Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế đến hoạt động kinh doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.96 KB, 19 trang )

Đề tài
Công ty chứng khoán và những
tác động của khủng hoảng kinh
tế
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Trong các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các những tổ chức có vai trò là trung
gian tài chính như các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng, các trung gian đầu tư và
có những tổ chức không đảm nhiệm vai trò trung gian tài chính. Họ chỉ làm các
dịch vụ uỷ thác và kinh doanh trên thị trường tài chính để tìm kiếm lợi nhuận.
Thuộc nhóm này gồm có: các ngân hàng đầu tư chứng khoán, các ngân hàng
cầm cố, các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán, các Sở giao dịch
chứng khoán. Sự có mặt của các tổ chức này trên thi trường là rất cần thiết. Nó
góp phần làm cho thị trường vận hành trôi chảy, làm tăng cơ hội lựa chọn cho
các nhà đầu tư và tăng cường tính hiệu quả của thị trường.
I-Công ty chứng khoán:
Hoạt động của các công ty chứng khoán rất đa dạng, phức tạp và khác hẳn với
các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì công ty chứng khoán
là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vậy, vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh
doanh của công ty chứng khoán cũng có những đặc điểm khác nhau và vận dụng
cho các khối thị trường có mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái
quát thành hai nhóm:
- Mô hình công ty chứng khoán đa năng: theo đó các ngân hàng thương mại hoạt
động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh
tiền tệ
- Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh: theo mô hình này, hoạt động kinh
doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực
chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
khoán. Mô hình này được áp dụng rộng rãi ở các thị trường Mĩ, Nhật, Hàn Quốc,
Thái Lan…
1- Khái niệm và phân loại:Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung


gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Do đặc điểm của công
ty chứng khoán có thể kinh doanh trên một lĩnh vực, một loại hình kinh doanh
chứng khoán nhất định do đó hiện nay, có quan điểm phân chia công ty chứng
khoán(CTCK) thành các loại sau:
- Công ty môi giới chứng khoán: là CTCK chỉ thực hiện việc trung gian
mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng
- Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là CTCK có lĩnh vực hoạt
động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh
lệch giá.
- Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ
tư doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh
doanh.
- Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
- Công ty chứng khoán không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu
trên thi trường OTC(thị trường chứng khoán phi tập trung) và họ đóng vai
trò là các nhà tạo thị trường.
2-Về loại hình công ty bao gồm có 3 loại hình tổ chức cơ bản: công ty
hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần
3-Về điều kiện và thủ tục thành lập công ty:
- Điều kiện về vốn: CTCK phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp
định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình
nghiệp vụ.
Ví dụ: Tại Nhật Bản, các công ty tham gia 3 loại hình kinh doanh là môi
giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành phải có vốn điều lệ là 10 tỉ Yên. Tại Trung
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Quốc, các công ty đa năng là 500 triệu nhân dân tệ, các công ty môi giới
chứng khoán là 50 triệu nhân dân tệ.
- Điều kiện về nhân sự: đòi hỏi nhân viên quản lí và nhân viên giao dịch
phải có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm, trung thực. Nhân viên cảu
CTCK phải có giây phép hành nghề, nhân viên quản lí phải có giấy phép

đại diện.
- Điều kiện về cơ sở vật chất: các tổ chức cá nhân sáng lập CTCK phải đảm
bảo yêu cầu cơ sở vật chất tối thiểu cho CTCK.
4-Nguyên tắc hoạt động: CTCK hoạt động theo hai nhóm nguyên tắc cơ bản:
nhóm nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc tài chính
- Nguyên tắc đạo đức:
+ phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách
hàng
+ kinh doanh có kĩ năng, tận tuỵ, có tinh thần trách nhiệm
+ ưu tiên thực hiện lệnh của khách hành trước khi thực hiện lệnh của công
ty
+ có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng
+ khi thực hiện các nghiệp vụ về tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin
cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể
gặp phải
+ không được nhận bất kì khoản thù lao nào ngoài các khoản thu lao
thông thường
+ nghiêm cấm thực hiện các nghiệp cụ nội gián
+ không được tiến hành các hoạt động làm cho công chúng và khách hàng
hiểu lầm về giá cả, giá trị hoặc bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt
động khác gây thiêt hại cho khách hàng.
- Nguyên tắc tài chính:
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
+ Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, đảm
bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách
hàng.
+ Không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh
doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng để phục vụ cho hoạt động
giao dịch của khách hàng.
+ Phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của

mình, không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp
vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản
5-Cơ cấu tổ chức của CTCK: được chia thành hai khối khác nhau
- Khối nghiệp vụ: khối này đem lại lợi nhuận cho công ty bằng cách đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với các nhu
cầu đó. Tương ứng với các nghiệp vụ do khối này phụ trách có những bộ
phận phòng ban nhất định:
+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh
+ Phòng bảo lãnh phát hành
+ Phòng quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư
+ Phòng tư vấn tài chính và đầu tư
+ Phòng kí quỹ
Tuy nhiên, căn cứ vào quy mô thị trường và sự chú trọng vào các nghiệp vụ mà
công ty chứng khoán có thể chuyên sâu từng bộ phận hoặc tổng hợp các nghiệp
vụ vào trong một bộ phận
- Khối phụ trợ: là khối không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh,
nhưng nó không thể thiếu trong vận hành của công ty chứng khoán vì hoạt
động của nó mang tính trợ giúp cho khối nghiệp vụ, bao gồm các bộ phận:
+Phòng nghiên cứu và phát triển
+Phòng phân tích và thông tin thị trường
+Phòng kế hoạch công ty
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
+Phòng phát triển sản phẩm mới
+Phòng công nghệ tin học
+Phòng pháp chế
+Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ
+Phòng ngân quỹ, kí quỹ
+Phòng tổng hợp hành chính nhân sự
6-Chức năng cơ bản của CTCK:

- Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến
người sử dụng vốn( thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch( thông qua hệ thống khớp giá hoặc
khớp lệnh)
- Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán( hoán chuyển từ chứng khoán ra
tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán một cách dễ dàng)
- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường( thông qua hoạt động tự doanh
hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường)
7-Vai trò của CTCK:
- Đối với các tổ chức phát hành: thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo
lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ
các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc của thị trường chứng
khoán là nguyên tắc trung gian. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian
cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này,
CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường
chứng khoán
- Đối với các nhà đầu tư: thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu
tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời
gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư
- Đối với thị trường chứng khoán: CTCK thể hiện hai vai trò chính sau:
+ Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do
thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng người mua
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
và người bán phải thông qua công ty chứng khoán vì họ không tham gia
trực tiếp vào quá trình mua bán. Các CTCK là thành viên của thị trường,
do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá.
CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường
+Góp phần làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính: trên thị
trường cấp 1 các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa
vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh

khoản cho các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt
phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm
giảm rủi to, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư.
- Đối với cơ quan quản lí thị trường:CTCK có vai trò cung cấp thông tin về
thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK
thực hiện được vai trò nay vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các
chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện
các giao dịch trên thị trường. Một trong các yêu cầu của thị trường chứng
khoán là thông tin phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ
quan quản lí thị trường. Nhờ các thông tin này các cơ quan quản lí thị
trường có thể kiểm soát và chống hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp
méo thị trường.
8-Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán:
A-Các nghiệp vụ chính:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng
khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao
dịch tại Sàn giao dịch chứng khoán hoặc thị trường chứng khoán phi tập
trung(OTC) mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến
khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư
bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán.
- Nghiệp cụ tự doanh:
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các hoạt động giao dịch mua, bán
chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực
hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sàn giao dịch chứng khoán hoặc thị
trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá(quote
driven) hoạt động tư doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt

động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị
trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại
chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để
hưởng chênh lệch giá.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thị trường chứng khoán, tổ chức phát
hành không chỉ có các CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác
như ngân hàng đầu tư nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát
hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng
đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành(hoặc thành lập tổ hợp bảo
lãnh phát hành) sau đó chuyển phấn phối chứng khoán cho các CTCK tự
doanh hoặc các thành viên khác.
- Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư:
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng
khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ
sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu
tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết
định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách
hàng chấp thuận hoặc yêu cầu.
- Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán:
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCk thông qua hoạt động phân tích
để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một
số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư, cơ cấu tài
chính cho khách hàng.
B-Các nghiệp vụ phụ trợ:

+ Lưu ký chứng khoán
+ Quản lý thu nhập của khách hàng(quản lý cổ tức)
+ Nghiệp vụ tín dụng
+ Nghiệp vụ quản lý quỹ
II-Tác động của khủng hoảng kinh tế đối với các công ty chứng
khoán:
Công ty chứng khoán là một bộ phận trong thị trường chứng khoán. Vì vậy, để
tìm hiểu những tác động của khủng hoảng tới hoạt động của các CTCK nhất
thiết phải hiểu được những tác động của khủng hoảng tới thị trường chứng
khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Các quốc gia trên toàn thế
giới, ít hay nhiều đều đang phải đối với cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất
trong 80 năm trở lại đây. Đã có rất nhiều cuộc khủng hoảng về tài chính diễn ra.
Hình ảnh “bong bóng” được chọn làm biểu tượng cho sự khủng hoảng điển hình
trong những năm vừa qua bởi các lí do sau:
1. Một chu kỳ kinh tế đặc trưng bởi quá trình mở rộng nhanh chóng sau một giai
đoạn thị trường thu nhỏ trầm lắng.
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
2. Hiện tượng giá tài sản tăng bùng phát, thường vượt ra ngoài giới hạn đảm bảo
của các hệ số tài chính cơ bản và xuất hiện ở một số ngành nhất định, tiếp sau
hiện tượng này là sự sụt giá rất nhanh và mạnh cùng làn sóng ồ ạt bán ra.
3. Là một học thuyết mô tả hiện tượng giá chứng khoán vượt quá giá trị chính
xác của chúng và cứ tiếp tục tăng như vậy cho đến khi giá đột ngột rơi tự do và
quả bong bóng vỡ.
Bong bóng hoa Tuy-lip:
Thời gian: 1634-1637
Địa điểm: Hà Lan
Thị trường rớt từ đỉnh xuống đáy . Tại thời điểm đỉnh cao, người ta có thể đổi 1
bông hoa tuy-lip lấy 1 căn nhà, nhưng khi ở đáy thì giá một bông hoa tuy-lip chỉ
bằng 1 củ hành.
Vào năm 1593, hoa tuy-lip được mang từ Thổ Nhĩ Kì đến Hà Lan, sự mới lạ của

loài hoa này đã gây ra 1 cơn sốt, và khi loài hoa này nhiễm 1 loại virut không
gây hại cho hoa và người mà chỉ làm biến đổi màu sắc của cánh hoa thì làm cho
nhu cầu vè loài hoa này càng tăng lên . Người ta bắt đầu đầu cơ tích trữ củ của
loài hoa này , vì vậy mà càng làm cung giảm còn nhu cầu tăng lên.
Quả bong bóng phình ra vào giai đoạn 1936-1937, khi mà một lái buôn thạo tay
có thể kiếm 60.000 florin trong một tháng xấp xỉ 61710 đô la Mỹ. Với lợi nhuận
khổng lồ như vậy, chính quyền hoàn toàn bất lực và không thể ngăn chặn hoạt
động giao dịch náo nhiệt này. Một số người thận trọng quyết định bán lượng hoa
đầu cơ đi để thu được lợi nhuận chắc chắn, chính vì vậy mà tạo nên một hiệu
ứng domino, tất cả ồ ạt bán ra, trong khi nhu cầu mua giảm.
Nhiều giao dịch bị phá vỡ và người ta hiểu ra rằng họ đã dung nhà cửa của mình
để đổi lấy 1 mẩu cây cỏ.
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Hoang mang và hỗn loạn là tình cảnh chung diễn ra trên đất nước Hà Lan. Tác
động của cuộc khủng hoảng này làm cho hà Lan cấm toàn bộ hoạt động đầu cơ
trong đầu tư suốt một thời gian dài .
Bong bóng South Sea
Thời gian: 1711-1720
Địa điểm: Vương quốc Anh
Mô tả ngắn gọn : Giá cổ phiếu South Sea giảm mạnh từ đỉnh , khi đó được giao
dịch với giá 1000 bảng Anh, ở đáy của thị trường, giá cổ phiếu công ty này
không còn một chút giá trị nào vào nửa cuối năm 1720. Một lượng tiền khổng lồ
cũng mất theo giá trị của cổ phiếu này.
Cuộc đại khủng hoảng năm 1929
Cuộc đại khủng hoảng này bắt nguồn từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh
hưởng tới toàn thế giới
Vào những năm 1920, nền kinh tế Mỹ vận hành với chủ trương trở thành nhà
băng của thế giới thành nhà sản xuất lương thực, sản xuất đồ dùng cho toàn thế
giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần còn lại của thế giới sản xuất
ra. Tất nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ,

những nó không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại để bảo vệ
hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn đề ở chỗ nếu Mỹ
không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để
mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác Châu Âu thậm chí
không còn đáp ứng được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ không
thể mua hàng nữa, thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm
trong thời gian sau đó. Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại
khủng hoảng.
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Sự suy giảm từ mùa hè năm 1929 đến năm 1933 làm GDP của Mỹ giảm hơn
25% , xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của ¼ thế kỉ trước đó .
Hệ thống ngân hàng cũng phải chứng kiến nhiều con số hoảng loạn khi người
gửi tiền đua nhau đi rút tiền . Nhiều nhà băng không chịu được sức ép, một số
khác buộc phải sát nhập, số lượng ngân hang giảm đi đáng kể.
- Và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kì năm 2007, đây là
cuộc khủng hoảng diễn ra trên nhiều lĩnh vực tài chính( tín dụng, bảo hiểm,
chứng khoán). Cuộc khủng hoảng này diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay, cuộc
khủng hoảng bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản
thân nó là nguồn gốc trực tiếp cho cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008.
Hiện nay, phần lớn các công ty chứng khoán hàng đầu đều là công ty con của
một ngân hàng hoặc một công ty tài chính lớn. Vì vậy, các hoạt động, chính sách
của các CTCK đều phụ thuộc chặt chẽ vào lợi ích, hoạt động cũng như chính
sách của công ty mẹ. Công ty chứng khoán thuộc Morgan Stanley cung là trường
hợp như vậy.
Tác động của khủng hoảng đối với Morgan Stanley:
Morgan Stanley (mã số tại NYSE là MS) là tập đoàn tài chính khổng lồ
của Mĩ. Nó tồn tại như là một ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán có
trụ sở tại Hoa Kỳ. Đây là một trong những thể chế tài chính lớn của thế
giới, phục vụ những nhóm đối tượng là chính phủ, các tổ chức tài chính
khác và cá nhân. Ngoài trụ sở chính đặt tại NewYork còn có các trụ sở

khác đặt tại London và Hongkong. Morgan Stanley thành lập năm 1935.
Năm 2007 công ty này có doanh thu là 85,328 tỷ USD,lợi nhuận là
3,209tỷ USD.
Thiệt hại mà Morgan Stanley (MS) đã phải hứng chịu khi cuộc khủng hoảng
toàn cầu này diễn ra:
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Theo 1 điều dễ hiểu là các nước càng lớn thì tổn thất phải gánh chịu càng nhiều.
+Năm 2006, đầu năm 2007 xu hướng của các nhà lãnh đạo là đi theo con đường
đầu tư mạo hiểm, nhưng khủng hoảng tài chính đã thay đổi mọi chuyện: các hoạt
động của MS trở lại với nền an toàn hơn bằng các biện pháp như thu hẹp bớt các
khoản cho vay, đóng cửa một số bộ phận kinh doanh, chuyển sang hoạt động mô
hình tập đoàn ngân hàng, tăng gấp 3 quy mô tiền gửi, một thay đổi lớn là thu hẹp
bộ phận ngân hàng đầu tư và có xu hướng trở thành công ty mô giới lớn, tham
gia vào liên doanh Salomon Smith Barney-sau thương vụ này tổng số nhân viên
môi giới tại MS tăng lên tới 20 ngàn, hứa hẹn doanh thu từ hoạt động môi giới
đạt 42%(cách đây 1 năm chỉ khoảng 20%)
+Năm 2008 việc kinh doanh bị đình trệ, khiến con số thua lỗ của đại gia này là
2,195 tỷ USD tương đương với 2,24USD/ cổ phiếu. Cùng kì năm 2007 thua lỗ
của đại gia này là 3,588 tỷ USD tương đương với 3,61 USD/ cổ phiếu do thị
trường tiền tệ cũng như hệ thống toàn cầu có những chấn động mạnh ảnh hưởng
tới mức lợi nhuận của Morgan Stanley.
+Ngày 22/9/2008 cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho phép 2 ngân hàng đầu tư
Goldman Sachs và Morgan Stanley chuyển đổi sang mô hình tập đoàn ngân
hàng mẹ. Sự chuyển đổi này sẽ cho phép 2 ngân hàng này thành lập các chi
nhánh là ngân hàng thương mại để thu hút tiền gửi tiết kiệm của khách hàng.
Mục đích của sực chuyển đổi này là nhằm tăng cường nguồn vốn cho 2 tập đoàn
nhằm đối phó lại với tình hình thanh khoản khó khăn. Đồng thời theo quyết định
này 2 tập đoàn có quyền như những ngân hàng thương mại khác trong việc tiếp
cận cho vay khẩn cấp của FED. Theo dự tính thì 2 ngân hàng có thể sẽ mua lại
hàng loạt các ngân hàng thương mại bị phá sản khác của Mĩ.

+Đầu năm 2009 Morgan Stanley và Citigroup bàn thảo để mua bán cổ phần công
ty môi giới Smith Barney của Citigroup, theo đó Morgan Stanley có thể trả cho
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Citigroup số tiền là 2-3 tỷ USD để có thể sở hữu 51% trong Smith Barney.Hành
động này nhằm giúp MS có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh với các công
ty môi giới khác.
+Tuy nhiên, Morgan Stanley vẫn công bố thua lỗ quý 1/2009 đối với cổ đông
phổ thông của ngân hàng là 578 triệu USD, nguyên nhân chính là thị trường bất
động sản thương mại đi xuống.Mức thua lỗ của Morgan Stanley quý 1/2009
tương đương -57cent/cổ phiếu sau khi trả cổ tức 400 triệu USD cho cổ đông ưu
đãi. Quý 1/2009, thua lỗ liên quan đến thị trường bất động sản của Morgan
Stanley là 1 tỷ USD.Cổ phiếu của Morgan Stanley ngay sau thông tin lợi nhuận
trên hạ 9,4%.
Morgan Stanley đang chọn con đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng khác rất
nhiều so với các đối thủ trực tiếp của tổ chức là Goldman Sachs.
Gorman Sachs đẩy mạnh bộ phận kinh doanh, kết quả là mang lại lợi nhuận cao
trong năm 2008 nhưng cũng dễ dàng đẩy vào tình trạng thua lỗ nếu mọi thứ
không suôn sẻ
Còn Stanley thì chú trọng bộ phận tiền gửi. Tháng 8/2009, công ty đã tuyển mới
nhân sự cho chi nhánh tại Charlottle và NewYork để mở rộng hoạt động của
ngân hàng. Tổng lượng tiền gửi của ngân hàng lên tới hơn 100 tỷ USD.
Nhìn chung , nhân sự thuộc bộ phận bán hàng đã chịu giảm lương 8%, và tổng
số nhân viên giảm tới 10%.
Sáu tháng đầu năm 2009, Morgan là tổ chức bảo lãnh phát hành lớn thứ 6 tại Mỹ
trong khi chỉ 2 năm trước nắm giữ vị trí thứ 4 .
Cách giải quyết này được học hỏi từ Anh, nơi được cho là có cách giải quyết
khủng hoảng khá hợp lí đó là: (1) tạm thời quốc hữu hóa một phần các ngân
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
hàng thông qua việc bơm vốn vào các ngân hàng này để đổi lấy cổ phần, và (2)
đảm bảo cho các khoản vay giữa các ngân hàng với nhau. Cần phải nói thêm,

việc bơm vốn để đổi lấy cổ phần này không giống như việc các ngân hàng trung
ương vẫn thường bơm vốn vào thị trường tài chính với tư cách là hoạt động tái
cấp vốn ngắn hạn cho các ngân hàng.
Và tại Mỹ, bộ trưởng bộ tài chính Henry Paulson cũng bắt đầu có những điều
chỉnh “ nho nhỏ” trong kế hoạch trị giá 700 tỷ USD dành cho ngành tài chính
được Quốc hội thông qua . Theo đó chỉ có những khoản nợ xấu trong các tổ chức
Tài chính và ngân hàng như dự kiến ban đầu, một nửa số tiền 250 tỷ USD được
sử dụng cho việc mua lại cổ phần của những ngân hàng lớn của Mỹ trong đó có
Morgan Stanley.
III-Liên hệ với Việt Nam:
Hiện nay, một số công ty chứng khoán trong nước đã và đang triển khai
các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư, không còn tập trung chủ yếu vào những
nghiệp vụ: môi giới, tự doanh, bắt đầu phát triển những sản phẩm mới đi liền với
nhu cầu vốn của doanh nghiệp, nhưng hầu hết trong số đó chưa chính thức công
bố trên thị trường. Như công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (VCBS), công ty chứng khoán ACB,…
Mới đây, một công ty chứng khoán đã chính thức công bố hoạt động đi
theo mô hình ngân hàng đầu tư.
1, Công ty chứng khoán Sacombank-SBS.
Được thành lập bởi Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín
Sacombank (tháng 09/2006), là công ty chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam hoạt
động theo mô hình ngân hàng đầu tư (từ ngày 01/09/2009).
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
Sacombank-SBS cung cấp tất cả các nghiệp vụ của một ngân hàng đầu tư
tại Việt Nam bao gồm: môi giới chứng khoán, tư vấn doanh nghiệp, nghiên cứu
thị trường, các dịch vụ hỗ trợ phát hành và các sản phẩm cấu trúc cho thị trường
chứng khoán Việt Nam.
1.1, Môi giới chứng khoán:
• Thị trường cổ phiếu:
Thực hiện huy động vốn cho các doanh nghiệp thông qua phát hành cổ

phiếu, trái phiếu, sản phẩm cấu trúc và phát sinh hoặc cung các công cụ thị
trường vốn khác.
• Thị trường nợ:
Cung cấp dịch vụ tư vấn, dàn xếp, bảo lãnh phát hành hoặc đại lí phát hành
các công cụ nợ tối ưu.
• Sản phẩm cấu trúc:
Cung cấp sản phẩm tài chính sáng tạo, hiện đại của thị trường tài chính phát
triển cho quỹ đầu từ và các đối tác.
• Tài trợ vốn trước khi thực hiện cổ phần hoá/ đợt phát hành:
Phát triển các sản phẩm, chương trình vốn ngay giai đoạn cổ phần hoá hoặc
tăng vốn nhằm đáp ứng những nhu cầu tài chính đặc biệt.
1.2, Tư vấn doanh nghiệp:
• Chuyển đổi doanh nghiệp: Tư vấn chuyển đổi doanh nghiệp sang công ty
cổ phần, hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu niêm yết của
Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước.
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
• Tư vấn niêm yết: Cung cấp dịch vụ định giá độc lập cho công ty đại
chúng, đánh giá ngành, chứng khoán và dự án, và các hoạt động tái cấu
trúc kinh doanh.
• Mua bán doanh nghiệp M&A: Xác định các đối tác sát nhập, thâu tóm
tiềm năng, hỗ trợ phát triển hoạt động kinh doanh, chiến lược phát triển
của doanh nghiệp gắn liền với tiến trình mua, bán doanh nghiệp.
1.3. Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu các vấn đề thuộc: kinh tế vĩ mô, phân tích cơ bản, phân tích kĩ
thuật và hỗ trợ dữ liệu.
Chi tiết:
- Kinh tế vĩ mô (hằng tháng): cung cấp tổng quan về nền kinh tế
Việt Nam vs triển vọng phát triển.
- Báo cáo ngành (6 tháng): cung cấp phân tích ngắn gọn, súc tích
thông tin các ngành chủ đạo.

- Báo cáo công ty (theo yêu cầu): đa dạng, từ những bản số liệu tóm
tắt đến các bản phân tích đầy đủ, bao gồm định giá cổ phiếu.
Nhận xét:
 Công ty chứng khoán, hoạt động theo kiểu Ngân hàng đầu tư chỉ chịu sự
quản lí, giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước và các sở giao dịch,
mà không trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, điều này góp phần giảm sự
ảnh hưởng của các tổ chức tín dụng, tăng cường khả năng chuyên môn,
tăng cường sự phát triển của thị trường chứng khoán trong nước.
 Ngân hàng đầu tư ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn
cho doanh nghiệp, cũng như huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để bù đắp
thiếu hụt ngân sách… thông qua việc phát hành các loại chứng khoán: cổ
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
phiếu, trái phiếu. Điều này thực tế là cần thiết ở thị trường đang phát triển
như Việt Nam, chưa có những nguồn vốn đầu tư lớn, tình trạng thiếu vốn
ở các doanh nghiệp và tình trạng thâm hụt cán cân ngân sách thường
xuyên diễn ra…
 Công ty chứng khoán hoạt động theo mô hình ngân hàng đầu tư xuất hiện
từ rất lâu ở các nước phát triển, và mới đây, sự sụp đổ của các đại gia
trong hệ thống ngân hàng Mĩ gây chấn động cả thế giới, một loạt các chế
định tài chính đã chuyển đổi mô hình hoạt động của các ngân hang này,
không đi theo mô hình ngân hàng đầu tư nữa. Vì thế, cần phải luôn chú
trọng kiểm soát rủi ro.
Như vậy các tổ chức trung gian tài chính nói chung và các CTCK nói
riêng để đối phó với khủng hoảng bằng cách này hay cách khác đã chuyển
đối mô hình hoạt động cho phù hợp với thực tế của thị trường. Tuy nhiên,
quá trình chuyển đổi cũng như hoạt động sau chuyển đổi cần có sự quản
lý chặt chẽ để tránh mắc phải những sai lầm. Việc tìm hiểu kĩ càng chức
năng hoạt động, các loại hình trung gian tài chính sẽ giúp cho các tổ chức
tài chính có được hướng đi đúng đắn trong thời điểm hiện nay.
Thành viên nhóm Rainbow CKB-K10

1. Đinh Thu Anh
2. Đào Minh Chi
3. Nguyễn Thị Bích Hà
4. Đinh Thị Mai Hương
5. Lê Thị Hạnh
6. Nguyễn Thị Thanh Nga
7. Lê Thị Oanh
Công ty chứng khoán và những tác động của khủng hoảng kinh tế
8. Nguyễn Thị Trang
9. Đỗ Thị Sinh

×