đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm
long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung
lương thực - thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK và Công văn số
266/TTg-KTTH để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm
phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực
phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực
phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng
cao đã đẩy giá lương thực. Đối với nề kinh tế toàn cầu thì giá lương thực, thực
phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai

dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên
thế giới- là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích
đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản
lượng lương thực- thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng
tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang
sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng
giảm sút.
3. Giải pháp đề nghị
Từ phân tích lý luận và thực tiễn của quá trình lạm phát diễn biến, có thể
cần bổ sung thêm các giải pháp để gia tăng hiệu lực kiềm chế lạm phát, củng cố
thêm nền tảng cho sự phát triển bền vững của thời hội nhập, theo các hướng chủ
yếu sau:
+ Cần đưa dự báo kinh tế lên thành một trong những nhiệm vụ kinh tế hàng
đầu, bởi sự ảnh hưởng lớn và tích cực của nó đến việc điều chỉnh chính sách, ứng
xử tình thế cho phù hợp với những đặc điểm và đặc thù kinh tế trong và ngoài
nước.
+ Nên sử dụng cụm từ “quản lý chặt chẽ tiền tệ” thay vì “thắt chặt tiền tệ”.
Bởi trong bối cảnh lạm phát vẫn có những đối tượng đầu tư cần tăng vốn vì ý
nghĩa chiến lược của nó và không nhất thiết tất cả đều “thắt chặt”. Ngay cả phát
hành tiền, không phải bắt cứ trường họp nào cũng ảnh hưởng xấu đến kinh tế và
làm gia tăng lạm phát. Nếu nó mở ra cơ hội cho sự phát triển “đột phá” và mang
lại lợi ích căn bản của quốc kế dân sinh.
+ Về chính sách tài khóa: Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo hướng hội
nhập. Đưa mức bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5% hàng năm. Thực hiện
minh bạch, công khai công bằng trong phân phối ngân sách vì nguồn thu của nó
là sự đóng góp công sức của mọi người dân thông qua thuế. Xóa bỏ hòan toàn
tính bao cấp và cơ chế xin - cho vẫn đang còn tồn tại. Tiết kiệm hơn nữa các
khỏan chi thường xuyên (công vụ phí, hội họ…) ít mang lại hiệu quả thiết thực.
Cân nhắc tái cơ cấu chi đầu tư công hướng đến hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại
theo mục tiêu công nghiệp hóa & hiện đại hóa hòan thành cơ bản vào năm 2020.

Khắc phục đầu tư dàn trải (kể cả ODA) vì nó vừa lãng phí vừa không tạo thế đột
phá kinh tế. Có thể nói chính sách tài khóa có ảnh hưởng lớn đến quá trình xác
lập cơ cấu kinh tế - xã hội và chính vậy nó cũng là một tác nhân quan trọng tạo
“mầm” của lạm phát.
+ Tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại thành những ngân
hàng lớn đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
theo qui ước của WTO. Đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động can
thiệp vào hình thành lãi suất tín dụng trong những điều kiện cần thiết và bức xúc.
+ Hậu khủng hoảng cần sớm thực hiện tách biệt quản lý nhà nước và kinh
tế với quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước.
Qua thực tiễn của lạm phát cùng với sự điều chỉnh lại đầu tư công trong
diễn biến đó, cho thấy bao cấp đối với doanh nghiệp nhà nước (tập đoàn, tổng
công ty là một trong những nguyên nhân làm tăng đầu tư công mà lẽ ra nó không
nên tồn tại. Sự trả lại quyền tự chủ tài chính vốn dĩ của doanh nghiệp nhà nước
(không có chủ quản về quản lý kinh doanh) sẽ làm tăng nhanh tính năng động,

×