Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Dư luận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.53 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGÔ THỊ THU HƢƠNG


DƢ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ THU HƢƠNG

DƢ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành : Lí luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật


Mã số : 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết



HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Ngô Thị Thu Hƣơng


LỜI CẢM ƠN


Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình Cao học chuyên ngành Lí luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt cho em
những kiến thức hữu ích về pháp luật làm cơ sở cho em thực hiện tốt luận văn
này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết đã tận tình hướng dẫn
em trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra những ý kiến đóng góp quý báu để tôi hoàn
thành luận văn của mình.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho
tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn.

Hà Nội, tháng 02, năm 2015
Tác giả luận văn



Ngô Thị Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI VÀ
VAI TRÕ CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 7
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI 7
1.1.1 Định nghĩa dư luận xã hội 7
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của dư luận xã hội 9
1.1.3. Tính chất của dư luận xã hội 11
1.2. HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT 19
1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hoạt động xây dựng pháp luật 19
1.2.2. Các giai đoạn cơ bản và các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng pháp
luật 21
1.3. HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 22
1.3.1. Khái niệm và dấu hiệu cơ bản của hoạt động thực hiện pháp luật 22
1.3.2. Các hình thức thực hiện pháp luật 26
1.4. MỐI QUAN HỆ VÀ VAI TRÕ CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 27
1.4.1. Mối quan hệ của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật 27
1.4.2. Vai trò của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật 30
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG DƢ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 38
2.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT 38
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay 38
2.1.2. Thực trạng việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. 46
2.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC QUA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA DƢ LUẬN
XÃ HỘI TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 54
2.2.1. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật 54
2.2.2. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật 57
2.3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT. 62

2.3.1. Những đóng góp tích cực của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện
pháp luật. 62
2.3.2. Những mặt hạn chế của dư luận xã hội trong việc xây dựng và thực hiện
pháp luật. 64
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO VAI TRÕ
CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT 71
3.1. CÁC GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN, TÁC ĐỘNG CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT 71
3.1.1. Thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển 71
3.1.2. Phát huy và mở rộng nền dân chủ xã hội 73
3.1.3. Tạo lập bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh 81
3.1.4. Đảm bảo sự an toàn cho chủ thể của dư luận xã hội khi phản ánh các hiện
tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật 83
3.1.5. Cải tiến phương pháp, cách thức phổ biến giáo dục, pháp luật 84
3.1.6. Phát huy vai trò của truyền thông đại chúng 87
3.2. TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 92
3.2.1. Tổ chức điều tra, thăm dò dư luận xã hội trong lĩnh vực xây dựng và thực
hiện pháp luật 93
3.2. Sử dụng các kết quả thăm dò dư luận xã hội vào việc xây dựng và thực hiện
pháp luật 95
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
1

MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài
Dư luận xã hội là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt. Nó thể hiện tâm
trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội, của quần chúng nhân
dân nói chung về các hiện tượng đại diện cho lợi ích xã hội cấp bách trên cơ sở
các quan hệ xã hội đang tồn tại và những vấn đề mà họ quan tâm. Dư luận xã
hội xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài người,
cùng với vai trò ngày càng tăng của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Bởi vì
quần chúng nhân dân không chỉ là người sản xuất ra mọi giá trị vật chất, tinh
thần, đồng thời họ cũng là người mang dư luận xã hội. Vì vậy, có thể nói rằng,
trong mọi thời đại, dư luận xã hội đều có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã
hội.
Xây dựng và thực hiện pháp luật là hai mặt hoạt động cơ bản của nền
quản trị quốc gia. Chúng ta chỉ có thể xây dựng và thiết lập nền quản trị quốc gia
hữu hiệu khi cả hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật
đều hiệu quả. Mặc dù vậy, với Việt Nam, nền quản trị quốc gia vẫn còn không ít
vấn đề trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Theo các nhà nghiên
cứu ở Việt Nam, dù có những bước cải thiện nhất định trong những năm gần
đây, nhưng chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật vẫn “chưa đạt yêu cầu”
[24, tr63-64], chưa tương thích với tính chất của một nền kinh tế thị trường mở
cửa, hội nhập, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chưa
đạt được các “chuẩn” của hội nhập kinh tế quốc tế.
Dư luận xã hội và hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật là hai hiện
tượng xã hội khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ. Dư luận xã
hội góp phần hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện pháp luật, đồng thời việc
2

xây dựng và thực hiện pháp luật cũng phản ánh dư luận xã hội. Nhà nước sử
dụng pháp luật làm công cụ để quản lí xã hội nhưng mỗi một bộ luật ra đời đều
được dư luận xã hội kiểm chứng. Nếu dư luận xã hội tán thành, chắc chắn việc
thực hiện pháp luật sẽ có hiệu quả. Nếu dư luận xã hội không tán thành, nhà

nước sẽ phải nghiên cứu để điều chỉnh cho phù hợp.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay, việc tiếp tục tìm kiếm những mô hình mới nhằm phát huy vai trò
của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội thông qua dư luận xã hội đối với
quá trình hoạch định và tổ chức thực thi đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước là một yêu cầu cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Phát huy
vai trò của dư luận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật là một
trong những việc làm đáp ứng được đòi hỏi đó.
Những căn cứ lí luận và yêu cầu thực tiễn nêu trên là lí do thuyết phục
người viết lựa chọn vấn đề “Dư luận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện
pháp luật ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Dư luận xã hội và hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật là những vấn
đề khoa học không mới. Từ lâu, nó đã được nghiên cứu và càng ngày càng được
quan tâm nhiều hơn. Bởi như chúng ta đã khẳng định, đây là những hoạt động
có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, “Dư luận xã
hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật” là vấn đề chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu,
chỉ có thể thấy một số công trình và bài viết gián tiếp đề cập đến vấn đề này, cụ
thể là:
Trong đề tài khoa học cấp bộ “Phát huy vai trò của dư luận xã hội trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” [20] do PTS. Lương Khắc Hiếu chủ nhiệm,
3

các tác giả đã trình bày rất chi tiết, cụ thể về bản chất, vai trò của dư luận xã hội
cũng như đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội ở nước ta hiện
nay. Phạm vi của đề tài khoa học rất rộng, chủ yếu viết về vai trò của dư luận xã
hội và đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội ở nước ta. Nội
dung của đề tài khoa học này đã ít nhiều đề cập đến vai trò của dư luận xã hội với
việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Từ trang 40 đến trang 49, đề tài đã làm rõ

vai trò của dư luận xã hội trong Chủ nghĩa xã hội, tác giả viết, dư luận xã hội là
“nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người và giáo dục
con người hoàn thiện nhân cách [20, tr.40], “là điều kiện để quần chúng nhân
dân phát huy quyền làm chủ và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [20, tr.42],
“là phương tiện để tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân”[20, tr.46]. Từ những nhận định khái quát nêu trên, chúng ta cũng có
thể phần nào hiểu vai trò của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp
luật. Xét về bản chất, hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật thực chất cũng là
hoạt động nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người, giáo
dục con người theo định hướng phát triển xã hội. Đảng, Nhà nước sử dụng pháp
luật làm công cụ để quản lý nhà nước, quản lý xã hội nên vai trò của dư luận xã
hội với việc phát huy quyền làm chủ và mở rộng nền dân chủ hay tăng cường mối
liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân cũng chính là đóng góp của dư luận xã
hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Không tìm hiểu về vai trò của dư luận xã hội với việc xây dựng, thực
hiện pháp luật nhưng TS. Trần Thị Hồng Thúy và ThS. Ngọ Văn Nhân trong
cuốn “Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở” [44] đã nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa dư luận xã hội với
ý thức pháp luật, đồng thời hai tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm phát
huy vai trò của dư luận xã hội trong việc nâng cao ý thức pháp luật của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở. Phạm vi nghiên cứu của đề tài đã được giới hạn rất rõ
4

nhưng ít nhiều cũng có mối liên quan với vấn đề mà chúng tôi lựa chọn,
nghiên cứu.
Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9/2004 có bài “Dư luận xã hội và pháp
luật” của Nguyễn Văn Luyện [25]và Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2006
có bài “Dư luận xã hội và quyết định của nhà nước” [23, tr.8-11] của Nguyễn
Hữu Khiển. Hai bài báo đều có điểm chung là nhấn mạnh tác động của dư
luận xã hội đối với việc ra quyết định của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà

nước.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đây dù không nghiên cứu
trực tiếp vấn đề “Dư luận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở
Việt Nam hiện nay”, song những kết quả nghiên cứu đó chính là gợi ý dẫn dắt
chúng tôi tìm đến đề tài của luận văn.
Trên cơ sở tìm hiểu tình hình nghiên cứu đề tài, có thể khẳng định rằng
đến thời điểm này, chưa có đề tài nào trực tiếp nghiên cứu về “Dư luận xã hội
đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay”. Bởi vậy,
luận văn không có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được nghiên cứu trước
đây. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai luận văn, chúng tôi có tham khảo
thành tựu của những nhà làm khoa học đi trước. Từ sự kế thừa và tiếp tục tìm
hiểu, chúng tôi mong muốn góp thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu vấn
đề này dưới góc độ của khoa học lí luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Dư luận xã hội.
Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
5

Mối quan hệ giữa dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở
Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
“Dư luận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam
hiện nay” là một đề tài rộng. Vì thế khi thực hiện, trên cơ sở lí luận về dư luận xã
hội, hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay và dựa trên
thực trạng vấn đề, chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu những tác động
của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam. Từ đó
chúng tôi đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của dư luận xã hội đối
với việc xây dựng và thực hiện pháp luật.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ hơn vai trò của dư luận xã hội
và thực trạng của hoạt động này trong việc xây dựng pháp luật và thực hiện pháp
luật, đồng thời nêu ra những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của dư luận
xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
 Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về dư luận xã hội.
 Phân tích vai trò của dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện
pháp luật.
 Làm rõ thực trạng của dư luận xã hội trong việc xây dựng và thực
hiện pháp luật.
 Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của dư luận xã
hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên của luận văn
6

Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở
tìm hiểu, nghiên cứu những tài liệu thông qua các phương tiện truyền thông, báo
chí, các công trình nghiên cứu có liên quan.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về dư luận xã
hội trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
- Đánh giá được các mặt tích cực, hạn chế và những đóng góp của dư luận
xã hội trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của dư luận xã hội

đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về dư luận xã hội và vai trò của
dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Chương 2: Thực trạng dư luận xã hội với việc xây dựng và thực hiện pháp
luật.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của dư luận xã hội
đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
7

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI VÀ
VAI TRÕ CỦA DƢ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI
1.1.1 Định nghĩa dƣ luận xã hội
Thuật ngữ dư luận xã hội được hình thành từ rất sớm nhưng phải đến thế
kỉ 12 nó mới được sử dụng lần đầu tiên bởi một nhà văn người Anh tên là
J.Solsbery. Trong tiếng Anh, thuật ngữ này được ghép bởi hai từ: Public (công
khai, công chúng) và Opinion (ý kiến, quan điểm). Trong tiếng Việt, thuật ngữ
“dư luận xã hội” còn được gọi theo những cách khác như công luận hay dư luận
công chúng.
Hiện nay, thuật ngữ “dư luận xã hội” được sử dụng nhiều trong đời sống xã
hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong một số ngành khoa học như
chính trị học, triết học, xã hội học… Sau đây là một số quan điểm, định nghĩa về dư

luận xã hội:
Các nhà nghiên cứu dư luận xã hội ở Liên Xô (trước đây) nhấn mạnh
tới sự phán xét, đánh giá chung của các nhóm xã hội đối với các vấn đề
quan tâm:
Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể
hiện sự phán xét, đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản
ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể,
giai cấp, xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các nhóm xã
hội lớn, nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi
ích chung của họ (B.K. Paderin) [39, tr.40] hoặc dư luận xã hội là “sự phán xét
8

thể hiện sự đánh giá và thái độ của mọi người đối với các hiện tượng của đời
sống xã hội”[39, tr.40-41].
Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra các định nghĩa tương tự. Theo
Young (1923): “Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội
đối các vấn đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận
công khai”[44, tr18]. Định nghĩa của Childs (1965) tuy đơn giản nhưng rất phổ
biến trong giới nghiên cứu Mỹ: “Công luận là tập hợp các ý kiến cá nhân ở bất
kì nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được”[44, tr.18].
Các nhà nghiên cứu Việt Nam định nghĩa:
Dư luận xã hội là một dạng đặc biệt của ý thức xã hội, được biểu hiện
bằng chính kiến cụ thể thuộc một nhóm đông người hoặc tập thể tầng lớp, giai
cấp, nhiều khi là cả một cộng đồng (địa phương, cả nước, khu vực, cộng đồng thế
giới…) đối với những vấn đề mà họ quan tâm; Dư luận xã hội là sự biểu hiện
trạng thái ý thức xã hội của một cộng đồng người nào đó, là sự phán xét, đánh giá
của đại đa số trong cộng đồng người đối với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã
hội có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ trong một thời điểm nhất định”; “Dư
luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện
tượng có tính thời sự [39, tr.41-42].

Trong các định nghĩa này, các tác giả nhấn mạnh đến công luận xã hội
như một dạng biểu hiện của ý thức xã hội, coi công luận xã hội là một lĩnh vực
của tinh thần, của xã hội nhưng có liên hệ chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của
xã hội. Phải có sự quan tâm của số đông người đối với cùng một vấn đề mới có
thể hình thành dư luận xã hội và căn nguyên của dư luận xã hội xuất phát từ
nhu cầu và lợi ích của cá nhân trong cộng đồng ở một thời điểm nhất định.
Các định nghĩa, quan niệm về dư luận xã hội nói trên được đưa ra trong
hoàn cảnh và thời kì lịch sử khác nhau và mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp
9

cận, quan điểm, định hướng sử dụng khác nhau nên cách đưa ra định nghĩa của
mỗi người cũng khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta thấy các học giả đều có quan
điểm chung rằng điều kiện để có dư luận xã hội cần phải có: một vấn đề xảy ra
trong xã hội; một số lượng lớn cá nhân thể hiện ý kiến về vấn đề trên; một vài
dạng nhất trí chung trong số ít nhất một vài dư luận về vấn đề trên và sự nhất trí
chung này phải trực tiếp hoặc gián tiếp tạo nên ảnh hưởng.
Dư luận xã hội là hiện tượng đời sống xã hội phức tạp. Bởi vậy, các định
nghĩa về nó rất phong phú. Tuy nhiên, để định hướng cho việc triển khai luận văn,
tác giả đưa ra khái niệm về dư luận xã hội như sau: Dư luận xã hội là một dạng
biểu hiện của ý thức xã hội, phản ánh thái độ phản ứng của đa số cá nhân trong
xã hội đối với các hiện tượng, sự kiện xã hội và quá trình xã hội trong những thời
gian và không gian xã hội cụ thể.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của dƣ luận xã hội
Dư luận xã hội được hình thành qua kênh giao tiếp cá nhân và kênh giao
tiếp đại chúng. Khi chưa có các phương tiện thông tin đại chúng, sự tiếp nhận
vấn đề xã hội, sự hình thành, biến đổi và định hình ý kiến cũng chỉ qua giao tiếp
cá nhân. Với những vấn đề đặc biệt nhạy cảm và quan trọng đối với cá nhân,
thông tin được truyền qua mạng giao tiếp xã hội với tốc độ nhanh chóng không
kém gì so với giao tiếp đại chúng.
Khi các phương tiện thông tin đại chúng phát triển, dư luận xã hội được

hình thành, biến đổi và phổ biến nhanh hơn. Nhờ những phương tiện kỹ thuật
hiện đại, một thông điệp có thể được chuyển tải cùng một lúc hoặc nguyên dạng
đến hàng triệu, thậm chí hàng tỷ con người. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng
để tạo ra phản ứng tương tự nhau, hoặc giống nhau về vấn đề mà thông tin đại
chúng đề cập đến.
Quá trình hình thành dư luận xã hội trải qua các bước sau:
10

Bước một: Giai đoạn dư luận xã hội hình thành thuộc ý thức cá nhân. Các
cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, đuợc trực tiếp chứng
kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội. Họ
tìm kiếm, sưu tập thêm các thông tin, trao đổi với nhau về nó, từ đó nảy sinh các
suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính chất của các sự việc, sự
kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu là thuộc về mỗi
người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
Bước hai: Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi nguời.
Các ý kiến cá nhân được trao đổi, chia sẻ, bàn luận với nhau trong nhóm
xã hội. Cơ sở cho quá trình thảo luận này là lợi ích chung của cả nhóm và hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn mẫu tư duy và
khuôn mẫu hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua quá trình trao
đổi, bàn luận các suy nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của dư luận mà ý
kiến đã được trao đổi, chuyển dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang lĩnh vực ý
thức xã hội.
Bước ba: Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan
trọng.
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng, không phù hợp
hoặc những “thông tin nhiễu” về đối tượng sẽ bị lược bỏ. Các nhóm trao đổi,
tranh luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các ý kiến khác nhau
và thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản để cùng tìm đến những điểm
chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành các phán xét, đánh giá

chung thỏa mãn được ý chí của đại đa số các thành viên trong cộng đồng người.
Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và hệ thống các giá trị,
chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội chia sẻ và thừa nhận.
Bước bốn: Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn.
11

Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để
đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện
tượng vô nghĩa. Trên thực tế vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét
đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống
nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ
trước thực tế cuộc sống nhất định.
Như vậy dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội.
Không có sự trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau
thì không thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia
sẻ, tán thành và ủng hộ.
Quá trình phát triển dư luận xã hội là một quá trình biện chứng. Bởi vì sự
phát triển của dư luận xã hội là một quá trình có sự phát sinh, tồn tại, phát triển
và tiêu vong. Sự kết thúc của một quá trình này là sự khởi đầu cho một quá trình
khác. Dư luận xã hội cũng có thể tăng cường về cường độ theo hướng càng ngày
càng mạnh hơn nếu vấn đề không được giải quyết.
Trong quá trình hình thành và phát triển, dư luận xã hội phụ thuộc vào
nhiều điều kiện, yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức… Có thể kể đến những yếu tố chính tác
động đến sự hình thành, phát triển của dư luận xã hội, đó là: Tính chất của các
sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội đang diễn ra trong xã hội; hệ
tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của
con người; thông tin đại chúng; những nhân tố thuộc về tâm lí xã hội; hoàn cảnh
sinh hoạt chính trị - xã hội; các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn
mực xã hội đang hiện hành trong xã hội.

1.1.3. Tính chất của dƣ luận xã hội
12

Tính chất là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng, giúp phân biệt nó với
những sự vật, hiện tượng khác loại. Dư luận xã hội là một hiện tượng tâm lý xã
hội. Quá trình hình thành, phát triển của nó bộc lộ các tính chất sau:
Thứ nhất, tính khuynh hướng
Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá trình xã
hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định: tán thành, phản đối hay
lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các khuynh
hướng như tích cực, tiêu cực, tiến bộ, lạc hậu Ở mỗi khuynh hướng, thái độ tán
thành hoặc phản đối có thể phân chia theo các mức độ cụ thể như: thái độ rất tán
thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối, chẳng hạn khi Chính phủ
quyết định tăng giá xăng, giá điện thì dư luận xã hội ngay lập tức sẽ có sự phản
đối, nếu ngược lại sẽ được dư luận ủng hộ.
Tính khuynh hướng cũng biểu thị sự thống nhất và xung đột của dư luận
xã hội. Xét theo các mức độ tán thành hoặc phản đối được nêu ở trên, nếu đồ
thị phân bố dư luận xã hội hình chữ U thì biểu thị sự xung đột, còn nếu theo
hình chữ L thì biểu thị sự thống nhất. Biểu đồ dư luận xã hội có dạng phân bố
hình chữ U khi trong xã hội có hai quan điểm mâu thuẫn, đối lập nhau về một
sự kiện, hiện tượng. Trong xã hội, nếu thái độ của dư luận xã hội đối với phần
lớn các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, đều có dạng phân bố hình chữ U thì
điều đó có nghĩa xã hội đã đứng bên bờ vực nội chiến. Nếu biểu đồ có dạng
phân bố hình chữ L chứng tỏ quan điểm có tỷ lệ người ủng hộ cao.
Lấy ví dụ việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Có nhiều
luồng dư luận trái ngược nhau về vấn đề này. Ở trong nước, nhiều ý kiến phản
đối việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, vì họ cho rằng đó thực
chất là việc buôn bán phụ nữ. Nhưng cũng có rất nhiều ý kiến ủng hộ, cho rằng
hôn nhân với người khác quốc tịch trong bối cảnh nước ta quan hệ đa phương,
13


hội nhập là chuyện bình thường. Hai luồng quan niệm trái ngược nhau trước
hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước người là biểu hiện của biểu
đồ dư luận xã hội hình chữ U.
Hầu hết người dân đều rất đồng tình khi Bộ Giáo dục – Đào tạo quyết
định tổ chức thi tuyển sinh đại học theo cụm tỉnh để giảm tải việc thí sinh dồn về
các thành phố lớn như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, hay việc
người dân ủng hộ khi chính phủ tăng lương cơ bản…là biểu hiện của biểu đồ dư
luận xã hội hình chữ L.
Thứ hai, tính lợi ích
Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện hiện tượng xã hội
đang diễn ra phải được xem xét từ góc độ mối quan hệ mật thiết của các nhóm
khác nhau trong xã hội.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong xã
hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của
đông đảo người dân. Ví dụ: Chính sách của Chính phủ về việc trợ cấp tiền cho
các hộ nghèo, phân phát gạo cho người dân một số vùng quê nghèo vào dịp Tết
được người dân ở đó rất quan tâm, vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích, quyền
lợi của họ…
Lợi ích tinh thần được đề cập đến khi các vấn đề đang diễn ra đụng chạm
đến hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội, các phong tục tập quán, khuôn mẫu
hành vi và ứng xử văn hóa của nhóm xã hội, của cộng đồng, của dân tộc. Ví dụ:
Sự việc giàn khoan 981 của Trung Quốc đặt ở thềm lục địa vùng biển của Việt
Nam tạo ra luồng dư luận phản đối mạnh mẽ không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
nhiều nước trên thế giới, vì nhân dân Việt Nam nhận thức rất rõ rằng đó là hành
động xâm hại đến chủ quyền Việt Nam, còn nhân dân các nước trên thế giới
14

hiểu rằng hành động đó của Trung Quốc là hành động khiêu khích, đe dọa đến
hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.

Lợi ích mới chỉ là điều kiện cần để thúc đẩy tạo ra dư luận xã hội. Điều
kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội về lợi ích của mình và
mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang diễn
ra. Về vấn đề này, cần chú ý hai điểm sau:
Bản thân nhận thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát triển giữa
cá nhân và xã hội, giữa tính vật chất và tính tinh thần, giữa tính trước mắt và
tính lâu dài.
Quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến để dẫn đến dư luận xã hội là quá trình
giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Trong công việc này, nhóm xã hội nào có sự tổ
chức tốt thành lực lượng thì nhóm đó sẽ thành công hơn trong việc bảo vệ quan
điểm, lợi ích của mình và ngược lại.
Thứ ba, tính lan truyền
Dư luận xã hội được coi như một biểu hiện của hành vi tập thể, một hiện
tượng được các nhà xã hội học rất quan tâm. Cơ sở của bất kỳ một hành vi tập
thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vòng, trong đó khởi điểm từ một cá nhân
hay nhóm nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của các cá nhân khác, nhóm
khác. Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn cần có các nhân tố tác động lên
cơ chế hoạt động tâm lý của cá nhân và nhóm. Đối với dư luận xã hội, các nhân
tố tác động đó có thể được coi là các thông tin bằng các hình ảnh, âm thanh sống
động trực tiếp có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các
nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan
tâm của mình thông qua các hoạt động trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin,
cùng chia sẻ trạng thái tâm lý của mình với người xung quanh. Ví dụ: tháng 5/
2003, hàng loạt tấm hình chụp cảnh binh lính Anh làm nhục tù nhân Iraq tại trại
15

Sọt Bánh Mì ở Basra, Iraq, đã lôi cuốn sự quan tâm, bàn luận của mọi người dân
trên thế giới về vấn đề này. Sự kiện diễn ra ở Iraq nhưng sự lan truyền thông tin,
thái độ, đánh giá của mọi người dân Việt Nam và các nước trên thế giới về sự
kiện này rất mạnh mẽ.

Thứ tư, tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến đổi.
Có những dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi, nhưng cũng có những dư
luận xã hội qua hàng thập niên vẫn không thay đổi. Tính bền vững của dư luận
xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay các
quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền vững. Dư luận xã hội sẽ
không bao giờ thay đổi trong việc khẳng định: một nền kinh tế sẽ bị “chết” nếu
đóng khép, không hội nhập, không tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị
trường.
Đối với những vấn đề mới nảy sinh, dư luận xã hội thường dễ thay đổi.
Cái mới lúc đầu chỉ được số ít thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối. Nhưng
ý kiến của đa số nhanh chóng, dễ dàng thay đổi khi cái mới vươn lên khẳng
định mình trong cuộc sống. Ví dụ: Thời kì bắt đầu chính sách đổi mới ở nước
ta, chính sách khoán nông nghiệp ở nước ta còn xa lạ trong đại bộ phận nhân
dân, cán bộ lãnh đạo, thậm chí có những nơi, một số cán bộ chủ trương thực
hiện mô hình này bị phản đối gay gắt. Nhưng dần dần chính sách đổi mới phát
huy tác dụng, tích cực thì được người dân và cán bộ đồng tình thực hiện.
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương
diện sau:
Một là, dư luận xã hội biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa.
Sự phán xét và đánh giá của dư luận xã hội về bất kỳ sự kiện, hiện tượng, hay
quá trình xã hội nào cũng phụ thuộc vào hệ thống giá trị, chuẩn mực đang tồn
16

tại trong nền văn hóa của cộng đồng người. Với cùng một sự việc, sự kiện xảy
ra, dư luận xã hội của các cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét
khác nhau. Ví dụ: Ở Việt Nam, bò được xem là một con vật nuôi, cung cấp sức
kéo, lấy sữa, lấy thịt, thịt bò là món ăn ưa thích, nhưng đối với người dân Ấn
Độ theo đạo Hindu thì bò được coi là loài vật thiêng, kể cả khi chúng quấy
nhiễu tới cuộc sống của họ và việc tín đồ ăn thịt bò sẽ bị dư luận xã hội lên án

gay gắt.
Hai là, dư luận xã hội biến đổi theo thời gian. Cùng với sự phát triển của
xã hội, nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa, phong tục tập quán biến đổi ngay trong
một nền văn hóa – xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá
của dư luận xã hội. Ví dụ: Dư luận xã hội nước ta một thời lên án những bài thơ,
bài hát mang âm hưởng buồn của Trịnh Công Sơn, những áng văn viết về ẩm
thực của Nguyễn Tuân thì nay những tác phẩm nghệ thuật đó được dư luận xã
hội chấp nhận và thậm chí còn ca ngợi.
Ngoài việc phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến đổi theo
đối tượng của các phán xét, đánh giá khi công chúng phát hiện thêm các mối liên
quan giữa đối tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra kèm
theo nó. Mặt khác, xuất phát từ các phán xét đánh giá bằng lời, dư luận xã hội có
thể chuyển hóa thành các hành động mang tính tự phát hoặc có tổ chức để thể
hiện thái độ đồng tình hay phản đối của mình. Ví dụ: Dư luận xã hội cảm thông,
đồng cảm với hoàn cảnh của những trẻ em mồ côi, tật nguyền (thể hiện bằng ý
kiến), đồng thời chính những người dân đã quyên góp từ thiện (thể hiện bằng
hành động) để giúp đỡ những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này.
Thứ năm, tính tiềm ẩn
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái
tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời, “dư luận của đa số im lặng”. Trong những xã hội
17

thiếu dân chủ, dư luận xã hội đích thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn. Ví dụ:
Trong các chế độ độc tài, phát xít, hệ tư tưởng pháp luật của nó thường mất đi
tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội, thông tin pháp lý bị bưng bít, các
quyền cơ bản của con người bị chà đạp, xóa bỏ. Trong xã hội cũng thường có dư
luận xã hội tiềm ẩn về những sự việc, sự kiện sắp tới, chưa xảy ra hiện thời,
chưa cấp bách. Ví dụ: Nếu như có một dự báo về việc trái đất sẽ nổ tung sau
1000 năm nữa, thì hiện tại chưa có nhiều bàn luận, nhưng tiềm ẩn về một sự
“bùng nổ dư luận” khi gần tới cái mốc mà trái đất sẽ nổ tung.

Thứ sáu, tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế của dư luận xã
hội
Sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng (đúng nhiều,
đúng ít) có thể sai (sai ít, sai nhiều). Dù có đúng đến mấy thì dư luận xã hội vẫn
có những hạn chế, không nên tuyệt đối hóa nhận thức của dư luận xã hội. Dù có
sai đến mấy, trong dư luận xã hội cũng có những hạt nhân hợp lý, không thể coi
thường được.
Ví dụ: Đã tồn tại quan niệm rằng: có thế giới của người sống (“trần gian”)
thì cũng có thế giới của những người đã mất (“âm phủ”), nhiều người đã phủ
nhận hoàn toàn quan niệm này, cho rằng con người ta “chết là hết”, điều đó cũng
có vẻ hợp lý vì đứng trên lập trường của khoa học sinh học. Nhưng ý kiến cho
rằng có thế giới của người đã chết cũng không thể nói là không có căn cứ, khi
nhiều năm gần đây, câu chuyện của các nhà ngoại cảm làm công tác đi tìm mộ
liệt sỹ đã khiến chúng ta phải cân nhắc.
Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của
nó. Không phải lúc nào dư luận của đại đa số cũng đúng hơn dư luận của thiểu
số. Cái mới, lúc đầu thường chỉ có một số người nhận thấy do đó dễ bị đa số
phản đối. Đối với những vấn đề trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức,
18

của những người có trình độ học vấn cao thường chín chắn hơn so với những
người có trình độ học vấn thấp.
Qua phân tích những nội dung nêu trên về dư luận xã hội, có thể rút ra
bản chất của dƣ luận xã hội như sau:
Dư luận xã hội là một trong những trạng thái ý thức xã hội. Bởi vì dư luận
xã hội biểu thị thái độ của mọi người đối với các hiện tượng thực tế xã hội.
Trong trạng thái ý thức xã hội đó, các thành phần trí tuệ, cảm xúc và ý chí kết
hợp thành một khối biểu hiện như một chỉnh thể thống nhất. Với tư cách là một
chỉnh thể, dư luận xã hội được thể hiện dưới hình thức tán thành hoặc không tán
thành với các hành vi và biểu hiện của con người.

Dư luận xã hội bao giờ cũng phản ánh lợi ích của các nhóm xã hội. Bởi
như chúng ta đã biết dư luận xã hội được hình thành là kết quả của quá trình
thảo luận công khai của các cá nhân, các nhóm xã hội về các sự kiện, hiện
tượng, quá trình xã hội diễn ra. Những hiện tượng, quá trình này đều có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích chung của nhóm, cộng đồng. Mỗi cá
nhân khi gia nhập vào một nhóm xã hội, một cộng đồng nào đó đều nhằm thỏa
mãn những lợi ích, nhu cầu nhất định của mình. Lợi ích của cá nhân lại luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với lợi ích của nhóm, nơi cá nhân tiến hành hoạt động
sống, làm việc của mình với lợi ích của cộng đồng, xã hội.
Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt hàm chứa mâu thuẫn
biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Một mặt trong dư luận xã hội có sự
hiện diện của các ý kiến cá nhân, những cá nhân này tham gia tích cực vào quá
trình bàn bạc, thảo luận, va đập ý kiến của mình với người khác về một sự
kiện, hiện tượng nào đó trong xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội lại không phải
là sự tổng hợp máy móc các ý kiến cá nhân mà được coi như sự tích hợp, đại

×