TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÍN DỤNG
BÀI TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ TỚI TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 2009 - 2011
Giáo viên hướng dẫn: Hồ Thúy Ái
Lớp: EC012_1_111_T07
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Họ và tên MSSV
1. Phạm Văn Tiến
0301 2509 0881
2. Nguyễn Đức Huy
0301 2509 0250
3. Đỗ Thùy Linh
0301 2509 0410
4. Phạm Thị Hồng Thắm
0301 2509 0843
5. Trần Thục Ngân
0301 2509 0543
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
Họ và tên MSSV Nhiệm vụ
Phạm Văn Tiến 0301 2509 0881
Tình hình nợ công của thế
giới, giải pháp cho nợ công
của việt nam, tổng kết bài
Word, làm slide, thuyết trình
Nguyễn Đức Huy 0301 2509 0250
Nợ công và khủng hoảng nợ
công, làm slide, thuyết trình
Đỗ Thùy Linh 0301 2509 0410
Tình hình nợ công của Việt
Nam, làm slide thuyết trình
Phạm Thị Hồng Thắm 0301 2509 0843
Khủng hoảng nợ công Hy
Lạp và tác động đến tình
hình TCTT, thuyết trình
Trần Thục Ngân 0301 2509 0543
Khủng hoảng nợ công
Ierland và tác động đến tình
hình TCTT, thuyết trình
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
2
TP.HCM, ngày …… tháng …… năm 2010
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và
diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả quốc gia công nghiệp
phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bên cạnh khủng hoảng tài chính, ngày nay
người ta còn đề cập nhiều và nghiên cứu một cách nghiêm túc hơn một loại khủng
hoảng mới “Khủng hoảng nợ công”. Tình trạng nợ công gia tăng liên tục ở cả các
nước phát triển vượt quá sự tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) gây ra tình trạng mất
kiểm soát trong khả năng chi trả của quốc gia. Điển hình là cuộc khủng hoảng nợ
công ở Iceland, Argentina, và gần đây nhất là một số nước trong khu vực EU như Hy
Lạp và Ireland. Chính điều đó đã đánh lên hồi trống báo động cho các nước trên toàn
thế giới phải suy nghĩ chín chắn về tình trạng nợ công của chính quốc gia mình.
Chính vì vậy, nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài
chính tiền tệ” là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay không chỉ ở Việt
Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế giới.
3
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với kiến thức hạn hẹp
của Nhóm 7, chúng em trình bày một số hiểu biết khái quát về những vấn đề sau:
Phần 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công.
Phần 2: Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến tình hình tài chính tiền tệ ở 2
nước điển hình là Hy Lạp và Ireland.
Phần 3: Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp.
Trong suốt quá trình làm việc mặc dù nhóm đã cố gắng. Tuy nhiên, có những
hạn chế khách quan mà nhóm khó có tránh nên đôi khi cũng có chỗ sai xót. Mong cô
và các bạn nghiên cứu, đồng thời góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện
PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.1. Nợ công:
1.1.1. Định nghĩa:
Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ công bao
gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa
phương. Như vậy, Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh tế
vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
1.1.2. Phân loại nợ công:
Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước; vay nước ngoài.
Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương;
doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh..
Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay
ODA); vay ưu đãi; vay thương mại.
Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn; vay trung – dài hạn;
Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi.
Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư nhân.
Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái phiếu; công
trái và các công cụ nợ khác.
1.1.3. Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công:
Các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao
gồm:Nợ công so với GDP(chủ yếu);Nợ nước ngoài của quốc gia so với
GDP;Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu..
Ngưỡng an toàn của nợ công:
4
• Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ
(NBER): khi tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng
kinh tế và làm giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó.
• Theo qui định của Khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, tỷ lệ nợ công tối đa đối
với một quốc gia thành viên là 60% GDP, thâm hụt ngân sách hàng năm không được
vượt quá 3% GDP
• Tuy nhiên để xét một cách toàn diện thì cần đặt trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng
kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn... cũng như những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ
trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ
lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.
1.2. Khủng hoảng nợ công:
1.2.1. Thế nào là khủng hoảng nợ công?
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo
nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi nhiều
quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình
thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến
tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả
sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất thêm.
1.2.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công:
Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động
của bộ máy nhà nước…, đặc biệt, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế
toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
Chính phủ không minh bạch các số liệu về tình trạng ngân sách của quốc
gia,sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt chẽ,
gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, tệ nạn tham nhũng phát triển(Hy
Lạp)
Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi( cắt giảm
thuế, trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt chẽ….)
Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn
lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán.. (điển hình Argentina)
Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của
một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng tạo thành bong bóng. Mặt
khác còn lựa chọn bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ. ( Ireland)
- Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp làm cho thâm hụt ngân sách ngày càng tăng.
1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đến tài chính tiền tệ: (ở đây xem xét
đại diện là nợ chính phủ)
5
Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số sau:
Cán cân ngân sách thâm hụt
Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng
Lạm phát tăng.
Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm.
Thất nghiệp tăng
Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, Chính phủ cần huy động để
trả nợ buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái phiếu, vay mượn ở
ngân hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước khác, từ các tổ chức quốc
tế như IMF...hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách bên cạnh đó phải thực
hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm chi tiêu. Việc phát hành thêm trái
phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, lãi suất trái phiếu tăng vì chính
phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua.
Khi cán cân ngân sách thâm hụt, ngân hàng trung ương sẽ tài trợ thâm hụt bằng
cách phát hành thêm tiền làm tăng khối cung tiền gây ra áp lực lạm phát.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp, kìm
hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP
giảm sút chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu tư sẽ dẫn đến tình
trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng.
Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người dân và
của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền quốc gia sụt
giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái
phiếu và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm.
6
1.4. Vỡ nợ dưới con mắt của kinh tế học: tại sao Hy Lạp và Ireland không
tuyên bố vỡ nợ?
Khi khủng hoảng nợ xảy ra với qui mô lớn thì mục đích của ngân hàng chủ nợ và
các nước phát triển là tránh không để bất cứ một quốc gia nào tuyên bố vỡ nợ, đồng
thời thường thì các nước con nợ không bao giờ muốn tuyên bố vỡ nợ vì chi phí thanh
toán nợ thường thấp hơn các phí tổn phải chịu khi tuyên bố vỡ nợ.
Những phí tổn liên quan tới lợi ích quốc gia:
Thứ nhất: mất khả năng vay nợ trong tương lai: khi 1 quốc gia tuyên bố võ nợ thì
đồng nghĩa với việc từ bỏ khả năng vay nợ nước ngoài trong tương lai: từ các nước ,
IMF ,World Bank,..=>tốc độ tăng truỏng kinh tế bị kìm hãm.
Thứ hai:giảm lợi ích từ thương mại quốc tế: các nước chủ nợ sẽ áp dụng những biện
pháp bảo hộ thương mại để trừng phạt, xuất khẩu bị tịch thu khi chạm đến biên giới
quốc tế, khó khăn trong nhập khẩu.=>khối lượng ngoại thương giảm.
Thứ ba:tịch thu những tài sản hải ngoại: các chủ nợ sẽ thuyết phục chính phủ phong
tỏa hay tịch thu những tài sản của nước con nợ còn nằm trên lãnh thổ của nước chủ
nợ.
Giả sử ta goi những lợi ích ròng từ việc vỡ nợ là NRT còn những phí tổn liên
quan tới việc vỡ nợ là C. Nước con nợ sẽ chưa tuyên bố vỡ nợ khi nào “Lợi ích
ròng” còn nhỏ hơn “phí tổn vỡ nợ’, nghĩa là:
NRT < C
Phương trình trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ nợ để thực thi các
biện pháp khác nhau nhằm khích lệ các con nợ không đi đến tuyên bố vỡ nợ.
PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG & TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở 2 NƯỚC ĐIỂN HÌNH LÀ HY
LẠP VÀ IRELAND
2.1. Tình hình nợ công của thế giới thời gian vừa qua.
Ngày 12 tháng 8 năm 1982, chính phủ Mexico ra tuyên bố rằng nước này đã
mất khả năng hoàn trả $80 tỷ cho các ngân hàng quốc tế và chính phủ nước ngoài.
Đây được coi là tín hiệu đầu tiên về một cuộc khủng hoảng nợ quốc tế.
Từ trước tới nay vấn đề nợ công chủ yếu tập trung ở các nước kém phát triển,
chủ yếu tập trung ở khu vực Mỹ La Tinh và Châu phi. Trong đó 4 nước luôn ở trong
tình trạng có nguy cơ vỡ nợ cao nhất là:Mexico, Argentina, Brazil, Venezuela. Bước
sang đầu thế kỉ XXI tiếng chuông cảnh báo đầu tiên cũng xuất phát từ một nhân vật
không mấy xa lạ trong vấn đề này là việc Argentina tuyên bố vỡ nợ vào năm 2001,
ngay sau khi quỹ tiền tệ IMF ngừng cấp tín dụng cho nước này để thanh toán các
khoản nợ.
Nhưng từ năm 2008 tới nay vấn đề nợ công lại xuất phát từ những nước phát
triển, những nền kinh tế hàng đầu thế giới mà không mấy ai ngờ tới. (Hình 2.1)
7
Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc
đại suy thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện nay
của kinh tế thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có thể bị suy
thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước
là một nguyên nhân quan trọng.
Trong các nước đang bị các núi nợ đè lên thi nước Mỹ chính là con nợ lớn
thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên tới 13.590 tỷ USD, chiếm khoảng
93.2% GDP năm 2010. Mới đây ngày 02/08/2011 quốc hội Mỹ đã thông qua trần nợ
công lên thêm 2.400 tỷ USD so với mức cũ là 14.300 tỷ USD.Chính vì những khoản
nợ khổng lồ đó mà Standard & Poor’s (S&P) (tổ chức xếp hạng tín dụng thế giới) đã
hạ bậc tín dụng của Mỹ từ AAA xuống AA+.
Còn nếu tính theo Tỉ lệ Public debt/ GDP thì chúng ta sẽ giật mình khi nhìn
vào con số của nhật bản là 220,3% và mức thâm hụt ngân sách 7.04% (năm 2010).
Trận động đất và sóng thần hồi đầu tháng 3-2011 sẽ góp phần làm tình trạng nợ công
của nhật bản thêm trầm trong hơn nữa, theo một thống kê mới nhất của IMF thì hiện
tại nợ công của Nhật Bản đã lên tới khoảng 229% GDP.
Nhưng vấn đề nợ công lớn nhất trong đợt khủng hoảng này lại nằm ở “lục địa
già” nơi tập trung những nền kinh tế lâu đời, phát triển ổn định nhất trên thê giới.
Xem xét mạng lưới nợ công chính phủ thì 5 nước Hy Lạp – Ireland - Tây Ban Nha
– Bồ Đào Nha – Italia đang ở trên bờ vực của sự phá sản. tình hình tồi tệ nhất cho
tới hiện nay nằm ở hai nước đó là Hy lạp và Ireland chúng ta sẽ xem xét ở phần sau.
Theo tờ The New York Times đánh giá: "nguy cơ thực sự nằm ở Tây Ban Nha và
Italia".
Ngày 03/8, các thị trường tài chính Italia và Tây Ban Nha đã đứng trước một
"cơn sốt mới" khi lãi suất vay mượn của chính phủ tăng cao tới mức kỷ lục kể từ khi
lưu hành đồng euro:
- Tại Tây Ban Nha, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tăng lên tới
6,45%, mức cao nhất kể từ khi đồng euro được lưu hành đầu năm 1999
- Cùng ngày, tại Italia, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cũng lên tới 6,18% , cao
hơn mức được ghi nhận vào ngày 21/7, khi Liên minh châu Âu (EU) thông báo
về kế hoạch ngăn chặn khủng hoảng nợ, trong đó có gói cứu trợ tài chính thứ
hai cho Hy Lạp.
Cuộc khủng khoảng nợ công còn xảy ra ở những nước có nền kinh tế đang phát
triển cực thịnh mà chúng ta không ngờ tới. con số báo cáo tỷ lệ Public debt/ GDP năm
2010 của Ấn Độ chỉ là 69,2% nhưng theo các chuyên gia thì thực tế con số này có thể
lên tới hơn 80%. Sự minh bạch về các con số nhạy cảm như vậy còn đáng lo Ngại
8
hơn ở Trung Quốc, nước đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ và nhiều nước có nền Kinh
tế phát triển. Theo con số chính thức mà Bắc Kinh công bố thì số nợ của chính phủ
Trung Quốc chỉ là 1,04 nghìn tỉ USD, Mức nợ này chỉ tương đương với khoảng 17%
GDP. Tuy nhiên, Theo Wall Street Journal, tổng nghĩa vụ nợ của Chính phủ Trung
Quốc có thể lên tới 75-77% GDP.
Trên đây là những nước trong thời gian qua được thế giới nhắc nhiều tới các
khoản nợ công của nhật bản. vậy thì nguyên nhân của các khoản nợ công đó từ đâu
ra? Nó tác động gì đến tình hình các quốc gia? các hướng giải quyết mà thế giới đã,
đang và nên áp dụng là gì? Và nó rút ra nhưng bài học kinh nghiệm gì cho Việt Nam?
Để trả lời những câu hỏi đó nhóm chúng tôi xin phân tích cuộc khủng hoảng nợ công
của hai nước điển hình nhất trong thời gian vừa qua đó là Hy lạp Và Ireland. Từ đó
liên hệ tới tình hình của Việt Nam.
2.2. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp và tác động đến tình hình TCTT:
2.2.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp:
Điểm mạnh: Du lịch là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Hy Lạp và đóng góp tới
15% GDP. Các ngành kinh tế khác như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các
thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh tại Hy Lạp. Nước này cũng có lợi thế về
kinh tế biển với rất nhiều cảng nước sâu và một ngành công nghiệp đóng tàu hùng
mạnh.
2.2.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP:
Từ lúc bắt đầu tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro) vào giữa
năm 2001 cho đến năm 2010, Hy Lạp luôn vượt chỉ tiêu nợ công theo quy định của
hiệp hội các nước thuộc khu vực EURO là 60%/ GDP, có lúc tỷ lệ nợ công của quốc
gia này lên đến 142,8% GDP vào năm 2010, nợ chính phủ lên đến 328,6 tỷ EUR
(năm 2010) vượt xa chỉ tiêu mà khu vực EURO cho phép, hiện nay số nợ của Hy lạp
ước tính đã lên tới hơn 350 tỷ EUR, chiếm khoảng 130,2%GDP. (Hình 2.2)
2.2.1.2. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp:
Rủi ro lớn nhất của Hy Lạp là nợ vay nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn, có thể lên
đến 80%. Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng
trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu. Các nước
Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị
đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp (Hình 2.3). Sở dĩ như vậy vì các nước này có
nền kinh tế tương đối lớn, ngân sách lớn, khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn,
9
các chỉ số về cơ cấu nợ cũng như các biến số về phát triển kinh tế vĩ Mô tốt hơn hy
lạp.
Tính theo thời gian Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp phải đối mặt với khoản
nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính
phủ vào ngày 19-5-2010. Chưa đến một năm, một đợt trả nợ kế tiếp diễn ra vào tháng
3/2011, với số tiền 8.6 tỷ Euro.
Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong
năm 2010 là 16% tổng nợ (Hình 2.4).
2.2.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài.
Hy lạp thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài, ngay từ khi đã gia
nhập vào khu vực đồng tiền chung Euro, nhưng tình trạng thâm hụt vẫn không được
cái thiện mà có xu hướng ngày càng tăng, đến tháng tám năm 2011,Hy Lạp báo cáo
thâm hụt tài khoản vãng lai tương đương với 145 triệu EUR. (Hình 2.5)
Sự thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp bắt nguồn từ sự thâm hụt thương mại
của nước này, cũng như tình trạng cán cân vãng lai, cán cân thương mại của Hy Lạp
luôn trong tình trạng thâm hụt, đến tháng tám năm nay, Hy Lạp báo cáo thâm hụt
thương mại tương đương với 2.169 triệu EUR. (Hình 2.6)
2.2.1.4. Tình trạng thâm hụt ngân sách:
Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng
gia tăng, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2008-2009. Năm 2009, mức thâm hụt ngân
sách là 15.4% GDP vượt ngưỡng an toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu
vực đồng tiền chung là 3%/GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp
đã vay nợ dưới nhiều hình thức.
Với tình trạng thâm hụt ngân sách như vậy, đến năm 2010, sau khi thực hiện
các biện pháp “thắt lưng buộc bụng”, thì tình trạng thâm hụt của Hy Lạp đã giảm
xuống ở mức 10,5%GDP, tuy nhiên đây cũng còn là một con số khá cao so với chỉ
tiêu mà khu vực đồng tiên chung này đề ra. (Hình 2.7)
=> Cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp bắt đầu vào tháng 12/2009 khi thủ tướng mới của
đảng xã hội Hi Lạp, ông George A. Papandreou, thông báo rằng người tiền nhiệm
của ông đã che dấu tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ mà nước này đang mắc
phải thâm hụt ngân sách chính phủ của nước này là 12,7% GDP, chứ không phải
3,7% như chính phủ tiền nhiệm dự báo trước đó.
10
2.2.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công:
Khủng hoảng nợ của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản
trị tài chính công yếu kém của nước này với những khoản chi tiêu của chính phủ quá
lớn và vượt kiểm soát. Kết quả là thâm hụt ngân sách nước này vượt trên 10% GDP
và tổng nợ chính phủ trên GDP 142,8% (năm 2010)
Tác động của cuộc khủng hoảng Kinh tế 2007 – 2008
Cuộc khủng hoảng đã nguồn thu từ thuế của chính phủ hy lạp sụt giảm nghiêm
trọng trong khi đó vẫn phải chi tiêu để kích thích nền kinh tế phục hồi trong suy thoái,
chính điều này càng làm bong bóng nợ công thêm phình to ra.
Tham nhũng, hối lộ có… “hệ thống”
Nhiều năm qua, các quan chức, chính trị gia ở Hy Lạp liên tục phải từ chức vì
liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ. Nhưng, cho đến nay, rất ít người bị xét xử và
kết án vì tội danh tham nhũng. Chính điều này đã khiến người ta nghĩ đến một điều
luật “bất thành văn”, đó là việc, các quan chức tham nhũng, nhận hối lộ rất “mạnh
tay”, nhưng đến khi bị cơ quan điều tra phát hiện thì lại rất nhanh và “mạnh mồm”
tuyên bố từ chức, và sẽ không bị đưa ra xét xử nữa.
Nghiên cứu của Daniel Kaufmann thuộc Viện Brookings ở Mỹ cho rằng có
mối liên hệ chặt chẽ giữa tham nhũng và thâm hụt ngân sách. Thiệt hại mà tham
nhũng gây ra cho Hy Lạp được ước tính vào khoảng 8% GDP Nói cách khác, khoảng
hơn 50% số thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy Lạp là do tham nhũng mà ra.(VN
economy)
Chi tiêu công “siêu thoáng”
Theo một nguồn tin từ Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã tuyển
dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, nhưng số công chức chỉ đến công sở
“ngồi chơi xơi nước” chiếm tới 1/3. Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp
chiếm tới 1/4 số người làm công ăn lương ở nước này.. Lương đã cao, thưởng vào
cuối năm cũng cao, công chức còn được lĩnh tới 16 tháng lương. Nhiều công chức Hy
Lạp được nghỉ hưu trước năm 60 tuổi với mức lương hưu bằng 3/4 mức lương khi
còn đi làm.
Vay tiền để... nâng lương nhân viên chính phủ và tổ chức Thế vận hội.
Thế vận hội Athens 2004 là một cơ hội không thể nào tốt hơn để Hy Lạp gia
tăng các dự án đồ sộ của mình và tiếp tục đi vay nợ thoải mái vì mục tiêu Thế vận
hội.
Việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ.
Thật vậy, theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung,
các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội
11
chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức thâm
hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng mang
tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính phủ nhỏ hơn
hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh.
Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền
chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn
chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung
với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy
nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách
và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp
các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng
hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt
trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách
thức.
Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng
lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong
nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu
ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao.
Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất
nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được
chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận
lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ
thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp
không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu
thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm.
Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di
dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi
phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng
thâm hụt ngân sách.
Không minh bạch trong các con số báo cáo:
Vào thời điểm Hy Lạp gia nhập Eurozone, đã có những bằng chứng cho thấy
quốc gia này đưa ra những số liệu không trung thực, ECB cũng tỏ ra quan ngại về
tình hình nợ của Hy Lạp đã vượt xa trần quy định của Eurozone, nhưng các nhà lãnh
12
đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ đã cho Hy Lạp tham gia đồng
Euro.
Đến năm 2004, bằng chứng về việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã
được Eurostat thu thập đủ, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc
trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone không phải là lựa chọn của họ và cho Hy Lạp thời
gian để sửa chữa. Đến năm 2007, ECB tuyên bố Hy Lạp đã có những biện pháp khắc
phục phù hợp, và thâm hụt của quốc gia này sẽ chỉ còn 2,6% GDP vào năm 2006 và
2,4% vào năm 2007. Ủy ban cũng đưa ra kết luận rằng “Cơ quan Thống kê của Hy
Lạp đã cải thiện quy trình làm việc của mình” và chất lượng số liệu thống kê của họ
đã tốt hơn. Tuy nhiên, đến năm 2009, thì một lần nữa câu hỏi về sự gian lận số liệu
của quốc gia này lại được lật lại. Chính điều này đã làm cho các nhà đầu tư và các
Ngân hàng thương mại quốc tế mất niềm tin, từ đó rút vốn làm cho nguy cơ vỡ nợ
của Hy lạp thêm trầm trọng.
2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ:
2.2.3.1. Xếp hạng tín dụng:
Ngày 15/6/2010, Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s đã hạ 4 bậc xếp hạng tín
dụng của Hy Lạp xuống mức không đầu tư và cảnh báo, việc Hy Lạp giảm thâm hụt
ngân sách sẽ tạo ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế.
Theo hãng tin Bloomberg, xếp hạng tín dụng của Hy Lạp bị hạ xuống mức Ba1
từ mức A3. Trong tuyên bố xếp hạng tín dụng, Moody’s đã nhiều lần nhắc đến những
rủi ro đối với tăng trưởng kinh tế bởi những biện pháp thắt chặt ngân sách liên quan
đến gói giải cứu 110 tỷ EUR (136 tỷ USD).
Dù được EU và IFM hứa hẹn “bơm” tiền nhưng hình ảnh của Hy Lạp vẫn
chưa được cải thiện trong mắt các tổ chức xếp hạng độc lập, vào 14/7/2011, hãng xếp
hạng Fitch đã hạ 3 bậc đối với mức tín dụng của Hy Lạp từ B+ xuống CCC, thấp nhất
trong thang xếp hạng của Fitch. Lý giải cho việc này, Fitch cho rằng các chương trình
tài trợ mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Hy Lạp chỉ đơn thuần là tài chính
chứ không đưa ra những giải pháp đầy đủ và đáng rin cậy.
Cũng theo Fitch , vai trò của khu vực tư nhân trong các chương trình cải cách
tại Hy Lạp cũng chưa thực sự rõ ràng, trong khi triển vọng kinh tế vĩ mô không lấy
làm chắc chắn. Chính vì vậy, mức xếp hạng CCC (cận kề phá sản) mới được đưa ra.
Vào ngày 28/07/2011 Standard $ Poor’s (S&P) nhận định rằng hy lập sẽ phá
sản một phần sau khi các quan chức châu âu thúc đẩy kế hoạch tái cơ cấu nợ trong gói
cứu trợ 2. Chính vì vậy S&P đã hạ tiếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ CCC xuống CC
chỉ trên mức vỡ nợ 2 bậc với đánh giá triển vọng tiêu cực.
13
S&P cho biết, việc cơ cấu lại nợ của Chính phủ Hy Lạp có thế nói là một trao
đổi gây ra hậu quả tiêu cực vì nó có nguy cơ gây thiệt hại cho chủ nợ.
2.2.3.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng:
Từ năm 1998 đến năm 2011 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình
5,21%, đạt mức cao lịch sử 11,39 % trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ lục
3,23% trong tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian gần đây tăng
cao vì khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy
động vốn để trả nợ buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu
chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi
suất trái phiếu thì mới huy động được người mua, theo báo cáo mới nhất thì lãi suất
trái phiếu của Hy Lạp đã lên đến 11,39%. (Hình 2.8)
2.2.3.3. Cắt giảm chi tiêu:
Đứng trước nguyy cơ vỡ nợ trong cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng hiên
nay, chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt chi tiêu như tăng
các loại thuế nhằm cái thiện tình hình, mặc dù các chính sách mà theo các chuyên gia
thì các chính sách này cực kì đau đơn, và sẽ khiến cho cuộc sống của người dân trở
nên khó khăn hơn rất nhiều, chính vì vậy, khi chính phủ Hy Lạp đưa ra các chính sách
trên đã gặp không ít những là sóng phản đối từ dân chúng.
• Tăng các loại thuế: Trong năm 2011, Hy Lạp sẽ thu 2,32 tỷ Euro thuế và lần
lượt là 3,38 tỷ , 1.52 triệu và 699 triệu trong 3 năm tiếp theo. Trong đó, thuế
giá trị gia tăng (VAT) sẽ tăng từ 19% lến 23%.
• Đánh thuế vào hàng xa xỉ: Những mặt hàng xa xỉ sẽ bị đánh thuê là du thuyền,
hồ bơi và ô tô. Sẽ có một loại thuế đặc biệt đánh vào các công ty làm ăn với lợi
nhuận lớn, bất động sản giá trị lớn.
• Đánh thuế vào một số mặt hàng nội địa: Thuế đánh vào các mặt hàng nội địa
như nhiên liệu, thuốc lá, thức uống có cồn sẽ tăng một phần ba.
• Giảm chi tiêu công: các chi tiêu trong khu vực công sẽ bị cắt 15%.
• Giảm chi tiêu quân sự: trong năm 2012 chi tiêu cho quân sự của Hy Lạp sẽ bị
cắt giảm 200 triệu Euro và từ năm 2013 đến 2015, sẽ cắt giảm mỗi năm 333
triệu Euro.
• Giảm chi tiêu giáo dục: chi tiêu cho giáo dục cũng bị cắt giảm bằng cách đóng
cửa hoặc sát nhập 1976 trường học.
• Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội: trong năm 2011, 1,09 tỷ Euro sẽ được cắt từ
quỹ an sinh xã hội của Hy Lạp. Tiếp đến, từ năm 2012 đến 2015 số cắt giảm
lần lượt là 1,28tỷ; 1,03 tỷ; 1,01 tỷ và 700 triệu. Bên cạnh đó, độ tuổi về hưu sẽ
tăng từ 61 lên 65.
14
• Tư hữu hóa chính phủ: chính phủ Hy Lạp sẽ tiến hành tư nhân hóa các doanh
nghiệp quốc doanh trong đó có OPAP, Hellenic Postbank, Hellenic Telecom.
Bên cạnh đó cũng sẽ bán cổ phần tại Athens Water, công ty dầu khí Hellenic
Petroleum, công ty điện PPC và lender ATEbank và một số hải cảng, sân bay,
đường cao tốc, quyền sở hữu đất và khai khoáng.
• Sa thải công chức: trong năm 2011, cư 10 công chức sẽ có một người bị sa
thải. Còn trong những năm tới, tỷ lên sa thải sẽ là cứ 5 người thì sẽ sa thải 1
người.
• Giảm chi tiêu y tế: trong năm 2011, chi tiêu cho y tế sẽ bị cắt giảm 310 triệu
Euro và từ 2012 đến 2015 sẽ giảm 1,81 triệu euro.
2.2.3.4. Đầu tư trực tiếp FDI:
Chính phủ Hy Lạp đang thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng nhằm đảm
bảo cam kết giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ Hy Lạp để nhận được sự trợ
giúp từ EU và IMF. Vì thực hiện chính sách giảm chi tiêu, tăng thuế nên dẫn đến tình
hình đầu tư FDI vào Hy Lạp giảm mạnh.
Như mô tả trong đồ thị I, trong thời gian 2006-2008 FDI vào Hy Lạp đã liên tục
duy trì mức độ cao hơn so với giai đoạn năm 2003 - 2005, mặc dù biến động. (Hình
2.9) Có nhiều yếu tố, chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng, đã đóng một vai trò quan
trọng trong sự gia tăng đáng kể khối lượng FDI.
Trong năm 2009 tổng luồng vốn vào Hy Lạp đạt 4,5 tỷ Euro, và luồng vốn ròng
vượt quá 2,4 tỷ Euro. So với năm 2008, dòng chảy FDI vào Hy Lạp sụt giảm 21% do
hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công.
2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm:
Hy Lạp đã quản lý để đạt được một nền kinh tế phát triển nhanh chóng sau khi
thực hiện chính sách ổn định kinh tế trong những năm gần đây, ít nhất, trước cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Từ năm 1998 đến năm 2008, GDP tăng
dần qua các năm và đạt mức cao nhất vào tháng 12 năm 2008 với 355.88 tỉ $.
Cuối năm 2009, khi khủng hoảng nợ công xảy ra làm cho các nhà đầu tư lo ngại
về khả năng trả nợ của Hy Lạp và họ ồ ạt rút vốn ra khỏi thị trường Hy Lạp nên GDP
giảm xuống còn 330 tỷ.
Từ năm 2007 đến năm 2010, bình quân GDP hàng năm của Hy Lạp giảm dần và
kỷ lục ở mức thấp -6,6 % trong tháng 12 năm 2010.(Hình 2.10)
2.2.3.6. Thất nghiệp gia tăng:
Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra
15
trong những năm gần đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư,
kìm hãm sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc
làm giảm, thất nghiệp gia tăng. Đồng thời với chính sách “thắt lưng buộc bụng”, đã
khiến cho tình trạng thất nghiệp ở nước này càng thêm nghiêm trọng.
Từ năm 1983 đến năm 2010, Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp trung bình 9,43%, tỷ lệ
này đang gia tăng dần trong những năm gần đây, tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp lần cuối
báo cáo ở mức 18,4% trong tháng Tám năm 2011. (Hình 2.11)
2.3. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT:
2.3.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland:
− Thế mạnh kinh tế: dược phẩm, hàng công nghệ cao và dịch vụ. Ireland được hưởng
lợi từ một lực lượng lao động có trình độ cao và khả năng kết nối dễ dàng với các nền
kinh tế khác trong EU.
2.3.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP:
Nợ Chính phủ của Ireland lần cuối báo cáo năm 2010 ở mức 96,2% GDP. Và
theo số liệu gần đây nhất, tháng 11/2011, tỉ lệ này vào khoảng 99,4%GDP. Từ năm
1980 đến năm 2010, nợ Chính phủ trung bình trên GDP của Ireland là 68,95%, từng
đạt mức cao lịch sử 109,20% trong tháng 12 năm 1987 và ghi lại một mức thấp
khoảng 24,80% trong tháng 12 năm 2006 (hình 2.12).
2.3.1.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách: (theo dõi hình 2.13)
Trước quý 1 năm 2008, ngân sách của chính phủ Ireland luôn ở trạng thái thặng
dư. Tuy nhiên từ thời điểm đó tới nay, tình trạng ngân sách của nước này ngày càng
xấu đi, theo báo cáo năm 2010 mức thâm hụt ngân sách đã lên đến con số 31,3%
GDP. Ireland là nước có thâm hụt ngân sách cao nhấy khu vực Eurozone.
Suốt 3 năm qua, giá nhà giảm 50-60% khiến cho tỷ lệ nợ xấu (đặc biệt là nợ của
các công ty phát triển bất động sản) tăng đến mức báo động. Hệ thống ngân hàng,
theo đó bị đặt trước nguy cơ đổ vỡ khiến Chính phủ phải ra tay can thiệp, cho dù cái
giá phải trả là nợ công tăng cao.Năm 2009, chính phủ quốc hữu hóa Anglo Irish Bank.
Trong đề xuất về gói hỗ trợ từ EU và IMF, Chính phủ Ireland còn tiếp tục dùng một
phần trong khoản tiền đó để quốc hữu hóa hai ngân hàng lớn của nước này là Bank of
Ireland và Allied Irish Bank, tiếp tục bơm tiền để tái cấp vốn cho nhiều ngân hàng để
tăng tỷ lệ an toàn vốn của các tổ chức này.
2.3.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai
Ireland báo cáo thặng dư thương mại tương đương với 4.113 triệu EUR vào
tháng Chín năm 2011. Xuất khẩu vẫn là động cơ chính cho sự tăng trưởng của
Ireland. Ireland đã đạt được thặng dư thương mại tương đối cao nhất so với GDP của
EU. Trong thời kì khủng hoảng nợ công hoành hành, tình hình xuất khẩu của Ireland
giảm mạnh, tuy nhiên cán cân thương mại vẫn ở trạng thái thặng dư. Trong năm 2010
16
và 2011 tình hình đã có phần cải thiện do những nỗ lực từ phía chính phủ nước này.
(hình 2.14)
Tuy vậy, cán cân vãng lai của Ireland vẫn thâm hụt dài hạn. Cán cân vãng lai
thâm hụt nặng nhất vào quý I/2008, ở mức 4000 triệu EUR. Đến quý I/2011 mức
thâm hụt đã giảm xuống tương đương với 1031 triệu EUR. Những chuyển biến xấu
trong cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều đã gây nên
tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bất chấp cán cân thương mại thặng dư. (hình
2.15)
2.3.1.4. Cơ cấu nợ nước ngoài và nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công.
(hình 2.16) Từ năm 2003 đến nay, nợ nước ngoài của Ireland tăng nhanh liên
tục. Trong năm 2009, 2010 tỉ trọng nợ của các tổ chức tài chính tiền tệ có phần giảm
xuống và bù lại tỉ trọng nợ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và nợ trong các lĩnh vực
khác tăng lên. Trong cơ cấu nợ của Ireland, nợ của các tổ chức tài chính tiền tệ luôn
chiếm tỉ trọng lớn nhất, những khoản nợ này cũng tăng rất nhanh trong giai đoạn
2003-2008 do hệ thống ngân hàng của nước này quá dễ giải trong việc phát hành các
khoản cho vay ( nhất là trong lĩnh vực bất động sản.) Khi thị trường BĐS sụp đổ,
các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn, tương tự như trường hợp của Mỹ, Chính
phủ Ireland buộc phải cứu hệ thống ngân hàng theo cách riêng của mình, đó là tạo ra
một định chế tài chính mới gọi là NAMA (National Asset Management Agency) vào
năm 2009 để nhận hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ireland.
Các ngân hàng của Ireland sẽ “bán” lại các khoản nợ xấu này cho chính phủ để đổi
lấy trái phiếu chính phủ. Như vậy, Chính phủ Ireland đã biến nợ xấu của các ngân
hàng này thành tài sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách
để bù đắp cho các tổn thất của nó.
Trước sau gì thì cách thức dùng tiền chính phủ để duy trì các tài sản ngày càng
xuống giá trong nền kinh tế và bơm vốn để vực dậy khu vực ngân hàng của Ireland
cũng sẽ buộc nước này phải liên tục đi vay mượn và chấp nhận thâm hụt ngân sách
cho đến khi họ không còn khả năng chi trả nữa và phải đến cầu viện nước ngoài. Đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công của Ireland.
Việc để hệ thống ngân hàng sụp đổ sẽ khiến cho nền Kinh tế Ireland hoàn toàn
bị ngưng trệ, kéo theo sau đó là hàng loạt các hệ lụy về xã hội. ngoài ra sau đó nó có
thể là quan bài đô mi nô đầu tiên cho sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng và các
chính phủ trong khu vực EU. Cuối cùng là sự sụp đổ của Khu vực Erozone, một điều
mà chẳng ai mong muốn xảy ra. Vì vậy chính phủ IRELAND đã phải chấp nhận tình
17