Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Báo cáo Phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật, tiếp cận từ chức năng của ngành Thông tin - thư viện và công tác xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.88 KB, 15 trang )

1
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO TRẺ EM KHUYẾT TẬT,
TIẾP CẬN TỪ CHỨC NĂNG CỦA NGÀNH THÔNG TIN - THƯ VIỆN
VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Ths.Trần Thị Thanh Vân
Khoa Thông tin – Thư viện
Trường ĐH KHXH & Nhân văn, ĐHQGHN

1. Khái niệm “Phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật”
- Khái nhiệm “phát triển”: theo Từ điển tiếng Việt, nghĩa là “biến đổi hoặc làm
cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”[11,
tr.769]. Trong tuyên bố tại Paris ngày 21/1/1988, ông Pérerz De Cuelzar,- nguyên
Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã cụ thể hóa hơn về lý thuyết của sự phát triển cho rằng
“Phát triển, tất nhiên có nghĩa là thay đổi, nhưng sự thay đổi không có nghĩa là tạo
nên sự cách biệt mà nó sẽ tạo ra những đặc tính đặc trưng của xã hội các cá nhân;
đầu tiên và trên hết là sự thay đổi phải đem lại cuộc sống phồn vinh, có chất lượng,
được mỗi cộng đồng chấp nhận ” [9, tr.23].
- Khái niệm “văn hóa” là “những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”[11, tr.1100]. Nói đến “văn hóa” là nói tới con
người, nói tới việc phát huy năng lực, bản chất của con người trong mọi lĩnh vực hoạt
động (kinh tế, chính trị, xã hội hay giao tiếp ) nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện
xã hội - môi trường thứ hai (môi trường đầu tiên là môi trường tự nhiên), cái nôi nuôi
dưỡng nhân cách con người. Điều đó nghĩa là văn hóa có mặt trong tất cả mọi hoạt
động của con người và tất yếu trong đó có hoạt động “đọc”- văn hóa đọc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
2


loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”[3, tr.431]. Văn hóa có vai trò quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh
thần. Trong đó kinh tế là nền tảng của đời sống vật chất, còn văn hóa là nền tảng của
tinh thần. Trong nền tảng tinh thần này có hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần. Tuy nhiên sự phân chia này chỉ là tương đối, vì văn hóa vật chất (hay văn
hóa vật thể) thực chất là vật thể hóa các giá trị tinh thần. Vì vậy, văn hóa là hoạt động
tinh thần, có các chức năng như: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, dự báo, giải trí
Trong đó chức năng giáo dục là chức năng bao trùm. Thông qua các chức năng cụ thể
trên các hoạt động văn hóa (trong đó có hoạt động phát triển văn hóa đọc) tác động
trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, sự phát triển toàn diện của con người.
- Khái niệm “Phát triển văn hóa” nghĩa là “phát triển những hoạt động của con
người nhằm sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần trong quá trình lịch sử”
[10, tr.1100]. Phát triển văn hóa là những hoạt động hướng con người tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ và nâng cao năng lực cho con người tạo ra cái chân, cái thiện, cái mỹ -
cơ sở trụ cột vĩnh hằng để phát triển văn hóa nhằm hoàn thiện con người và xã hội.
- Khái niệm “đọc” có nhiều nghĩa: “phát thành lời những điều đã được viết ra
theo đúng trình tự; Tiếp nhận nội dung của một tập hợp ký hiệu bằng cách nhìn vào
các ký hiệu; Thu lấy thông tin từ một thiết bị nhớ của máy tính, như từ một đĩa từ;
Hiểu thấu bằng cách nhìn vào những biểu hiện bề ngoài [11, tr.330].
Như vậy, dưới cách tiếp cận hoạt động thông tin thư viện ta có thể hiểu “đọc”
là một hoạt động để tiếp nhận (bằng mắt, bằng tai, bằng tay) thông tin (cả nội dung và
hình thức) từ một vật mang tin/tài liệu hay từ một hoạt động, một sự kiện, hiện tượng
nào đó. “Văn hóa đọc” là sự tổng hợp của mọi phương thức, hình thức ứng xử đọc,
giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, mỗi nhà quản lý và của cộng đồng xã
hội nhằm hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện xã hội. Ứng xử đọc, giá trị đọc, chuẩn mực
đọc được tạo nên bởi ba yếu tố quan trọng đó là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ
năng đọc. Tham gia vào hoạt động văn hóa đọc không chỉ có cá nhân là những người
sáng tạo, bảo quản, phổ biến giá trị văn hóa mà còn có nhiều thiết chế như thư viện,
3

viện nghiên cứu, hội nghề nghiệp, bảo tàng, nhà trường, xuất bản,phát thanh, truyền
hình và những người làm công tác xã hội tạo nên một hạ tầng cơ sở vật chất – công
nghệ cho các hoạt động văn hóa đọc. Như vậy, “phát triển văn hóa đọc” là “những
hoạt động của con người để biến đổi chính việc tiếp nhận thông tin (ứng xử, giá trị và
chuẩn mực tiếp nhận thông tin) của con người nhằm giúp họ nâng cao khả năng tiếp
nhận và tiếp tục tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần (văn hóa) cao hơn hướng
tới chân, thiện, mỹ với mục đích hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội – nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người.
- Khái niệm “Người khuyết tật”: theo Từ điển tiếng Việt là “Những người bị
tật bẩm sinh, dị tật” [11, tr.517]. Theo “Đạo luật chống phân biệt đối xử với người
khuyết tật” do Quốc hội Anh ban hành thì người khuyết tật là người có một hoặc
nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và
lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Còn theo “Đạo
luật về người khuyết tật” của Hoa Kỳ năm 1990, lại quan niệm người khuyết tật là
người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay
nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Như vậy, có sự thống nhất tương đối về
nội hàm khái niệm “Khuyết tật” của hai đạo luật của Anh và Mỹ. Theo Tổ chức Y tế
Thế giới, có ba mức độ suy giảm về thể chất hay tinh thần là: khiếm khuyết
(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Trong đó “khuyết tật” là
hiện tượng phản ánh sự tương tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng xã hội
mà trong đó người khuyết tật phải chịu đựng. Bởi theo Tổ chức Y tế Thế giới Khiếm
khuyết chỉ đến sự không bình thường của cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý.
Khuyết tật là hậu quả của sự khiếm khuyết, chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt
động. Tàn tật đề cập đến tình trạng thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác
động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ”. Còn theo quan
điểm của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật thì người khuyết tật bị trở thành tàn tật
là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động của cộng đồng xã hội để có một cuộc
sống giống như thành viên bình thường khác. Theo tiến sĩ Gillian Burrington, người
khuyết tật là“một người mà có khuyết tật về thể chất, tinh thần, giác quan mà có
4

những tác động xấu dai dẳng đến khả năng thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng
ngày…” [2, tr.18]. Còn “Luật người khuyết tật” xác định “Người khuyết tật là người
bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được
biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [5,
tr.01].
Khái niệm “Trẻ em” là những người dưới 18 tuổi (theo Công ước Quốc tế về
Quyền trẻ em Liên hiệp quốc thông qua năm 1989. “Trẻ em khuyết tật” là những
người dưới 18 tuổi bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật, khiến cho các em gặp khó khăn trong việc
tiếp nhận thông tin để học tập, sinh hoạt và lao động.
Từ nội hàm các khái niệm theo chúng tôi có thể hiểu “Phát triển văn hóa đọc
cho trẻ em khuyết tật” là những hoạt động của con người trong đó có những người
làm công tác xã hội và thông tin thư viện để đảm bảo và biến đổi chính việc tiếp nhận
thông tin cho các em dưới 18 tuổi bị khuyết tật. Cụ thể là phòng ngừa khó khăn về
tâm lý, sự ứng xử trong giao tiếp,hay kinh tế để có thể giúp trẻ em khuyết tật đến với
các nguồn thông tin;Giúp người khuyết tật giảm bớt khó khăn trong việc tiếp cận
thông tin; Giúp người khuyết tật phục hồi được các chức năng hoạt động của thể
chất, phục hồi tâm lý, tự tin hơn trong cuộc sống; Trên cơ sở đó giúp trẻ em khuyết tật
phát triển dễ dàng hòa mình vào cộng đồng kích thích tinh thần vượt khó để thay đổi
thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Giúp trẻ em khuyết tật nhanh chóng hoàn
thiện nhân cách, có khả năng tiếp tục tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần (văn
hóa) cao hơn hướng tới chân, thiện, mỹ với mục đích hoàn thiện xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống cùng cộng đồng.
2. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
- Về số lượng
Theo số liệu thống kê của Chính phủ, cả nước có khoảng 6,7 triệu người bị
KT, chiếm khoảng gần 7% tổng dân số. Trong 6,7 triệu người KT có khoảng 1,2 triệu
trẻ em, chiếm khoảng 3,6 % trẻ em dưới 18 tuổi trên cả nước. Trong số 1,2 triệu trẻ
KT có 27% KT trí tuệ, 20% KT vận động, 19% KT ngôn ngữ, 12,43% khiếm thính,
5

12% kiếm thị, 12,6% đa tật, 7% khuyết tật khác và 31% KT nặng. Phần lớn các em ở
nông thôn các tỉnh miền trung (Quảng Trị, Quảng Nam, Quàng ngãi ). Các dạng tật
nặng chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là khuyết tật trí tuệ, vận động, ngôn ngữ, thính
giác, đa tật, thị giác. Đây là con số không nhỏ về dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước nếu chúng ta không chăm lo phát triển văn hóa đọc cho các em
để góp phần giúp các em tự tin sớm hòa nhập cộng đồng, có tri thức, có nghề nghiệp
để tự kiếm sống đỡ gánh nặng cho gia đình và xã hội.
- Về trình độ
Nhiều trẻ em khuyết tật không được đưa đến trường. Ước tính trong số hơn
một triệu trẻ khuyết tật Việt Nam, chỉ có 269.000 hoặc 24,22% tổng số trẻ khuyết tật
được đến trường, đặc biệt trẻ khiếm thị từ 6 đến 17 tuổi đến trường rất thấp, vì vậy
trình độ học vấn rất thấp: có tới hơn 30% trẻ khuyết tật là không biết chữ: 41% số
người khuyết tật mới chỉ biết đọc biết viết; 19,5% học hết cấp một; 2,75% có trình độ
trung học chuyên nghiệp hay chứng chỉ học nghề, và ít hơn 0.1% có bằng đại học
hoặc cao đẳng. Nhìn chung, chỉ có khoảng 3% được đào tạo nghề chuyên môn, và chỉ
hơn 4% người có việc làm ổn định. Hiện có hơn 40% người khuyết tật sống dưới
chuẩn nghèo (Bộ LĐTBXH, 2005)
[15]
. Tuy nhiên đa số các em có khả năng hòa nhâp
cộng đồng tốt nếu được sự chủ động quan tâm từ các ban ngành làm quản lý và các tổ
chức, cá nhân hoạt động công tác xã hội.
- Về tâm lý:
Tâm lý của phần lớn trẻ em khuyết tật là mặc cảm, ngại giao lưu ở chỗ đông
người. Tuy nhiên điều này không phải luôn luôn đúng, nhiều em lại có sự nỗ lực tồn
tại và phát triển đặc biệt cao khi đã vượt qua được rào cản về tâm lý bị mặc cảm, ngại
khó
- Về khó khăn:
Người khuyết tật có rất khó khăn về nhiều mặt, trong đó có việc tiếp nhận
thông tin, học tập, làm việc, kỳ thị, gia đình Đối với trẻ em khuyết tật cản trở lớn

nhất có ảnh hưởng lớn đến tâm lý dễ đẩy các em ra bên lề của cuộc sống là sự kỳ thị.
6
Sự kỳ thị hay phân biệt đối xử. Trẻ em khuyết tật rất cần sự cảm thông (không phải là
sự thương hại) chia sẻ, động viên về tinh thần. Trong học tập, với những em khuyết
tật về trí tuệ hoặc cơ quan thu nhận cảm giác (khiếm thính, khiếm thị) khả năng tiếp
thu tri thức là khá khó khăn, (khuyết tật vận động thì bị ảnh hưởng ít hơn). Trẻ em
khuyết tật cần một hình thức giáo dục đặc biệt phù hợp với hạn chế của các em. Để
giúp trẻ khuyết tật tiếp cận thông tin, phát triển văn hóa đọc cần sự đầu tư về cơ sở vật
chất nhiều hơn so với sự đầu tư giáo dục thông thường. Cần sự tư vấn, giúp đỡ từ các
nhà công tác xã hội, tâm lý, thông tin thư viện.Chính vì vậy, rất cần sự hỗ trợ từ phía
chính quyền, cơ quan giáo dục, công tác xã hội và bản thân gia đình.
- Về cuộc sống:
Đa số trẻ em khuyết tật sống cùng gia đình, còn một số ít sống trong các trung
tâm bảo trợ xã hội và rất ít là lang thang. Phần lớn sống ở nông thôn miền Trung. Do
nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau.Các em vẫn ở trong nhà là chính ít có điều
kiện học tập, tiếp cận thông tin, tiếp cận cộng đồng Về tâm lý, trẻ em khuyết tật
cũng như bao trẻ em bình thường khác, luôn có hoài bão vươn lên vượt qua số phận
nghiệt ngã để sống có ích cho xã hội. Mặc dù bị khuyết tật nhưng nhiều trẻ em vẫn có
khả năng tiếp nhận thông tin dưới các hình thức khác nhau. Nhiều trẻ em khiếm thị
vẫn có khả năng nhìn được và có thể học các chương trình giáo dục cơ bản có thể đọc
và viết chữ to nếu có đủ ánh sáng. Nhu cầu thông tin và hiểu biết là một trong những
nhu cầu thiết yếu, không thể thiếu trong cuộc sống của mọi người nói chung và trẻ em
khuyết tật nói riêng.
3. Cơ sở pháp lý để công tác xã hội & thông tin thư viện phát triển văn
hóa đọc cho trẻ em khuyết tật
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai", việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, đặc biệt là trẻ em khuyết tật từ lâu đã là đạo lý, là truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990) – cam kết tăng
cường quyền con người cơ bản cho tất cả trẻ em mà không chỉ riêng trẻ khuyết tật.

Đảm bảo trẻ khuyết tật đều được “tiếp cận giáo dục và học hành, các dịch vụ y tế,
7
dịch vụ phục hồi chức năng, được chuẩn bị nghề cho việc làm và những cơ hội giải trí
cho theo cách thức có lợi cho trẻ em để hội nhập xã hội và phát triển cá nhân đầy đủ
nhất”. Bên cạnh đó, Việt Nam còn áp dụng nhiều Luật và Chính sách để bảo vệ trẻ em
như:
Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội thông
qua năm 1992 và sửa đổi năm 2001. Việc bảo vệ người khuyết tật được nêu tại Điều
59 và 67. Tại Điều 59 đã nêu “Người khuyết tật, người già, người cơ cực và trẻ em
mồ côi được nhà nước bảo trợ”. Nhiều Luật khác tiếp tục trao quyền cho trẻ em
khuyết tật như: “Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân” năm 1989; “Luật phổ cập giáo dục
tiểu học” năm 1991; “Bộ Luật Lao động” năm1994; “Pháp lệnh Người Khuyết tật”
năm 1998. Điều 9 của Pháp lệnh “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử hoặc
ngược đãi người khuyết tật”. “Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em” năm 2004;
“Luật Giáo dục” năm 2005; “Luật Đào tạo nghề” năm 2006; “Luật công nghệ thông
tin” năm 2006 Đặc biệt là “Pháp lệnh Thư viện” năm 2000; Nghị định số 72/NĐ-CP
ngày 6/8/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Luật
“Người Khuyết tật” năm 2010. Thành lập “Ban Điều phối Quốc gia về Vấn đề Người
khuyết tật” năm 2001. Xây dựng “Bộ Quy chuẩn và Tiêu chuẩn về tiếp cận đối với
người khuyết tật” năm 2002; Chính phủ thông qua Đề án “Trợ giúp Người Khuyết tật
của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010”; Đề án “Giáo dục hòa nhập tầm nhìn tới năm
2015” trong đó Chính phủ đặt mục tiêu thực hiện giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em
khuyết tật vào năm 2015. Gần đây nhất, ngày 14/10/2010, Bộ Nội vụ đã ký Quyết
định số 1179/QĐ-BNV về việc Thành lập Liên hiệp hội Về người khuyết tật Việt
Nam nhằm mục đích liên kết, tập hợp sức mạnh, điều hòa, phối hợp các nguồn lực
tạo điều kiện để cộng đồng hỗ trợ người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói
riêng trong học tập, làm việc và sinh hoạt nhằm xây dựng, hướng tới một xã hội hòa
nhập, không rào cản vì người khuyết tật. Như trên, đã phân tích, chức năng bao quát
nhất của văn hóa là chức năng giáo dục, vậy để phát triển văn hóa đọc đảm bảo quyền
của trẻ em khuyết tật ngoài sự cố gắng của bản thân các em cùng gia đình, đòi hỏi

phải có sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư và thống nhất hành động của nhiều cấp quản lý,
8
nhiều ngành, nhiều viện nghiên cứu, nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp như Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục & Đào
tạo, Bộ Y tế, Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam, Hội Thư viện Việt Nam,
Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập có trách nhiệm phát triển văn hóa
đọc cho các em thông qua các dịch vụ của mình. Với cá lý do sau đây:
- Tại Điều 50 “Luật người khuyết tật” đã quy định “4. Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác văn hóa, thể thao,
giải trí và du lịch đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện
các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người khuyết tật”, “…
hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếp cận thông tin đối
với người khuyết tật”(Tr.21). Còn trong “Pháp lệnh thư viện” đã chỉ rõ “Người
khiếm thị được tạo điều kiện sử dụng tài liệu thư viện bằng chữ nổi hoặc các vật
mang tin đặc biệt”. Còn thư viện có trách nhiệm “ c) Tiếp nhận sự giúp đỡ, tư vấn về
việc tìm và chọn lựa nguồn thông tin; d) Phục vụ tài liệu tại nhà thông qua các hình
thức thư viện lưu động hoặc gửi qua bưu điện khi có yêu cầu đối với người cao tuổi,
người tàn tật không có điều kiện đến thư viện”(PLTV.2001 tr.11).
- Cụ thể hơn, tại điều 2 khoản 3, 4, 6 của Nghị định số 72/NĐ-CP ngày
6/8/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện như sau: “ 3)
Thư viện công cộng ở địa phương, thư viện các trường phổ thông và cơ sở giáo dục
khác, cung văn hóa thiếu nhi, nhà văn hóa thiếu nhi có trách nhiệm xây dựng bộ
phận tài liệu phù hợp với khả năng, tâm sinh lý, lứa tuổi của trẻ em; tổ chức phòng
đọc, mượn tài liệu dành riêng để phục vụ trẻ em; 4) Thư viện công cộng có trách
nhiệm phối hợp với Hội người mù xây dựng bộ phận sách, báo bằng chữ nổi và các
dạng tài liệu đặc biệt khác phục vụ cho người khiếm thị 6) Trong thư viện hoạt
động bằng ngân sách nhà nước, Người cao tuổi quy định tại Pháp lệnh Người cao
tuổi ngày 28 tháng 4 năm 2000, Người tàn tật quy định tại Pháp lệnh Người tàn tật
ngày 30 tháng 7 năm 1998, do điều kiện sức khỏe không có khả năng đến thư viện
thì được phục vụ miễn cước phí tài liệu thư viện tại nhà bằng hình thức gửi qua bưu

điện hoặc thư viện lưu động khi có đơn đề nghị được Uỷ ban nhân dân xã, phường,
9
thị trấn xác nhận”. Tại Điều 4 của Nghị định cũng quy định “Thư viện công cộng là
thư viện có vốn tài liệu tổng hợp thuộc mọi ngành, lĩnh vực khoa học, phục vụ rộng
rãi mọi đối tượng bạn đọc”. (Nghị định số Nghị định số 72/NĐ-CP ngày 6/8/2002
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. tr.2).
- Tuyên ngôn năm 1994 của UNESCO về thư viện đã nêu rõ: “Thư viện công
cộng mở ra sự tiếp cận tới tri thức ở cơ sở (địa phương) đảm bảo những khả năng
(điều kiện) chủ yếu cho việc học tập liên tục, cho việc tự mình đưa ra các quyết định
và cho sự phát triển văn hóa của cá nhân và các nhóm xã hội”. “ Việc phục vụ
trong TVCC theo nguyên tắc tiếp cận công bằng được dành cho tất cả mọi người
không phân biệt tuổi tác, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch, ngôn ngữ và địa vị xã
hội. Những dạng dịch vụ hoặc tài liệu đặc biệt cần phải được cung cấp cho những người
mà vì lý do nào đó không thể sử dụng các tài liệu và dịch vụ thông thường ví dụ như đại
diện của các nhóm ngôn ngữ thiểu số, những người tàn tật hay những người đang nằm
viện hoặc đang bị tù. Mọi nhóm lứa tuổi cần nhận được tài liệu hợp với yêu cầu của
họ”. Tuyên ngôn cũng nêu rõ nhiệm vụ của TVCC “ 1. Hình thành và củng cố thói
quen đọc sách ở trẻ em ngay từ lứa tuổi sớm nhất. 2. Hỗ trợ việc học, học riêng lẻ
hay học trong nhà trường, và tự học ở các cấp độ khác nhau. 3. Tạo điều kiện để
nâng cao sự sáng tạo của cá nhân. 4. Phát triển óc tưởng tượng và mong muốn sáng
tạo ở trẻ em và thanh thiếu niên. 12. Giúp đỡ và tham gia vào việc thực hiện các hoạt
động và chương trình xóa mù chữ được định hướng lên mọi nhóm tuổi và tổ chức các
chương trình tương tự tùy theo mức độ cần thiết”. Trong hoạt động Tuyên ngôn cũng nêu rõ
“ Cần xem xét tổ chức việc phục vụ bên ngoài các bức tường của thư viện cho
những ai không thể đến thư viện”.
4. Một số gợi ý phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật thông qua
công tác xã hội & hoạt động thông tin thư viện
Ngay từ năm 1998 (sau 8 năm Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên hợp
quốc về Quyền trẻ em), Hệ thống thư viện công cộng (TVCC) đã bắt tay triển khai
các hoạt động phát triển văn hóa đọc cho người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết

tật nói riêng. Các hoạt động đều hướng tới để tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật thay đổi
10
ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc khi tiếp cận thông tin. Cụ thể là giúp các
em nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, khích thích nhu cầu tiếp cận thông tin/nhu cầu
đọc, tạo thói quen đọc, sở thích đọc và rèn kỹ năng đọc nhằm hoàn thiện nhân cách
cho các em hướng tới cái chân, thiện, mỹ góp phần phát triển xã hội. Với sự tài trợ
của quỹ FORCE, đến nay, hoạt động phục vụ người khuyết tật đã đạt được thành quả
đáng khích lệ không chỉ về bề rộng mà cả về bề sâu. Về bề rộng, năm 1999 mới chỉ có
Thư viện Hà Nội, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đến nay hầu
hết 63 thư viện tỉnh, thành phố đã triển khai các dịch vụ thông tin cho người khuyết
tật. Về chiều sâu, hệ thống TVCC đã được tăng cường đầu tư mọi nguồn lực để đến
nay trước hết đã có được đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên (153 người) có trình độ
chuyên môn sâu, nắm bắt được các kỹ thuật như: sản xuất sách nói kỹ thuật số sử
dụng phần mềm DAISY; Sản xuất sách chữ nổi sử dụng phần mềm WinBraille căn
bản; Sản xuất sách chữ nổi sử dụng phần mềm WinBraille nâng cao; Sản xuất nhạc
Braille; Tài liệu đồ họa nổi; Sản xuất sách minh họa nổi cho trẻ em khiếm thị Thứ
hai Hệ thống TVCC đã được trang bị cơ sở vật chất chuyên dụng cho việc sản xuất tài
liệu thay thế và cung cấp thiết bị hỗ trợ đọc như máy tính, máy in chữ nổi, ô tô lưu
động, bàn phím soạn nhạc nổi, máy sản xuất đồ họa nổi, các phần mềm chuyên dụng;
Thứ ba là đã cải thiện và phát triển vốn tài liệu thay thế, đồng thời gây dựng được cơ
sở có đủ khả năng nhân rộng và phát triển các dịch vụ thông tin cho trẻ khuyết tật.
Cuối cùng hệ thống TVCC đã đưa Pháp lệnh thư viện vào cuộc sống, đã tạo điều kiện
cho hàng chục nghìn lượt người khuyết tật tiếp cận thông tin, hưởng phúc lợi xã hội
nhiều hơn và công bằng như mọi đối tượng người dùng tin khác.
Tuy nhiên, hệ thống TVCC mới chỉ tập trung phát triển văn hóa đọc cho những
người khiếm thị/khuyết tật thị giác nói chung và trẻ em khiếm thị nói riêng. Còn
những trẻ em khuyết tật ở các dạng khác như vận động, khiếm thính, ngôn ngữ thì
chưa được triển khai. Chính vì vậy, bài viết có một số gợi ý sau đây:
1) Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội: Cần tiếp tục xây dựng các văn bản liên quan tạo hành lang pháp lý trong việc đầu

tư, triển khai phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật để đưa “Pháp lệnh thư
11
viện”, “Luật người khuyết tật” và thực thi Công ước Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc
sớm đi vào cuộc sống. Có chính sách đào tạo nâng cao nhận thức và trình độ chuyên
môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên viên làm công tác xã hội và thông tin thư
viện trong việc cam kết quyết tâm phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật. Chỉ
đạo, đầu tư tạo mọi nguồn lực để phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật. Cụ thể:
tập trung đầu tư phát triển sản xuất tài liệu thay thế, phát triển vốn tài liệu; Cơ sở vật
chất, máy móc và thiết bị chuyên dụng phải đầy đủ, phù hợp với các dạng khuyết tật
khác nhau trong việc tiếp cận thông tin; Đẩy mạnh ứng dụng tin học và đào tạo đội
ngũ chuyên gia cho hệ thống TVCC.
- Cần có sự phối kết hợp liên bộ tạo cơ chế, chính sách, chỉ đạo các tỉnh để Sở
Văn hóa, Thể thao & Du lịch; Sở Lao động Thương binh và Sở Giáo dục & Đào tạo
cần phối kết hợp tạo điều kiện cho hệ thống TVCC các tỉnh kết hợp với thư viện
trường học, với các tổ chức xã hội, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa
nhập phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật (vì Bộ Giáo dục & Đào tạo chủ
trương đưa 100% trẻ khuyết tật được đến trường).
- Xây dựng các dự án nghiên cứu có tính quốc gia, để điều tra mang tính tổng
thể, nắm bắt thực trạng, nhu cầu phát triển văn hóa đọc của trẻ khuyết tật. Tổ chức các
hội thảo, hội nghị chuyên đề phát triển văn hóa đọc cho trẻ khuyết tật. Mở rộng công
tác đối ngoại tìm các nguồn tài trợ như Quỹ FORCE đã từng hợp tác.
2) Các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập chủ động trong việc đề
nghị với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã là những đơn vị thực hiện
trực tiếp các chính sách liên quan đến vấn đề trẻ em khuyết tật. Chú trọng phân nhóm
theo lứa tuổi và mức độ khuyết tật để có kế hoạch và phương pháp thích hợp.
3) Hoạt động thông tin thư viện cần chủ động “xây dựng thư viện mở” không
rào cản cho trẻ khuyết tật. Tổ chức hoạt động, dịch vụ phù hợp với tâm lý trẻ khuyết
tật, đáp ứng mọi nhu cầu tiếp cận thông tin cho trẻ em khuyết tật.Chú trọng vai trò của
các thư viện cơ sở để tăng cường quảng bá các dịch vụ thông tin phục vụ trẻ em
khuyết tật (đặc biệt nhân các ngày 3 tháng 12 – ngày người khuyết tật Quốc tế, và

Ngày 18 tháng 4 – Ngày người khuyết tật Việt Nam) hoặc ngày mồng 1 tháng 6 –
12
ngày Thiếu nhi Quốc tế. Phối kết hợp chặt chẽ với thư viện các trường học phổ thông
trong khu vực để cung cấp các dịch vụ, trang thiết bị và nguồn tài liệu.Chú trọng đến
hình thức phục vụ lưu động có thể đưa thiết bị, tài liệu đến nhà cho trẻ khuyết tật (Do
còn rất nhiều khó khăn như điều kiện kinh tế, tâm lý, thói quen và phương tiện hạ tầng
giao thông công cộng ).Chú trọng bổ sung, cập nhật công nghệ mới và nguồn tài liệu
đặc thù cho trẻ khuyết tật. Chủ động tổ chức các đợt điều tra, nghiên cứu để nắm bắt
tâm lý, nhu cầu và quảng bá dịch vụ thông tin cho trẻ khuyết tật. Chú trọng phát huy
vai trò của phụ huynh, kết hợp chặt chẽ với gia đình giúp trẻ khuyết tật tiếp cận thông
tin. Cán bộ chuyên trách tư vấn, phục vụ cho trẻ em khuyết tật cần được hưởng chế độ
đãi ngộ đặc biệt hơn.
4) Đối với lãnh đạo các cơ sở đào tạo ngành công tác xã hội và thông tin thư
viện sớm đưa vào nội dung chương trình đào tạo chuyên đề “Công tác xã hội cho trẻ
em khuyết tật”; “Thư viện cho người dùng tin khuyết tật”
5) Đối với gia đình của trẻ khuyết tật: Bố mẹ cần quan tâm đặc biệt đến các
con, chủ động nắm bắt các thông tin về quyền và các phúc lợi xã hội, cũng như các
sản phẩm máy móc, thiết bị hiện đại hỗ trợ cho trẻ em khuyết tật dưới các dạng khác
nhau thông qua các kênh thông tin như: thầy, cô, bạn bè, lãnh đạo địa phương; cán bộ
các trạm y tế và các phương tiện thông tin truyền thông như đài, tivi, báo chí Dành
thời gian đưa các con đến trường, đến thư viện để giúp các con sớm hoà nhập cuộc
sống cộng đồng.
6. Đối với trẻ khuyết tật: Để văn hóa đọc của mình sớm được phát triển, trẻ em
khuyết tật cần vượt qua hàng rào tâm lý, tự tin vượt lên khuyết tật để tiếp cận thông
tin/tri thức, và các công nghệ hiện đại để tiếp cận thông tin nhanh chóng, đầy đủ ở
mọi lúc, mọi nơi.






13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tiếng Việt
[1] Báo cáo “Tăng cường tiếp cận thông tin cho ngườ khiếm thị/10 năm hợp
tác giưa Việt Nam và Quỹ FORCE 2000 – 2010”. 27 tr.
[2] Dịch vụ thư viện cho người khiếm thị, cẩm nang thực hành tốt nhất/tài liệu
dịch.HCM.: Thư viện KHTH Tp. Hồ Chí Minh, 2005 297 tr.
[3] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 3. H.: Chính trị Quốc gia, 2000 tr.431.
[4] Lệnh của Chủ tịch nước số 06-L/CTN ngày 08/08/1998 công bố Pháp lệnh
về người tàn tật, 05tr.
[5] Luật người khuyết tật//Luật số: 51/2010/QH12. Hà Nội, ngày 17 tháng 6
năm 2010
[6] Nguyễn Thị Bắc. Cam kết trách nhiệm của thư viện đối với người khiếm
thị//Dịch vụ thư viện cho người khiếm thị/Tài liệu dịch. Thư viện KHTH tp.Hồ Chí
Minh, 2005, 297 tr.
[7] Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện, số
72/2002/NĐ-CP ngày 06/08/2002.16 tr.
[8]. Pháp lệnh Thư viện, số 31/2000/PL-UBTVQH 10 ngày 28/12/2000,7 tr.
[9] Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa H.: Bộ Văn hóa – Thông tin và Thể
thao,1992 tr.23.
[10] Trần Thị Thanh Vân. Nghiên cứu nâng cao chất lượng các dịch vụ thông
tin cho người khiếm thị//Tạp chí Khoa học Xã hội, năm 2009, số tr.
[11] Từ điển tiếng Việt//Hoàng phê chủ biên.H.: Đà Nẵng, 2006 1221 tr.
- Tài liệu tếng Anh
[12] Langan, John Ten steps to building college reading skills: Form A:
Course 2nd. ed. Martol: Townsend press, 1994.
[13] McWhorter, Kathleen T Efficient and Flexible Reading: Fìth Edition
New York: Logman, 1998.
- Website về người khuyết tật

[14]. www.pwd.vn Người khuyết tật Việt Nam
14
[15]. www.nghilucsong.net Kênh thông tin người khuyết tật
[16]. www.drdvietnam.com Chương trình khuyết tật và phát triển (DRD)
Tóm tắt
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO TRẺ EM KHUYẾT TẬT,
TIẾP CẬN TỪ CHỨC NĂNG CỦA NGÀNH THÔNG TIN THƯ VIỆN
VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mở đầu bài viết đã làm rõ các khái niệm nhỏ: phát triển, văn hóa, đọc, văn hóa
đọc, phát triển văn hóa đọc, người khuyết tật, trẻ em để đưa ra một khái niệm lớn:
phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật. Tiếp theo bài viết đề cập tới thực trạng
trẻ em khuyết tật ở Việt Nam về: số lượng, trình độ, tâm lý và cuộc sống của họ. Phần
3 bài viết phân tích rõ những cơ sở pháp lý để ngành công tác xã hội & thông tin - thư
viện phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết
đưa ra một số gợi ý phát triển văn hóa đọc cho trẻ em khuyết tật thông qua công tác
xã hội & hoạt động thông tin thư viện: Sự quan tâm và hành động của các Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, hệ thống thư viện công cộng; Sự chủ động của các trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa
nhập; Xây dựng thư viện không rào cản cho trẻ em khuyết; Sớm nội dung liên quan
tới người khuyết tật vào chương trình đào tạo của ngành công tác xã hội và thông tin –
thư viện; Gia đình của trẻ khuyết tật; Bản thân trẻ khuyết tật.
DEVELOPING READING CULTURE FOR DISABLE CHILDREN,
ACCESSING TO FUNCTIONS OF SECTOR OF LIBRARY &
INFORMATION
AND SOCIAL WORKS
Introduction part of the article has clarified small concepts: development,
culture, reading, reading culture, development of reading culture, disable people and
children to offer a large concepts: developing reading culture for disable children.
Next, the article has referred to actual conditions of disable children in Vietnam such
as quantity, cultural levels, psychology and their life. In the third part, the article has

clearly analyzed legal basis for social works & library information to develop reading
15
culture for disable children in Vietnam. On that basis, the article has offered some
proposes in developing reading culture for disable children through social works &
operation of library information: the attention and actions of Ministry of Culture,
Sports and Tourism, Ministry of Labor - Invalids and Social Affairs, Ministry of
Education and Training, public library system; the activeness of supporting centers of
inclusive education; building library without barrier for disable children; early putting
contents related to disable people into training programs of social works & library
information; family of disable children and disable children themselves.

×