Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Báo cáo Ứng xử văn hóa trong chùa việt Bắc bộ dưới góc nhìn phát triển du lịch bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.25 KB, 12 trang )


289
CULTURAL BEHAVIOR IN THE NORTHERN VIETNAMESE PAGODA
UNDER THE PERSPECTIVE OF SUSTAINABLE TOURISM
DEVELOPMENT
Sustainable tourism development is an appropriate orientation in current context
but in the process do not avoid difficult without appropriate approach as well as the
effect solutions. This article stands in the cultural perspective to help managers and
tour guides to use when working in the space industry has not written to conform to
habits and customs and adapts just in Buddhist ideology that's the spirit of
conservation to develop, development that preserve.


ỨNG XỬ VĂN HÓA TRONG CHÙA VIỆT BẮC BỘ
DƯỚI GÓC NHÌN PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG

Triệu Thế Việt
1


Phát triển du lịch bền vững là một định hướng phù hợp trong bối cảnh hiện
nay nhưng trong lộ trình thực hiện, không tránh khỏi những khó khăn nếu như không
có phương pháp tiếp cận phù hợp cũng như những giải pháp hữu hiệu. Bài viết này
đứng ở góc nhìn ứng xử văn hóa nhằm giúp các nhà quản lý và hướng dẫn viên
(HDV) du lịch ứng xử đúng khi tác nghiệp trong không gian chùa Việt sao cho vừa
phù hợp với thuần phong mỹ tục vừa đúng với tư tưởng Phật đạo. Đó cũng chính là
tinh thần bảo tồn để phát triển, phát triển mà gìn giữ.
1. Tinh thần ứng xử hài hòa với thiên nhiên khi xây dựng chùa Việt:
Khi xây dựng chùa, người Việt luôn chọn hướng đất, hình sông, thế núi để sao
cho kiến trúc hòa hợp với thiên nhiên. Có nhiều cách chọn đất xây chùa nhưng tựu
chung đều theo phương pháp xác định phía trước, sau, phải trái theo một số cách


thức sau.

1
TS, Khoa Du lịch học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

290
Mặt Tiền (phía trước): Phía trước có vị trí quan trọng trong khoa Kham dư, nó
thể hiện cốt cách của một ngôi chùa, vị trí ấy gọi là minh đường, xét về ngôn ngữ thì
minh đường có nghĩa là trong sáng, bằng phẳng và rộng.
Bên trái (bên Tả): Bên trái có núi cao, cây cối hùng vĩ khoa Kham dư gọi là
cách Thanh long cao vạn trượng, nếu Tả Thanh long lại nằm phía Tây bắc thì cây cối
cao lớn hay núi cao bao bọc chính là phên dậu che gió Bắc cho chùa về mùa Đông,
che nắng hướng Tây về mùa Hạ. Nếu Tả Thanh long là cây to hay núi dễ sạt lở mà ở
về hướng Đông Nam thì bất lợi cho chùa (che gió Đông Nam, gây oi bức, gặp gió
bão dễ đổ vào chùa).
Bên phải (bên Hữu): Bên phải có gò thấp, gò vuông vức là con mộc, gò nhọn
hai đầu là con kim, gò có hình dạng méo mó, tán loạn là con hỏa. Gò Bạch hổ càng
thấp càng tốt. Tả Thanh long và Hữu Bạch hổ có vai trò trợ uy cho chùa nên khoa
Kham dư rất chú trọng nên quy định chặt chẽ rằng:
Tả Thanh long cao vạn trượng
Hữu Bạch hổ không được ngẩng đầu.
Mặt sau (Hậu án): Khoa Kham dư gọi là hậu án, hậu án cao, bền nên chùa
thường dựa vào địa hình bền vững như sườn núi, gò cao hay chân đê cốt để cao hơn
phía trước, cao dầy thì gọi là hậu án bền, đằng sau có cây to trùm lên là thế Hậu án
bảocái (cái lọng)
Như vậy, bốn mặt trước, sau, phải, trái đều được khoa Kham dư xem xét khá
cụ thể, nhưng với địa hình Bắc Bộ với sông ngòi, ao hồ, đầm lầy, núi non dày đặc
nhưng với tư duy hòa với thiên nhiên, biến những yếu tố bất lợi trong quy hoạch mặt
bằng xây chùa thành những yếu tố có lợi trong phong thủy của chùa, tạo ra những
quần thể Danh Lam thắng cảnh (Danh lam: Ngôi Già lam/ chùa nối tiếng, Thắng

cảnh: trong quần thể phong cảnh đẹp không có nơi đâu sánh bằng, Danh lam Thắng
cảnh: Ngôi chùa nổi tiếng trong quần thể phong cảnh đẹp không có nơi đâu sánh
bằng) như quần thể Chùa – Hang – Núi – Suối (chùa Hương Tích, Mỹ Đức, Hà
Nội), Chùa Núi – Hồ - Hang (chùa Thầy, Sài Sơn, Hà Nội), Chùa – Núi (chùa Phật
Tích, Bắc Ninh. Chùa Yên Tử, Quảng Ninh, chùa Long Đọi, Nam Hà), Chùa – Đồi
(chùa Trăm Gian, Hà Nội), Chùa – Hang (Chùa Trầm, Hà Nội) hay những ngôi

291
chùa do sức người tạo ra địa thế phong phú như chùa cao trên núi, chùa Hạ dưới
làng, hoặc chùa Tháp tạo ra môi trường sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cho
ngôi chùa Việt với từng địa thế khá nhau. Không gian chùa Việt dù ở quy mô nào
cũng luôn là một tổng thể công trình kiến trúc hòa hợp với thiên nhiên như một phần
của tự nhiên, cảnh vật của các quần thể danh lam thắng cảnh của người Việt phải
chăng là một phương tiện dẫn dắt chúng sinh hồn nhiên nhập Đạo?
2. Mặt bằng chùa Việt (mô hình phổ biến) và một số ý nghĩa được giải mã theo
Phật học:
- Tam quan là kiến trúc cổng có ba cửa, nằm phía trước cổng chùa, bao gồm
Trung quan ở giữa, bên trái là Không quan (cửa Không), bên phải là Giả quan (cửa
Sắc). Theo Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh: Không và Sắc là quan hệ hai chiều, chúng
không phải là hai mà là nhất thể: Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc. Đức Phật nói rằng: Vạn vật đều do Sắc biến tế tướng (thực
chất là Hạt cơ bản), do duyên mà tụ lại thành các vật chất khác nhau.
Hạt Sắc biến tế tướng (Hạt cơ bản) được hiểu là Không
Thế giới có hình sắc là thế giới vật chất được hiểu là Sắc
Tư tưởng này phù hợp với thuyết Hạt cơ bản, nó mang tính duy vật.
Sự biến đổi qua lại giữa Không –Sắc cho ta nhận thấy tính biện chứng trong bản
thể luận Phật giáo và thuyết Bảo toàn năng lượng (Vật chất không tự nhiên sinh ra,
không tự nhiên mất đi, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác).
Tam quan chùa đôi khi được thay thế bằng một gác chuông (chùa Quán Sứ;
chùa Trăm Gian; chùa Bắc Lãm, Hà Nội; chùa Bút Tháp, Bắc Ninh ) hoặc đơn giản

chỉ là bốn cột trụ với một cổng vòm (chùa Tây Phương, Hà Nội); hoặc một cổng nhỏ
(chùa Trấn Quốc, Hà Nội). Cũng có khi lại có cả bốn cột trụ, cả Tam quan tạo thành
hai lần cổng (chùa Láng, Hà Nội; chùa Keo, Thái Bình).
- Hồ sen: Trong ứng xử môi trường, dù bất kỳ kiến trúc nào thì người Việt cũng
sử dụng nước và đưa công trình nước vào giải quyết vi khí hậu, khi thì bể cảnh non bộ,
bể nước lộ thiên nằm xen kẽ các thành phần kiến trúc (chùa Tây Phương, Hà Nội).
Trong chùa, hồ nước luôn xuất hiện trước sân chùa, nó đẩy khuôn viên chùa vào sâu

292
hơn trong không gian tâm linh, hồ sen có vị trí chuyển tiếp giữa không gian thế tục và
không gian Phật giáo, công năng của nó có thể là trồng sen cúng Phật. Có khi là nguồn
nước sinh hoạt, nhưng nhìn theo tín ngưỡng dân gian thì hồ nước ở đây được coi là
cửa ngõ của cõi Thuỷ phủ, thể hiện sự mong cầu hồng ân của Phật pháp thấm nhuần
xuống cõi thuỷ cung hay mong sự giao dịch với thủy cung để cầu mưa thuận gió hòa.
Hồ sen có hình tròn để nói lên tính trạm viên, tròn đầy của Phật pháp.
- Bảo tháp (S: Stupa): Tiếp đến, ở sân trước hay bên chính điện có bảo tháp xây
bằng đá hoặc bằng gạch – một bộ phận quan trọng trong kiến trúc Phật giáo. Tháp có
nguồn gốc từ kiến trúc toà phù đồ của Phật giáo Ấn Độ được sử dụng thành biểu tượng
của Đức Phật, bảo tháp là công trình trung tâm của ngôi chùa. Những toà bảo tháp
được dựng lên không chỉ để làm kỷ niệm (Hiến chương tháp) và còn lưu giữ xá lợi
hoặc các di vật bình bát, nơi lưu di cốt của các vị Tổ (Thiên Trù, chùa Hương Tích, Hà
Nội), chư Tăng Ni viên tịch thường xây ngoài vườn (chùa Bổ Đà, Bắc Giang), tháp đá
thờ Tổ (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh) hoặc tháp chuông bằng gỗ gắn với kiến trúc chùa
(Chùa Keo, Thái Bình) nếu là tháp Phật thì ở vị trí thuận tiện cho việc hành lễ, chạy
đàn nhiễu quanh tháp. Tháp thường vươn theo chiều cao, không phát triển chiều
ngang, rộng nơi chân bệ, chiều cao chia làm nhiều tầng theo số lẻ có những vành mái
ngắn nhô ra để nhấn rõ từng tầng của chiều cao, trên cùng là một tán lọng hoặc búp
sen
- Mặt bằng chùa: Đây là một đặc điểm cần nói đến vì nó phản ánh phong cách
nghệ thuật từng thời kỳ lịch sử mà có mặt bằng khác nhau, thêm nữa nó còn nói nên tầm

vóc của ngôi chùa. Phần lớn các ngôi chùa có hình thức “nội Công ngoại Quốc” (国
国国
国)
hoặc các hình thức khác như:
+ Chữ “Đinh” (丁
丁丁
丁): Bên ngoài rộng 5 gian, 7 gian (chùa Tức Mạc, Nam
Định).
+ Chữ “Công” (工
工工
工): Hay nội Công ngoại Quốc (trong chữ Công, ngoài là chữ
Điền, điển hình là chùa Dâu – Bắc Ninh). Cũng có chùa "nội Đinh ngoại Quốc" (chùa
Láng, Hà Nội).

293
+ Chữ “Nhị” (二
二二
二), chữ “Tam” (三
三三
三) (chùa Tây Phương; chùa Kim Liên, Hà
Nội) bao gồm một tổng thể nhiều công trình đơn lẻ, có hành lang bao quanh hoặc
tường vây quây kín.
Nếu bố cục ngôi chùa theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” là hình thức phổ biến
hơn cả thì nhìn chung chùa bao gồm một điện thờ hình chữ “Công” (工
工工
工), một dãy
hành lang bao quanh ba mặt và một sân rộng. Khu trung tâm là điện thờ Phật của chùa,
thông thường bao gồm ba/ nhiều nếp nhà nằm kế tiếp nhau (chùa Bút Tháp, chùa Dâu,
Bắc Ninh; chùa Mía, Hà Nội).
Các gian thờ Phật chiếm vị trí trung tâm ngôi chùa gồm ba phần chính:

+ Thiêu hương: Gian nhà ngoài, Hai bên có thờ các cụm tượng Đức Ông,
Thánh tăng, hai pho Hộ pháp. Gian này chủ yếu là nơi giảng kinh, tụng kinh của tín đồ
và dân chúng sắp lễ dâng hương lễ cầu Phật.
+ Thượng điện: Gian này là chính điện nơi chứa Phật điện, tên chữ là Đại hùng
bảo điện hay dân gian còn gọi là Tam Bảo có nhiều tượng Phật đặt trên các bệ xây từ
thấp tới cao, tượng trưng cho sự tu hành và đắc đạo của đức Phật đồng thời biểu hiện
các triết lý của đạo Phật.
Ngoài khu trung tâm nói trên, kiến trúc chùa còn có thể có một dãy hành lang, ở
trong cùng thường là nơi đặt bàn thờ và tượng các vị La Hán, Lịch đại Tổ sư hoặc phối
hợp cùng hành lang hai bên làm nơi nghỉ cho khách thập phương.
+ Hậu đường : Gian sau thường thờ Tổ, Thánh, Mẫu và ký Hậu.
Kết thúc quy hoạch khu chùa là một dãy nhà tăng cư, nhà trù (nhà bếp) là nơi
sinh hoạt của chúng Tăng, ni và Phật tử.
Hai bên có các gian nhà vừa làm nơi tiếp khách, dọc hành lang thường thờ Tổ
kế đăng (chùa Mía, Hà Nội), hay thờ Thập điện Diêm vương (chùa Trăm Gian, Hà
Nội).
Với các phân tích trên đây, HDV khi tiếp cận đối tượng tham quan cần quan sát
nhanh để có thể giới thiệu cho du khách tổng thể ngoại quan của chùa và giải thích ý
nghĩa của các thành phần liên quan đến kiến trúc chùa như hồ sen, tam quan, bảo
tháp, có thể so sánh với ngoại quan của một số ngôi chùa lân cận hoặc một số ngôi

294
chùa nổi tiếng khác. Tiếp đó, HDV cần xác định mặt bằng của ngôi chùa được bố trí
theo hình thức nào dựa trên tài liệu đã chuẩn bị trước hoặc các bản đồ hướng dẫn tại
điểm tham quan.
3. Một số ý nghĩa của tượng Phật giáo và bài trí tượng trong chùa hiện nay
- Ban Đức Ông: Ngài Tu đạt Cấp Cô Độc thường được ở bên trái Đại hùng bảo
điện (theo hướng nhìn ra), tượng có trang phục võ quan. Truyện rằng: Khi Đức Thích
Ca Mâu Ni tại thế, ban đầu chưa có nơi giảng đạo cho Tăng đoàn và thập phương. Đức
Ông là một vị trưởng giả, mua vườn của thái tử Kỳ Đà cho Đức Thích Ca Mâu Ni làm

nơi tu tập và thuyết pháp. Thái tử Kỳ Đà yêu cầu ngài về lấy vàng ròng đúc gạch để lát
vườn, gạch vàng lát đến đâu đó là đất Phật. Kết quả là xây nên vườn Cấp Cô độc, là
nơi Đức Thích Ca giảng đạo và Tăng đoàn tu tập. Chùa Thầy (Hà Nội) có hai tượng
người ngồi ở ban Đức Ông, phải chăng đó chính là thái tử Kỳ Đà và Cấp Cô độc?
- Ban Thánh hiền: A nan Thánh tăng (S: Ananda, dịch nghĩa là Hoan hỉ) thường
được thờ ở bên phải, Thánh hiền là cách gọi dân gian, vừa là anh họ của thái tử Tất
Đạt Đa, vừa là đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni , sau này là Đệ nhị Tổ kế đăng. Ngài
được tán thán là đệ nhất Đa văn Thánh giáo (Người nghe nhiều lời dạy Đạo của Đức
Thích Ca Mâu Ni nhất trong tăng đoàn). Sau khi Đức Thách Ca nhập diệt, Thánh tăng
là người có công kết tập kinh điển của Phật giáo. Cụm tượng Thánh tăng thường có
Diệm Nhiên (Quỷ đói mặt cháy) và Lực sĩ thị giả.
- Đại Hùng bảo điện (Phật điện) ở chính giữa ngôi chùa, là vị trí trung tâm.
Các tượng trên Đại Hùng bảo điện khá nhiều chia các lớp tượng như sau:
+ Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam thế gồm 3 pho, bên trái là Hiện tại thế,
bên phải là Vị lai thế, ở giữa là Quá khứ thế – Hiện tại chỉ là một khoảng giả định, một
khoảnh khắc cực ngắn mà kẻ khôn ngoan phải thụ hưởng khoảnh khắc ấy – an nhiên
trong từng khoảnh khắc thấy an lạc. Tên đầy đủ là Tam thế tam thiên Phật (ba nghìn vị
Phật thời quá khứ hiện tại tương lai). Trong đó, Thiên (ngàn) là con số phiếm chỉ
không đếm được.
+ Lớp thứ 2: Bộ Di đà tam tôn (Di đà ở giữa, Đại lực Đại thế chí Bồ tát bên
phải, Đại bi Quan thế âm Bồ tát bên trái) bộ này còn gọi là Tây phương/ Hoa nghiêm
tam Thánh, trong đó: Phật A di đà thể hiện tính bát đại, tuyên ngôn của đạo Phật là từ

295
tâm và trí tuệ; Quan thế âm Bồ tát: Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả: (Bốn tính thuộc từ
tâm); Đại thế chí Bồ tát: Đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng: (Bốn tính thuộc trí tuệ). A
di đà là vị Phật ở Tây phương cực lạc, có chức năng tiếp dẫn linh hồn nhưng vì ít
xuống trần gian nên phải nhờ tới hai vị bồ tát của mình.
+ Lớp thứ 3: Bộ tượng Thích ca Liên hoa ở giữa, Ca Diếp bên trái, Ananđà bên
Phải – một Phật và hai thị giả.

+ Lớp thứ 4: Tượng Tuyết Sơn (chùa Thầy, chùa Trăm gian, chùa Mía, )
được đưa lên thờ với ý nghĩa đạo Phật không tán đồng đường lối tu khổ hạnh.
+ Lớp thứ 5: Bộ tượng Di Lặc, bên trái là Đại hạnh Phổ hiền Bồ tát (đức hạnh),
bên phải là Văn thù sư lợi Bồ tát (trí tuệ). Di Lặc là người đã đoạn tuyệt được lục dục
thất tình, là vị Phật của tương lai đại hoà thượng, cầm túi to, người lùn thấp, có 13 đứa
bé trong đó có 6 đứa tượng trưng cho lục dục (lục căn – lục trần – lục dục)
2
, 7 đứa bé
tượng trưng thất tình.
+ Lớp thứ 6: Toà Cửu Long ở giữa, bên trái là Đế Thiên (Indra – Ngọc hoàng:
vua của cõi trời sắc giới: Cõi có hình tướng) và bên phải là Đế Thích (Brama: vua của
cõi trời dục giới: Cõi không còn hình tướng nhưng vẫn còn dục vọng, ham muốn). Toà
Cửu Long được xây dựng theo tích Thích Ca sơ sinh – một trong bốn tích quan trọng
trong đời Phật (đản sinh, xuất gia, thành đạo và viên tịch). Phía trước là tượng Nam
Tào (Mũ đỏ, quần áo đỏ, mặt đỏ), tượng Bắc đẩu (Mũ đen, quần áo đen, mặt đen): yếu
tố dân gian – hai ông phụ trách sổ sinh sổ tử và thêm hai bên toà đại điện là Thập điện
diêm vương cai quản 10 cửa điện xét xử tội lỗi của linh hồn con người sau khi mất.
Quan âm Nam Hải hay Quan âm toạ sơn (Thị Kính), phải chăng là sự phóng
chiếu của Mẫu Thuỷ và Mẫu Thoải từ văn hoá Việt. Người Việt đến với Bồ tát không
chỉ là đến với Phật giáo mà là đến với tình mẹ che chở và yêu thương?
Quan âm (quán âm) ThiênThủ thiên Nhãn: Theo kinh Vô ngại Đại bi Thiên thủ
thiên nhãn Đà la ni Đức Quán âm hóa hiện thành ngàn tay ngàn mắt (ngàn là con số

2
Tương truyền Phật Di Lặc là Phật quá khứ, một trong bảy vị cổ Phật thời quá khứ gọi Thiền na Thất Phật:Tỳ Bà Thi
Phật, Thi Khí Phật, Xa Phù Phật, Cù Lưu Tôn Phật, Ca Diếp Phật, Di lặc Tôn Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật (Kinh
Dược Sư). Nhưng Di lặc tôn Phật sẽ xuất thế trong thời vị lai, hứa hẹn một thời kỳ thái bình cho nhân gian nên có câu::
Di Lặc xuất thế, thiên hạ thái bình.

296

phiếm chỉ) để thực hiện hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của mình. Theo tích truyện dân
gian thì kiếp Ngài là nàng chúa Ba tên là Diệu Thiện con vua Trang Vương, Ngài sang tu
hành và đặc đạo ở chùa Hương (Hà Nội) Quan âm Thiên thủ thiên nhãn là một khát
vọng mong cầu cứu vớt của con dân Đại Việt trong những cơn muối mặn gừng cay của
cõi thế vốn như bọt bóng
Các tượng Thần khác: Thổ địa (canh giữ cửa chùa, nơi đại điện, Đại Hùng bảo
điện), Giám trai (kiểm tra sự thanh tịnh của lễ Phật), các tượng Tổ, tượng Kim đồng, Ngọc
nữ có chùa có, có chùa không.
- Mô hình bài trí tượng phổ biến trên Phật điện ở các chùa Bắc Bộ hiện nay
như sau:


















DI LẶC TAM TÔN
Pháp Hoa Lâm Bồ tát

Phật Di Lặc
Đại Diệu Tường Bồ tát

Giám
trai

Thổ
địa

TUYẾT SƠN
A Nan Đà, Thích Ca, Ca Diếp

Thập
điện
Diêm
vương

DI ĐÀ TAM TÔN
Đại thế chí Bồ tát
Phật A Di Đà
Quan thế âm Bồ tát

Bên phải
Quan Thế
âm thiên
thủ thiên
nhãn

Bên trái
Quan Thế âm


toạ sơn

TAM THẾ TAM THIÊN PHẬT

Đài
Cửu long
Thích Ca
sơ sinh

Hộ
pháp
Kim
Cương

Đế
Thích

Phạm
Thiên

Bắc
Đẩu

Nam
Tào

Cụm
tượng
Đức ông


Cụm
tượng
Thánh
Tăng

Thập
điện
Diêm
vương

Ngọc
Hoàng

Hộ
pháp
Kim
Cương


297
HDV đưa khách vào tham quan chùa, sau khi khách hành lễ xong có thể giới
thiệu từng pho tượng, thái độ cung kính, tư thế nghiêng người và tay chỉ ngược ra
ngoài hoặc chìa cả bàn tay về phía tượng. Cách gọi tên tượng theo thuật ngữ sau:
Thánh tượng Ngài
Kết thúc phần giới thiệu về tượng xong cho khách đi lễ, xuống nhà Mẫu, Tổ, đi
vãn cảnh chùa. HDV cần ngoại giao với Ban Quản lí, Sư trụ trì để lấy thêm thông tin
về sự tích liên quan đến chùa, các vị danh sư của chùa, phong tục vùng đó, liên hệ ăn
chay, thỉnh sư tụng kinh cầu an cho cả đoàn, hoặc giới thiệu pháp khí hay giới luật
trong chùa.

4. Những pháp khí, Phật cụ thường sử dụng trong chùa Việt
Cờ Phật: Lá cờ chữ nhật, ghép các mảnh khác màu: nói lên sự hoà hợp của
nhiều cá thể, nhiều dân tộc, vẫn cùng nhau trong đạo pháp của Phật giáo. Phải chăng,
thường có 10 mảnh tượng trưng cho Thập phương chúng sinh, với 5 màu cho đại địa,
đại thuỷ, đại hỏa, đại phong và tính Không?
Chuông: Có hai loại chuông là chuông treo và chuông gõ.
Chuông treo: Hình ống, có quai treo thường được trang trí bằng hình rồng uốn
mình, chia làm bốn múi, cách nhau một vành đai, có núm gõ, trên thân chuông thường
khắc các bài văn có nội dung liên quan đến bản chùa, hoặc kinh Phật gọi là bài Minh
chung.
Chuông gõ: Miệng chuông ngửa lên trên, đến chuông là vành khăn vải, thường
đặt cạnh mõ gỗ, để trước Phật điện dành cho việc trì tụng kinh của các nhà tu hành và
khách thập phương.
Mõ: Nhiều kích cỡ, bằng gỗ, khoét rỗng lòng, dùng để gõ khi tụng kinh với hai
loại tròn và hình cá.
Mộc: Là miếng gỗ dùng đánh hiệu lệnh của chùa. Có Mộc bản là một ván gỗ và
mộc cá là mộc hình con cá thường treo hiên chùa để gõ báo các thời cho chư Tăng ni
làm việc theo lịch.
Khánh: thường dùng khi rước đồ linh thiêng hay thỉnh khi các vị Thượng sư đi
lên Phật điện hành lễ hay lên bảo toà thuyết pháp.

298
Ngoài ra còn nhiều pháp khí khác nữa như: Linh chử, Kim cương chử, trống,
kèn, các vị tăng trong Mật tông thường dùng khi hành lễ. HDV có thể giải thích ý
nghĩa của các pháp khí này để cung cấp các thông tin hữu ích cho du khách. Việc gõ
các pháp khí theo quy định khá chặt chẽ vì chuông mõ hay mộc là tai mắt của chư
Tăng nên HDV cần hướng dẫn du khách không tùy tiện gõ pháp khí, điều này được coi
như hành vi bất kính.
Trang phục: Đối với hàng Sa di mặc áo hoại sắc (mầu nâu, màu khói hương)
với ý nghĩa đệ tử mặc áo này thân đồng với cái bụi, tâm không theo vẻ đẹp bề ngoài,

diệt kiêu ngạo trong lòng (diệt trừ ngã mạn), gội tâm mà tu Phật.
Đối với hàng Tỳ kheo vì đã được thọ giới cụ túc (đầy đủ các giới) nên mặc áo
Tăng già lê vàng (áo cà sa). Màu vàng là màu chết, áo tăng già lê màu vàng tượng
trưng cho sự tuyệt diệt của thân tứ đại, người mặc áo này coi những nhu cầu phàm tục
của thân đã hết để tâm an ổn thường
HDV cần lưu ý du khách không nên mặc áo ngắn tay, áo sát nách, áo may ô,
quần soóc, váy ngắn vào trong chùa, trang phục này được hiểu là sự xúc phạm đến
Tam bảo.
5. Trình tự HDV tác nghiệp khi vào chùa:
Ngôi chùa Việt không những là một kiến trúc tôn giáo biểu hiện cho Phật giáo,
tín ngưỡng Việt (thờ Mẫu, thờ thần) mà còn mang trong mình biết bao trầm tích của
nghệ thuật cùng các giá trị văn hoá của người Việt. Do đó, trong quá trình hướng dẫn
du khách quan sát và tham gia vào các nghi lễ thờ cúng tại chùa cần lưu ý một số vấn
đề sau đây:
+ Với ý nghĩa đã trình bày ở trên của Tam quan nên khi đi qua Tam quan vào
chùa nên đi vào cửa Giả quan (bên phải) và đi ra bằng cửa Không quan (bên trái). Cửa
Trung quan chỉ dành cho Thiên tử, bậc cao tăng, bậc khoa bảng đi vào chùa và khi ra
cũng theo cửa này. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều chùa đóng và mở cửa không theo
trình tự trên, HDV cần giải thích để khách hiểu ý nghĩa sâu xa của triết lý Sắc – Không
này.
+ Gặp sư trụ trì: Chùa do sư trụ trì cai quản, có sư chùa mới được giữ gìn và
Đạo Phật mới được truyền lưu nên khi vào chùa theo lệ:

299
Nhập gia vấn chủ, nhập tự kiến sư
Tiên vấn trụ trì hậu lễ Tam bảo
(Vào nhà hỏi chủ, đến chùa gặp sư
Trước thăm trụ trì, sau lễ Tam bảo)
Tuy nhiên, vào dịp lễ hội, lễ trọng (như rằm, mùng một) khó có thể gặp sư trụ
trì nên có thể bỏ qua nghi thức này.

– Cách xưng hô: Với nhà sư thì xưng là A di đà Phật, bạch Thầy, và xưng
mình là Con. Xưng hô như vậy có nghĩa là nhìn thấy chư Tăng mà tưởng nhớ thầy
Thích Ca Mâu Ni, mình xưng hô như vậy là đang xưng con với Đức Thích Ca. Nếu
nhà sư đó là Thầy hướng dẫn mình tu tập thì xưng hô là Thầy mang nghĩa là Thầy dạy
học đạo. Khi thưa gửi gì với chư Tăng Ni thì đều chắp tay hình búp sen.
– Lễ vật: Là đồ Lục cúng là hương, hoa, đăng (nến), trà, quả, thực.
Lễ Phật chỉ cần đồ lục cúng, không dâng tiền vàng, đồ mặn, đồ mã, Tiền đặt
trong chùa có nghĩa là tiền chi phí dầu đèn, hương hoa lễ Phật, tu bổ di tích và nuôi
chúng Tăng. Về việc đặt tiền, cũng cần bàn đôi chút, HDV hướng cho khách không đặt
tiền lên ban thờ, đĩa lễ mà bỏ vào hòm công đức ở ban chính. Hiện nay nhiều chùa để
quá nhiều hòm công đức do người dân trước khi lễ tại ban nào cũng rút tiền bỏ lên.
Nếu bỏ tiền lên ban Phật, gài vào tay, thân tượng Phật, Thánh là bất kính, nhất là tiền
lẻ dù là tiền mới cũng không nên, vừa trái với giáo lý Phật giáo vừa làm hao tổn tiền tệ
của Nhà nước. Trào lưu đổi tiền lẻ để đi lễ đầu năm là hiện tượng mê tín, mang tính
mặc cả với các đấng thiêng liêng, đây là vấn nạn cho thấy sự thiếu hiểu biết Phật pháp
vừa mang nặng sự tham lam, thiếu tôn kính với các đấng siêu nhiên.
– Trình tự lễ trong chùa:
Bước 1: Thắp hương tại đỉnh đặt bên ngoài, hạn chế thắp hương bên trong chùa
có thể gây tổn hại đến các hiện vật cổ như tượng Phật, pháp khí,
Bước 2: Lễ tại Ban Đức ông: đặt lễ lục cúng, chắp tay hình búp sen, xin phép
vào lễ Phật (Đức Ông là người kiểm soát tâm thế của kẻ đến lễ chùa, chúng sinh đến
với Phật).

300
Bước 3: Phật điện: đặt lễ tại chính giữa Tam bảo, chắp tay hình búp sen, có thể
đứng hoặc quỳ, thành tâm cầu khẩn điều an lành.
Bước 4: Sau đó đặt lễ và lần lượt kính lễ tại Ban Tổ, Nhà Mẫu và Ban Vong.
- Về cầu cúng: Nhà chùa chỉ cúng những nghi lễ Phật giáo như Phật đản, Vu
lan, Mông sơn thí thực, Ngoài ra có một số lễ cúng rước vong lên chùa nhằm thoả
mãn đời sống tâm linh cho người dân. Hiện nay, việc cúng sao giải hạn ở các chùa

cũng không phải giáo lý của Phật giáo. Phật giáo cho rằng, mọi sự đều có luật nhân
quả nên không có việc giải hạn. Tục lệ này ảnh hưởng từ Đạo giáo không có trong
Phật giáo. Tín ngưỡng dân gian phóng chiếu vào đạo Phật, nấp trong bóng nhà Phật, là
sự cầu khẩn các vị thần hộ trì của nhà Phật: Nam Tào, Bắc Đẩu, Thập điện Diêm
Vương… phù hộ cho mình, đó là tính thế gian trong Phật pháp ở Bắc bộ.
Với khuôn khổ bài tham luận, chúng tôi không trình bày đầy đủ, nhưng mong
muốn rằng để phát triển du lịch bền vững, trước hết cần phải có sự nghiên cứu khá cụ
thể về các đối tượng để có cách tiếp cận di sản một cách phù hợp nhất.

Tài liệu tham khảo:
1. Trần Lâm Biền (2003), Chùa Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Hà Văn Tấn (2001), Chùa Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
3. www.khonggianphatgiao.com


×