Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.04 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VĂN XUÂN QUỲNH TRANG


QUY CHÕ PH¸P Lý CñA HéI NGHÞ CHñ Nî

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VĂN XUÂN QUỲNH TRANG


QUY CHÕ PH¸P Lý CñA HéI NGHÞ CHñ Nî



Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ HUY CƢƠNG



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan




Văn Xuân Quỳnh Trang









MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA
HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 9
1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản . 9
1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản 9
1.1.2. Vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản 13
1.2. Địa vị pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản 18
1.2.1. Khái niệm Hội nghị chủ nợ 18
1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc thiết lập Hội nghị chủ nợ 18
1.2.3. Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ 19
1.2.4. Chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ 20
1.3. Hội nghị chủ nợ theo thủ tục phá sản của một số quốc gia trên thế
giới và những kinh nghiệm cho Việt Nam 21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ

NỢ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 26
1.2. Chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ 26
1.2.1. Chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ 26
1.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ 29
2.2. Thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ 31
2.2.1. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ 32
2.2.2. Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất 33
2.2.3. Hội nghị chủ nợ tiếp theo 36
2.2.4. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 36
2.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ 39
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY CHẾ
PHÁP LÝ VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
VIỆT NAM HIỆN NAY 43

3.1. Một số nhận xét về chế định Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt
Nam 43
3.1.1. Ưu điểm 43
3.1.2. Hạn chế 47
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định Hội nghị chủ nợ trong
pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay 58
3.2.1.Các giải pháp pháp lý 58
3.2.2. Các giải pháp bổ trợ khác 64
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70




1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế thị trường. Cũng như
những chủ thể khác, doanh nghiệp cũng có quá trình hình thành, tồn tại và
chấm dứt hoạt động. Chính sự cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị
trường đã dẫn đến quy luật đào thải, buộc những doanh nghiệp kinh doanh
kém hiệu quả có thể rút ra khỏi nền kinh tế bằng cách chấm dứt hoạt động của
nó và phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, từ khi phát triền kinh tế thị trường cho đến nay, đã có
hàng trăm nghìn doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập và hoạt động kinh
doanh. Nhưng bên cạnh đó thì số lượng doanh nghiệp chấm dứt hoạt động vì
nhiều lý do khác nhau cũng không phải là nhỏ. Một khi doanh nghiệp không
thể tồn tại thì bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định về quy trình,
thủ tục chấm dứt hoạt động của chúng một cách chặt chẽ để vừa bảo vệ quyền
lợi của chủ nợ, người lao động, cũng như bảo đảm trật tự xã hội, trật tự quản
lý kinh tế của Nhà nước. Pháp luật phá sản của Việt Nam đã ra đời nhằm bảo
vệ lợi ích hợp pháp của chủ nợ, của doanh nghiệp mắc nợ và những người có
liên quan, xác định trách nhiệm của người mắc nợ, thúc đẩy hoạt động kinh
doanh có hiệu quả và bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.
Phá sản hiện nay là vấn đề có tính thời sự bởi cuộc đại suy thoái kinh
tế trên toàn cầu, lạm phát triền miên và khủng hoảng nợ công có tác động rất
xấu tới hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói
riêng. Rất nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh nợ nần chồng chất và không có
khả năng trả nợ đến hạn mà trong khi đó việc tìm lối ra khỏi tình trạng đó là
vô cùng khó khăn. Đồng hành với tình trạng này là trốn nợ, tẩu tán tài sản
Bối cảnh như vậy có thể kéo theo sự đổ bể hàng loạt doanh nghiệp bởi sự

2
đan xen nợ nần trong làm ăn kinh tế. Trong khi đó pháp luật về phá sản nói
chung của nước ta đang còn gặp nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn đời sống, chưa thật sự là hành lang pháp lý an toàn, khả thi.

Mặt khác, thực tiễn thi hành pháp luật cũng còn rất nhiều vấn đề phải bàn. Ở
Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 là văn bản luật đầu tiên quy định
về giải quyết phá sản. Tuy nhiên sau gần chục năm thi hành văn bản này bị
đánh giá thấp về hiệu quả điều chỉnh và ít tính khả thi. Luật Phá sản 2004
được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực từ ngày 15/10/2004
nhằm giải quyết những vấn đề tồn tai của Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993. Với rất nhiều nội dung mới được bổ sung, sửa đổi Luật Phá sản 2004
đã được nhà làm luật đặt nhiều kỳ vọng trong việc áp dụng vào thực tiễn,
giảm tải những vướng mắc trong quá trình thực thi. Song, không giống như
những kỳ vọng ban đầu, Luật Phá sản năm 2004 đã gặp nhiều vướng mắc,
khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Một thập kỉ trải qua, vào ngày
19/06/2014, Luật Phá sản 2014 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực
áp dụng từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 ra đời được đánh giá như là
một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan có vai trò
không nhỏ này trong đời sống kinh tế.
Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi.
Tuy nhiên không phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Do vậy,
pháp luật phá sản của Việt Nam cũng như của các nước trên thế giới đã đề cập
tới khái niệm Hội nghị chủ nợ như một thiết chế duy nhất đại diện cho tất cả
các chủ nợ, thay mặt các chủ nợ tham gia vào quá trình xử lý doanh nghiệp
phá sản. Hội nghị chủ nợ được quy định trong Luật Phá sản 2004 với đầy đủ
tư cách và địa vị pháp lý, có thẩm quyền để thay mặt các chủ nợ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ đóng vai trò qua

3
trọng trong việc giải quyết một cách bình đẳng và công bằng lợi ích của các
chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và giữa các chủ nợ
với nhau. Tuy nhiên, chế định này vẫn chưa được đề cập một cách đầy đủ
trong pháp luật và chưa được các nhà luật học nghiên cứu chuyên sâu. Do

vậy, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ”
làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, phá sản doanh nghiệp vẫn là một vấn đề còn khá mới mẻ.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án… đề cập tới hiện tượng
phá sản trong pháp luật Việt Nam và đặt trong mối quan hệ so sánh với pháp
luật phá sản của một số nước trên thế giới. Phải kể tới công trình nghiên cứu
về Luật Phá sản của Tòa án nhân dân tối cao được đăng trên đặc san chuyên
đề của Tòa án nhân dân năm 2005. Công trình này nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến toàn bộ nội dung cơ bản của Luật Phá sản, các nội dung được quy
định trong luật nội dung và trình tự thủ tục giải quyết; vai trò của các chủ thể
tham gia phá sản như Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Tòa án, Hội nghị chủ nợ.
Tuy nhiên, vấn đề có tính chất chuyên sâu thì mới nghiên cứu ở mức độ hạn
chế.
Ngoài ra, cần nhắc tới Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Trương
Hồng Hải với đề tài “Luật Phá sản Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và
phương hướng hoàn thiện” đã bảo vệ năm 2004 tại trường Đại học Luật Hà
Nội. Luận án đã tập trung nghiên cứu các nội dung trong Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và so sánh với pháp luật phá sản của một số quốc gia khác
trên thế giới (Cộng hòa liên bang Nga, Đức, Trung Quốc, Hoa Kỳ…) trong
các vấn đề như xác định tình trạng phá sản, các chủ thể tham gia trong thủ tục
tố tụng phá sản, vai trò của các thiết chế như Tòa án, Hội nghị chủ nợ. Từ đó

4
rút ra những điểm tương đồng hay khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các
nước trên thế giới, đồng thời cũng lý giải những yếu tố tạo nên sự khác biệt
đó. Luận án cũng đã đề cập tới sự hình thành và hoạt động của Hội nghị chủ
nợ, chỉ ra những ưu điểm trong mô hình này tại một số nước và đưa ra kinh
nghiệm cho Việt Nam nhưng mới dừng lại ở mức độ bao quát, chưa phân tích
sâu.

Bên cạnh đó là Luận án tiến sỹ luật học với đề tài “Kế thừa những ưu
điểm của Luật Phá sản năm 2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn
thi hành” của tác giả Lê Ngọc Thắng đã bảo vệ năm 2014 tại Đại học Quốc
gia Hà Nội. Luận án đã kế thừa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về phá
sản và phá sản doanh nghiệp theo pháp luật phá sản của Việt Nam, đồng thời
có so sánh với pháp luật một số nước khác từ đó rút ra bài học cho Việt Nam
trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản. Ngoài ra, luận án cũng phân tích và
khẳng định một số quy định được cho là tiến bộ, hợp lý cũng như những quy
định hạn chế, bất cập của Luật Phá sản năm 2004, có thể kế thừa và phát triển
khi hoàn thiện.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích
một cách khái quát những nguyên lý cơ bản của khoa học luật so sánh và sự
vận dụng chúng với ý nghĩa là một phương pháp luận quan trọng trong hoạt
động so sánh pháp luật nói chung và pháp luật phá sản nói riêng; về khái niệm
phá sản và bản chất của phá sản; xác định tình trạng phá sản của doanh
nghiệp; trình tự thủ tục giải quyết; quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp;
nghiên cứu đánh giá Luật Phá sản nói chung và pháp luật phá sản nói riêng;
nghiên cứu Luật Phá sản một số nước và rút ra những điểm tương đồng và
khác biệt với pháp luật phá sản Việt Nam; đánh giá thực trạng áp dụng pháp
luật hiện hành và đưa ra những phương án đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả của pháp luật phá sản trong thực tiễn. Chế định về Hội nghị chủ nợ

5
tuy đã được đề cập đến trong những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên chưa
được nghiên cứu ở mức độ chuyên sâu. Luận văn là công trình đầu tiên
nghiên cứu cụ thể về chế định này, là một trong những nội dung rất quan
trọng trong quá trình giải quyết một vụ việc phá sản được ghi nhận trong Luật
Phá sản và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực

tiễn các quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ, thực trạng pháp luật, nêu lên xu
hướng điều chỉnh của chế định pháp luật về Hội nghị chủ nợ, đưa ra những
đánh giá và chỉ ra những đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định về chế định Hội nghị chủ nợ trong thủ tục
phá sản doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất quyền,
lợi ích hợp pháp của chủ nợ, người lao động và những chủ thể khác có liên
quan đến quá trình giải quyết các vụ việc phá sản ở nước ta.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản của chế định Hội nghị chủ
nợ, trong đó đi sâu phân tích về bản chất của thủ tục phá sản với tính tập thể
của các chủ nợ và vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản; khái niệm và các
học thuyết về Hội nghị chủ nợ; phân tích cơ sở pháp lý và bản chất pháp lý
đặc trưng của Hội nghị chủ nợ; đồng thời cũng nêu lên những chức năng chủ
yếu của Hội nghị chủ nợ trong quá trình tiến hành tố tụng phá sản.
- Bên cạnh đó, nhằm có được những kinh nghiệm tốt cho việc hoàn
thiện pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, luận văn đã có những nghiên
cứu bước đầu về kinh nghiệm trong việc thiết lập và hoạt động của Hội nghị
chủ nợ ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Đức, Trung Quốc.
- Phân tích những quy định của Luật Phá sản hiện hành và các ngành

6
luật có liên quan về các chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ, thủ tục triệu tập và
tiến hành Hội nghị chủ nợ, thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ trong quá trình
tiến hành tố tụng phá sản.
- Phân tích và đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về Hội nghị chủ nợ
ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời nhấn mạnh những khó khăn, vướng
mắc mà các chủ thể thường gặp phải khi áp dụng các quy định này trong thực
tiễn. Đề cập tới những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực của những quy định
về Hội nghị chủ nợ.
- Đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện

pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, trong đó có những phương án hoàn
thiện hệ thống pháp luật phá sản nói chung, pháp luật về Hội nghị chủ nợ nói
riêng và những giải pháp về tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật
về chế định Hội nghị chủ nợ nhằm đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết phá
sản ở nước ta trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
Hội nghị chủ nợ, phân tích thực trạng của pháp luật Việt Nam về những vấn
đề pháp lý có liên quan đến khái niệm Hội nghị chủ nợ.
Đây là một chế định pháp luật quan trọng trong Luật Phá sản, với bản
chất đề cao tính tập thể của các chủ nợ, đòi hỏi sự điều tiết của nhiều nhóm
chủ thể khác nhau như chủ nợ, con nợ, người lao động trong doanh nghiệp
phá sản, nền kinh tế - xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và

7
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, áp dụng vào tình hình cụ thể
của nước ta.
Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng
được đặc biệt chú ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng
hợp các kiến thức từ pháp luật thực định và phân tích thực tiễn để nhận thức
và đánh gái thực trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương
pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã
hội học pháp luật… để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn

Hiện nay tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu Luật Phá sản với tư
cách là một đạo luật nhưng thường tập trung nghiên cứu một cách khái quát
về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Đề tài “Quy chế
pháp lý của Hội nghị chủ nợ” nghiên cứu một vấn đề mang tính cụ thể, vấn đề
rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong
khi Luật Phá sản và những quy định về Hội nghị chủ nợ đã có hiệu lực nhưng
đang cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát huy hơn nữa hiệu quả
trên thực tế, hi vọng những kiến giải của tác giả sẽ được các nhà làm luật
tham khảo. Những điểm mới của luận văn là:
- Trên cơ sở phân tích các quan niệm, học thuyết về Hội nghị chủ nợ,
luận văn đưa ra khái niệm và các học thuyết, bản chất pháp lý, vai trò và
những chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ.
- Phân tích những nội dung của pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời
chỉ ra những bất cập trong pháp luật hiện hành, khẳng định các quy định về

8
Hội nghị chủ nợ là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của pháp luật phá
sản Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật Hội
nghị chủ nợ, đồng thời nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng các quy định này, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời đề xuất kiến nghị về một số giải pháp
cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về Hội
nghị chủ nợ.
Tác giả hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng cao ý thức pháp
luật về một vấn đề khá mới và cụ thể trong luật là Hội nghị chủ nợ trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời luận văn sẽ có ý nghĩa về
lý luận và thực tiễn, là tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, học tập đặc biệt
đối với những người làm công tác thực tiễn liên quan đến phá sản doanh

nghiệp và các chủ thể có thẩm quyền liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt là
các doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo
chủ yếu, luận văn được kết cấu với 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý của Hội nghị chủ
nợ trong thủ tục phá sản.
Chương 2. Thực trạng quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ và thực
tiễn áp dụng
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về Hội
nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay.

9
Chƣơng 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trò của chủ nợ trong thủ tục
phá sản
1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản
Thuật ngữ “Phá sản” thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị
lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và không còn khả năng thanh toán
các khoản nợ. Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng
bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt
sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh. Khi
một doanh nghiệp phá sản sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều nhóm lợi
ích trong nền kinh tế.
Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay
có thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá
sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó
càng sâu và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có

thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu
ứng domino" - phá sản dây chuyền.
Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực
nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho
sức ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội,
thậm chí các tội phạm.
Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng
hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị.

10
Như vậy, xét ở ba khía cạnh trên, phá sản với tính cách là một hiện
tượng xã hội tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn
chế các tác động tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng
và duy nhất của chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá
sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ
tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản… Do vậy Luật Phá
sản hiện đại cần xây dựng một cơ chế điều tiết linh hoạt, đảm bảo lợi ích cho
các chủ thể có liên quan. Một đạo Luật Phá sản hiện đại thường hướng đến rất
nhiều mục tiêu điều chỉnh khác nhau, là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nhiều loại chủ thể khác nhau từ chủ nợ, con nợ cho tới người lao
động và đồng thời cũng là một công cụ hiệu quả trong điều tiết kinh tế.
“Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự), thủ
tục giải quyết phá sản làm một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do tính chất đặc
biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản bao giờ cũng
được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc
biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm như sau:
Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể.

Khác với thủ tục đòi nợ thông thường, thủ tục phá sản tiến hành việc
đòi nợ và thanh toán nợ một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng, mà tất cả phải tập
hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất được gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội
nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết
phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con nợ được
đưa vào một quỹ chung dùng để trả lại cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu

11
tiên nhất định đã được pháp luật phá sản quy định. Nếu tài sản của con nợ
không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán
theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản
còn lại của doanh nghiệp.
Thứ hai, thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành trong một
hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ.
Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ thông qua việc khiếu kiện
ra Tòa án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp
dụng khi doanh nghiệp mặc nợ đã lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính,
không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, không còn lối thoát mà
người ta thường gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là
thủ tục pháp lý không dễ xảy ra, nó chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng
mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông
thường không thể thực hiện được.
Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự
chấm dứt hoạt động của một thương nhân.
Trong tố tụng dân sự, sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Sau khi trả nợ xong, con nợ
vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường. Đây là điểm khác biệt so với
tố tụng phá sản. Trong tố tụng phá sản, để giúp các chủ nợ thu hồi được các
món nợ của mình, Tòa án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như

quyết định áp dụng thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp (thực chất là
quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp) để trả cho các chủ nợ.
Nói cách khác, kết quả của thủ tục phá sản thường dẫn đến sự chấm dứt hoạt
động của chính bản thân con nợ rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản để
trả cho các chủ nợ.

12
Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần túy là một thủ tục đòi nợ mà
còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi.
Mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ thủ tục đòi nợ tập thể
nhưng điều đó không có nghĩa là, khi một con nợ bị mở thủ tục phá sản thì
ngay lập tức tài sản của doanh nghiệp sẽ bị dùng để thanh toán cho các chủ
nợ. Hiện nay, ngoài mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản có nhiều nước trên
thế giới còn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng, đó là giúp con nợ phục hồi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Việc tuyên bố phá sản một doanh
nghiệp sẽ không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân các chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả
bất lợi cho xã hội.
Trong thủ tục phá sản, con nợ được Tòa án tạo điều kiện tối đa cho việc
phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ
thoát khỏi tình trạng phá sản là việc pháp luật cho phép con nợ được chủ động
xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ, nếu được
thông qua thì về cơ bản, doanh nghiệp đó được khôi phục lại vị trí pháp lý ban
đầu, tiếp tục hoạt động kinh doanh một cách bình thường [42].
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường
mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh
doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng
thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của
tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã

hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định
nào đó. Trên thế giới, pháp luật phá sản có hai xu hướng khác nhau. Xu
hướng thứ nhất có mục tiêu là “hướng vào con nợ” nhằm tập trung giải cứu

13
các con nợ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho
người lao động, tránh bất ổn kinh tế thông qua việc tổ chức lại con nợ. Xu
hướng thứ hai có mục tiêu “hướng vào chủ nợ” bằng cách tạo điều kiện cho
các chủ nợ cùng nhau sai áp đối với phần sản nghiệp còn lại của con nợ. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây dường như đã có sự kết hợp cả hai mục tiêu
này theo hướng nghiêng về mục tiêu “hướng vào con nợ”, vì người ta nhận
thấy rằng tạo điều kiện cho sự tiếp tục tồn tại của con nợ sẽ có lợi hơn cho
nền kinh tế trong tình trạng thất nghiệp cao.
Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh nghiệp phá sản là điều khó
tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này
nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực
của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách năng động và mềm dẻo.
Để đảm bảo điều đó, thủ tục phá sản cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc
điều tiết hiệu quả mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ nhằm đạt
được các chức năng điều chỉnh của mình.
Như vậy, việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ
tục phá sản được hiểu là thông qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản phải
tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một cách hài hòa mối quan hệ về lợi
ích giữa các chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hóa các quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, đồng thời, qua đó còn tính toán việc cân bằng các lợi ích khác
mà pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích người lao động, lợi ích nền kinh
tế và xã hội nói chung.
1.1.2. Vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản
Khi mới hình thành, Luật Phá sản chủ yếu được áp dụng cho các

thương gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật Phá sản đầu tiên

14
của nước Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con
nợ. Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế
mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản
ngày càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ
doanh nghiệp bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các
con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Pháp luật phá sản của đa số các nước trên thế giới đều xác định chủ nợ
là các pháp nhân hay thể nhân có các khoản nợ không được trả đúng hạn.
Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy
nhiên không phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Theo quy định tại
Luật Phá sản 2004, khái niệm chủ nợ được phân thành ba loại: chủ nợ có bảo
đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba (Khoản 1, Điều 6, Luật Phá
sản 2004). Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3, Điều 40, Luật Phá sản 2004
thì chủ nợ có bảo đảm còn là người chủ tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã
thuê mượn tài sản mà tài sản đã được chuyển nhượng cho người khác. Cũng
theo Khoản 1, Điều 57, Luật Phá sản 2004 người bị đình chỉ thi hành án dân
sự có tài sản kê biên mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án
cũng có thể được coi là chủ nợ có bảo đảm.
Chủ nợ có bảo đảm một phần bao gồm những chủ nợ có khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà
giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó (Khoản 2, Điều 6, Luật Phá sản
2004) và những chủ nợ chuyển hóa từ loại chủ nợ có bảo đảm thành chủ nợ
có bảo đảm một phần vì tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị ban đầu.
Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ có khoản nợ không được


15
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người thứ ba (Khoản
3, Điều 6, Luật Phá sản 2004). Cũng như hai loại chủ nợ trên, Luật Phá sản
2004 cũng quy định những chủ nợ chuyển hóa từ chủ nợ có bảo đảm hay chủ
nợ có bảo đảm một phần; những người là một bên bị thiệt hại trong hợp
đồng bị đình hoặc đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn (Điều 47,
Luật Phá sản 2004); những người bị đình chỉ thi hành án dân sự không kê
biên tài sản (Điều 57, Luật Phá sản 2004); những người được thực hiện
nghĩa vụ tài sản trong vụ án bị đình chỉ (Điều 58, Luật Phá sản 2004); người
bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản (Khoản 3, Điều 62, Luật Phá sản 2004) đều được coi như chủ
nợ không có bảo đảm.
Đặc biệt, tại Khoản 4, Điều 14 quy định: “Sau khi nộp đơn, đại diện
cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được coi là chủ nợ” và khoản 2
điều 62 Luật Phá sản “đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có
quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” có thể khảng định, người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được xem như một chủ nợ
không có bảo đảm đặc biệt. Vì người lao động đã đem sức lực của mình làm
hàng hóa để trao đổi với doanh nghiệp và tiền lương chính là nguồn sống
của bản thân họ và gia đình họ mà không có một khoản bảo đảm nào. Khi
doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì họ là những người bị
thiệt hại nhiều nhất, không có lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Như vậy,
khái niệm về các loại chủ nợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quy định tại
Điều 6, Luật Phá sản 2004 mà nó còn bao gồm nhiều đối tượng được quy
định trong những điều luật khác.
Các chủ nợ của doanh nghiệp là những người có quyền lợi bị ảnh
hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy
định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật Việt

16

Nam cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
(Khoản 1, Điều 13, Luật Phá sản 2004). Chủ nợ có quyền khiếu nại về quyết
định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, có
quyền khiếu nại doanh nghiệp về danh sách chủ nợ do Tổ quản lý tài sản lập,
có quyền khiếu nại về quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các chủ nợ có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ để xem
xét, thông qua phương hướng hòa giải, tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia
giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp nếu không có phương án hòa giải
hoặc phương án hòa giải không được thông qua (chỉ những chủ nợ không có
bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại Hội
nghị chủ nợ.
Ngoài ra, vai trò của Luật Phá sản trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ còn được thể hiện qua quy định tại Điều 31, Luật Phá sản
2004: kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm
doanh nghiệp, hợp tác xã cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo
đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo
đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra, sau khi
nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải được
sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện những hoạt động
sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận
tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có
hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động.

17
Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, Luật Phá sản cho phép
chủ nợ không có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao

dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại Khoản 1, Điều 43 của Luật
Phá sản 2004 vô hiệu. Khi các giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những
tài sản thu hồi được phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện
hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện
sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ cũng có quyền yêu cầu
Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Luật Phá sản đã tạo ra một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng quyền
lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện riêng
con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ trong khi
các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho món nợ
của mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp).
Tồn tại song hành cùng với thủ tục đòi nợ dân sự, thủ tục phá sản
cũng có bản chất là một công cụ đòi nợ chỉ khác ở tính chất “tập thể” của nó.
Do đó, chức năng đầu tiên gắn với sự ra đời của pháp luật phá sản chính là
chức năng thu hồi nợ cho các chủ nợ. Thông qua thủ tục phá sản, các chủ nợ
đều có mục đích chung là nhằm có được sự bảo đảm về quyền chủ nợ của
mình một cách tốt nhất. Tuy nhiên, ở thủ tục phá sản, việc lấy nợ của các
chủ nợ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố sau: một là, sự tồn tại cùng lúc
của nhiều chủ nợ có quyền chủ nợ trên một sản nghiệp duy nhất của con nợ
và sản nghiệp đó không thể đồng thời thanh toán đủ cho tất cả các khoản nợ;
hai là, khi hoạt động kinh doanh đã đổ vỡ đến mức không còn có khả năng
vãn hồi, thương nhân vỡ nợ hoặc những người quản lý sản nghiệp của
thương nhân vỡ nợ thường có xu hướng thực hiện những hành vi làm tiêu
tán sản nghiệp của mình.

18
1.2. Địa vị pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản
1.2.1. Khái niệm Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là cuộc họp của các chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và

chủ trì để thảo luận và quyết định các vấn đề liên quan đến việc giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ trước hết là
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết một cách bình đẳng lợi ích kinh tế của các
chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và giữa họ với
nhau. Nội dung của Hội nghị chủ nợ tập trung chủ yếu bàn và giải quyết về
hai vấn đề chính: Xem xét thông qua phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; Thảo luận và kiến nghị với thẩm
phán về phân chia tài sản của doanh nghiệp nếu không có phương án hoà giải
hoặc phương án hoà giải không được thông qua.
Bên cạnh Hội nghị chủ nợ, Luật Phá sản của một số nước còn quy định
thêm một cơ quan khác đại diện cho chủ nợ là Ủy bản chủ nợ (Hội đồng chủ
nợ) gồm một số chủ nợ lớn, đóng vai trò là cơ quan đại diện thường trực của
Hội nghị chủ nợ.
1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc thiết lập Hội nghị chủ nợ
Các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã là những người có quyền lợi
bị ảnh hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đó, chủ nợ được pháp luật
quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình, trong đó
các chủ nợ có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Mục đích của việc triệu tập
Hội nghị chủ nợ là nhằm để cho các chủ nợ đề đạt các nguyện vọng của mình,
đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ; đồng thời đây là cơ hội quyết định sự sống
còn của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản.
Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chỉ của các chủ nợ,
có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của

19
họ. Vì vậy, đây mới là chủ thể có quyền thông qua hay không thông qua kế
hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp do con nợ
hoặc chủ thể khác được pháp luật quy định soạn thảo. Nếu Hội nghị chủ nợ
không thông qua kế hoạch này thì coi như con nợ đã hết khả năng được phục
hồi, cho dù họ có quyết tâm đến mấy. Trong trường hợp kế hoạch phục hồi đã

được thông qua nhưng việc thực hiện vẫn không đem lại hiệu quả thì Hội nghị
chủ nợ có quyền đề nghị Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lý
đối với con nợ. Tóm lại, ý chí của chủ nợ có vai trò rất quan trọng, quyết định
sự tồn tại hay không tồn tại của con nợ.
Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ trước hết là nhằm bảo đảm cho việc giải
quyết một cách bình đẳng, công bằng lợi ích kinh tế của các chủ nợ trong
quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và giữa các chủ nợ với nhau.
Hội nghị chủ nợ chỉ được triệu tập trong giai đoạn xem xét giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản, do Thẩm phán triệu tập và chủ trì.
1.2.3. Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ
Nếu như trong các thủ tục đòi nợ thông thường, trên cơ sở đơn khởi
kiện của đương sự, Tòa án mở thủ tục để giải quyết cho từng yêu cầu riêng
biệt (hay nói cách khác việc tiến hành các thủ tục để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của người mắc nợ cho một chủ nợ về nguyên tắc không có tính liên đới đối
với các chủ nợ khác) thì ngược lại, trong thủ tục phá sản hoàn toàn không
phải là một loại thủ tục để giải quyết tranh chấp nợ thuần túy mà là loại thủ
tục chủ yếu nhằm chấm dứt sự tồn tại của con nợ. Do vậy trong thủ tục phá
sản, bất kỳ một chủ nợ nào dù có khởi kiện hay không khởi kiện vẫn có quyền
được tham gia vào thủ tục tố tụng hoặc có quyền hạn nhất định nhằm việc bảo
vệ quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp, xâm phạm.

20
Như đã phân tích ở trên, thủ tục đòi nợ khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản là thủ tục đòi nợ tập thể. Điều đó có nghĩa là trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng, mà tất cả
các chủ nợ đều phải tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất để tham
gia thủ tục phá sản. Chủ thể đó được pháp luật các nước gọi là Hội nghị chủ
nợ. Chủ thể này sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải
quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản thì toàn bộ tài sản của
con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả cho các chủ nợ theo thứ tự

ưu tiên đã được quy định trong Luật Phá sản.
Về bản chất pháp lý, Hội nghị chủ nợ là cơ quan duy nhất của các chủ
nợ được triệu tập để giải quyết một cách tập thể và công bằng lợi ích của họ.
Tất cả các chủ nợ có tên trong danh sách đều có quyền tham gia Hội nghị chủ
nợ. Chủ nợ nào cũng có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia
Hội nghị chủ nợ thay mình, và người được ủy quyền này có quyền và nghĩa
vụ như chủ nợ đó. Đây là quy định bảo đảm cho các chủ nợ có thể nắm thông
tin và tham gia xuyên suốt quá trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã. Việc đòi nợ là quyền của chủ nợ nhưng tất cả các chủ nợ
đều có nghĩa vụ thực hiện quyền này vì thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư
pháp đặc biệt thể hiện ở việc đòi nợ tập thể và thanh toán nợ tập thể.
1.2.4. Chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là nơi đánh giá và quyết định có áp dụng hay không áp
dụng thủ tục phục hồi. Bên cạnh đó, Hội nghị chủ nợ còn là thiết chế để các
bên liên quan trong vụ việc phá sản xem xét, thảo luận và thống nhất về
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói,
những thẩm quyền này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Hội nghị chủ nợ. Bởi
lẽ, thông qua những thẩm quyền đó, Hội nghị chủ nợ vừa thể hiện vai trò của

×