Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Ngô Đình Nhu với sự nghiệp lưu trữ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.65 KB, 10 trang )

HoangDo sưu tầm
Lưu trữ, Lịch sử
NGÔ ĐÌNH NHU VỚI SỰ NGHIỆP LƯU TRỮ,
CHÍNH TRỊ VÀ GIA ĐÌNH
PGS-TS. Dương Văn Khảm
Trong lịch sử lưu trữ nhà nước Việt Nam, người được Nhà nước bổ nhiệm đầu
tiên vào chức vụ cơ quan lưu trữ nhà nước trung ương là ông Ngô Đình Nhu. Ngô
Đình Nhu sinh năm 1911 tại Huế. Quê quán ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ,
Quảng Bình. Thân phụ của ông là ông Ngô Đình Khả, một trong các vị đại thần của
triều đình nhà Nguyễn và mẫu phụ là bà Anna Phạm Thị Thân. Gia đình có 9 người
con, 6 con trai, ba con gái, theo thứ tự: Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình
Diệm, Ngô Đình Thị Giao, Ngô Đình Thị Hiệp, Ngô Đình Thị Hoàng, Ngô Đình Nhu,
Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện.
Xuất thân từ một gia đình theo đạo Thiên chúa và có truyền thống nho học,
Ngô Đình Nhu còn được du học tại Trường Cổ tự học quốc gia Pháp (Ecole nationale
des chartes) và tốt nghiệp năm 1930. Ông về nước và được làm việc tại Nha Lưu trữ
và Thư viện Đông Dương, được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc. Sau đó ông được bổ
nhiệm làm Giám đốc Thư viện Bảo Đại, Quản thủ Kho lưu trữ và Thư viện Trung kỳ,
Huế.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và
phát xít Nhật, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Chính phủ
lâm thời nước Vịêt Nam dân chủ cộng hoà phải lo chống thù trong, giặc ngoài, giặc
dốt, giặc đói, nhưng ngay từ những ngày đầu, Chính phủ đã chỉ đạo công tác lưu trữ.
HoangDo sưu tầm
Biện pháp đầu tiên là tổ chức lại Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương thành Nha
lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc trực thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục và bổ
nhiệm người đứng đầu cơ quan lưu trữ. Với chính sách đoàn kết dân tộc, chủ trương
của Chính phủ lâm thời là mời tất cả những nhân sỹ yêu nước có tài, có nhiệt huyết
tham gia xây dựng đất nước. Ông Ngô Đình Nhu được nhận định là người thông
minh. Từ nền tảng hán học trong một gia đình khoa bảng, lại được học chính quy về
chuyên ngành văn bản giấy tờ tại Pháp. Trong thời gian làm việc tại Nha Lưu trữ và


Thư viện Đông Dương, Ngô Đình Nhu được Giám đốc Paul Boudet đánh giá là một
Lưu trữ viên - Cổ tự đầy triển vọng, có văn hoá rộng và khả năng nghề nghiệp hoàn
hảo. Chính vì vậy nên chỉ sau 6 ngày, sau khi Việt Nam làm lễ tuyên bố độc lập, ngày
08 tháng 9 năm 1945, ông được Chính phủ bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Lưu trữ công
văn và Thư viện theo Sắc lệnh số 21 do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký.
Tổ chức nhân sự của Nha Lưu trữ công văn và Thư viện được xác định là:
1.Giám đốc: Ngô Đình Nhu.
2.Văn phòng và Kế toán: 4 viên chức.
3.Quốc gia thư viện:
-Phòng đọc sách: 5 viên chức;
-Phòng mượn sách: 5 viên chức;
-Phòng đóng sách: 3 viên chức.
4.Lưu trữ văn hoá phẩm, báo chí: 3 viên chức.
5.Lưu trữ công văn:
-Lưu trữ công văn: 2 viên chức;
-Phòng pháp chế: 1 viên chức;
-Phòng biên mục: 1 viên chức.
HoangDo sưu tầm
Nhưng ông Ngô Đình Nhu, với toan tính cá nhân, bản vị hẹp hòi giống như ông
anh Ngô Đình Diệm, nên đã không nhận nhiệm sở, bỏ việc trốn sang Lào, sau đó về
sống ẩn dật tại Đà Lạt.
Từ thập niên 1950 Ngô Đình Nhu bắt đầu hoạt động chính trị chống Cộng một
cách cực đoan. Ông thành lập “Liên đoàn Lao động Công giáo” và chủ xướng thành
lập “Đảng Cần lao”, dựa vào thuyết “Nhân vị” (personalisme). Sau này Đảng Cần lao
đổi tên thành “Đảng Cần Lao Nhân vị”.
Từ năm 1954, khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền tối cao của Đệ nhất Việt
Nam Cộng hoà thì Đảng Cần Lao Nhân vị trở thành chính đảng với học thuyết Cần
lao - Nhân vị để hỗ trợ cho chính quyền của anh ông và ông đồng thời là Cố vấn
chính trị tối cao cho chính thể đương thời. Dưới sự giúp đỡ của người Mỹ, Đảng Cần
Lao Nhân vị phát triển rất nhanh, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí

thức, doanh nhân và trở thành chính đảng lớn nhất trong thời kỳ này. Ngoài ra, Ngô
Đình Nhu còn lập ra các tổ chức quần chúng, nhưng có cương lĩnh chính trị theo
Đảng của ông là “Thanh niên Cộng hoà” do chính ông làm Tổng thủ lãnh và “Phụ nữ
Liên đới” do vợ ông làm Chủ tịch. Ông còn là Chủ tịch Uỷ ban Liên bộ đặc trách “Ấp
chiến lược”, tổ chức thực hiện kế hoạch quốc phòng ấp chiến lược.
Về danh nghĩa, Ngô Đình Nhu chỉ là cố vấn chính trị, nhưng hầu hết các tài
liệu, báo chí đều chung một nhận định, ông là kiến trúc sư của chế độ, người khởi
xướng mọi chủ trương chính sách của Đệ nhất Cộng hoà.
Khi ở đỉnh cao quyền lực, Ngô Đình Nhu vẫn làm việc cần mẫn. Ông có thói
quen hút thuốc liên hồi, mỗi lần nửa điếu, trong một căn phòng không rộng, đầy ngập
sách vở, tài liệu ở tầng dưới Dinh Độc lập có gắn máy lạnh và interphone với bên
ngoài. Ông có thú vui săn bắn để tiêu khiển và để có cơ hội tìm nơi yên tĩnh suy nghĩ
về sự nghiệp chính trị của mình.
HoangDo sưu tầm
Tướng Cao Văn Viên có nhận xét về Ngô Đình Nhu và so sánh với Ngô Đình
Diệm như sau: “Ông Ngô Đình Diệm chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi; ông
không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của
Tổng thống Diệm đều do Nhu soạn thảo. Khổ lỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi
ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn cho Tổng thống Diệm. Vì ông
Nhu có nhiều mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. Tổng thống Diệm thì
trái lại”.
Tuy nhiên, do tính chất độc tài và gia đình trị, cộng với những biện pháp tàn
bạo đối với những người bất đồng chính kiến, đã dẫn đến việc ông Ngô Đình Nhu bị
xem là có trách nhiệm cho sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hoà. Đặc biệt là những
biện pháp đàn áp Phật giáo năm 1963 đã dẫn đến sự phản ứng dữ dội trong dân chúng
và cả trong nội bộ chính quyền. Ngày 01 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh của quân
đội Việt Nam Cộng hoà đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ Tổng thống Ngô
Đình Diệm. Anh em Ngô đình Nhu và Ngô Đình Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ
Cha Tam. Tuy nhiên, vào ngày 02 tháng 11 năm 1963, người ta thấy một đoàn xe
quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng khi chiếc xe thiết giáp

M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể hai anh em ông với nhiều
vết dao và dấu đạn trên người.
Về phía gia đình, những người có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự nghiệp của ông
Ngô đình Nhu và ông Ngô Đình Diệm phải kể đến người anh ruột, Tổng Giám mục
Ngô Đình Thục và bà vợ Trần Lệ Xuân. Với hạn chế nội dung như tên bài báo, trong
bài này, chúng tôi viết về khía cạnh gia đình riêng của ông Ngô Đình Nhu là bà Ngô
Đình Nhu, Trần Lệ Xuân.
HoangDo sưu tầm
Bà Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân là một trong gương mặt then chốt trong chính
quyền Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng hoà. Trần Lệ Xuân sinh năm 1924 tại
Huế. Bà là cháu của vua Đồng Khánh, triều Nguyễn và là con của luật sư Trần Văn
Chương, một thời kỳ là đại sứ của Việt Nam Cộng hoà tại Mỹ. Khi còn nhỏ, bà theo
học tại trường Albert Sarraut ở Hà Nội, tốt nghiệp tú tài Pháp.
Năm 1943, Trần Lệ Xuân kết hôn cùng Ngô Đình Nhu và bỏ đạo Phật, theo đạo
Thiên chúa của gia đình chồng. Trong dòng họ Ngô Đình, Trần Lệ Xuân là một con
dâu đặc biệt, không giống ai. Tuy chỉ là vợ của một ông cố vấn Đệ nhất Cộng hoà,
nhưng bà đã rất lộng quyền. Bà có nhiều hành động trắng trợn, gây nhiều điều tiếng
không hay trong dư luận, làm ảnh hưởng xấu tới gia đình chồng mà vốn tự nó đã bị
nhiều người căm ghét.
Về vị trí chính trị, Trần Lệ Xuân được làm dân biểu, sau khi được bầu vào
Quốc hội Sài Gòn. Bà được giữ chức Chủ tịch Hội Phụ nữ Liên đới. Các chính khách
đều xưng hô với Trần Lệ Xuân là “Bà Cố vấn” và vẫn coi bà là Đệ nhất phu nhân từ
năm 1955, vì Tổng thống Ngô Đình Diệm không có vợ. Trong quan hệ chính trường,
bà thường lộng quyền. Bản thân ông anh Ngô Đình Diệm cũng nể cô em dâu sắc sảo,
bạo nói. Còn Ngô Đình Nhu thì tuy ở vị trí thượng phong, vẫn nhũn nhường trước
mặt vợ, vì rất sợ chuyện to tiếng riêng tư. Việc ông Diệm để cho bà, các ông Ngô
Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và người em út Ngô Đình Cẩn tham gia
sâu vào bộ máy nhà nước ở cấp cao đã tạo ra hình ảnh gia đình trị độc đoán theo kiểu
phong kiến. Dư luận đánh giá chung là, chính Trần lệ Xuân và giám mục Ngô Đình
Thục đã trực tiếp “đổ thêm dầu vào lửa” làm cho chế độ gia đình trị của Ngô Đình

Diệm ở miền Nam sớm bị xoá sổ.
Đỉnh cao của sự oán thù chế độ Việt Nam Công hoà phải kể đến sự kiện Phật
Đản năm 1963, trước thềm của cuộc đảo chính quân sự cuối năm. Trong buổi nói
chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân đã phát ngôn xúc phạm đến tôn giáo.
HoangDo sưu tầm
Bà lên tiếng rằng “ hoạt động của Phật giáo là một hình thức phản bội, xấu xa ”.
Việc tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức bà đã công khai nói: “Vỗ tay hoan
nghênh các vụ tự thiêu, nếu ai có thiếu xăng dầu thì tôi sẽ cho” và gọi vụ tự thiêu là
“nướng thịt sư”. Trong cuộc trả lời phỏng vấn ký giả báo New York Times, Trần Lệ
Xuân nói: “Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết
vấn đề Phật giáo là phớt tỉnh, không cần biết tới”. Cách nói thiếu cân nhắc của bà như
vậy trong ứng xử các vấn đề chính trị hệ trọng đã là một trong các nguyên nhân nhanh
chóng dẫn tới cuộc đảo chính quân sự ngày 01 tháng11 năm 1963.
Trong cuộc sống đời thường, Trần Lệ Xuân luôn thể hiện là người sành điệu.
Kiểu áo dài cổ thuyền Sài Gòn cũng do Trần Thị Xuân khởi xướng mà dân chúng gọi
là “áo dài Trần Lệ Xuân”. Bà còn cho xây dựng tượng đài Hai Bà Trưng mà Trưng
Trắc giống hệ bà và Trưng Nhị giống hệt con gái Lệ Thuỷ của bà. Sau ba năm bà đi
lưu vong, tượng đài bị đập bỏ.
Tháng 10 năm 1963, khi đánh hơi thấy sự thất thế của gia đình họ Ngô, Trần Lệ
Xuân và con gái của bà là Ngô Đình Lệ Thuỷ đi Hoa kỳ và Rome, mà dư luận coi là
cuộc đi “giải hạn”. Mục đích chuyến đi là để lên tiếng tố cáo trước công chúng Mỹ
một âm mưu đảo chính có thể xẩy ra mà Tổng thống Kennedy và CIA đang đứng
đằng sau. Ngày 01 tháng 11 năm 1963, khi Trần Lệ Xuân và con gái đang ở khách sạn
sang trọng Wilshire Hotel tại khu Beverly Hill ở California thì ở Sài Gòn đã xẩy ra
đảo chính và ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và cả Ngô Đình Cẩn đều bị giết.
Đến trung tuần tháng 11 năm đó, Trần Lệ Xuân và Lệ Thuỷ rời khỏi Los
Angeles để đi Rome sinh sống và tức tối tuyên bố: “Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ , vì lý
do đơn giản, chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”. Năm tháng tiếp theo, tấm bi kịch
lại xẩy ra đối với Trần Lệ Xuân. Chỉ mấy tháng sau, ngày 02 tháng 01 năm 1964, bà
nhận được tin mẹ chồng qua đời tại Huế. Bốn năm sau, con gái đầu của bà là Ngô

Đình Lệ Thuỷ cũng bị chết trong một tai nạn giao thông ở Pháp.
HoangDo sưu tầm
Từ sau năm 1963 và những người con còn lại của bà về sống tại Rome trong
nhiều năm, nơi giám mục Ngô Đình Thục đang ở đó.
Ngô Đình Thục cũng ở Italia một thời gian rồi sang Mỹ. Ngày 13 tháng 12 năm
1984 ông qua đời trong một Viện dưỡng lão vì khủng hoảng tinh thần. Tiếp theo cái
tang của Ngô đình Thục, Trần Lệ Xuân còn phải sống qua một bi kịch lớn hơn là cha
mẹ mình- ông bà Trần Văn Chương bị chính người con của mình, em ruột của bà giết
chết tại Mỹ ngay tại nhà riêng do bị bệnh tâm thần. Đầu năm 1990, người em út của
gia đình họ Ngô Đình là Ngô Đình Luyện cũng qua đời tại Paris. Như vậy, trong thời
gian không dài của một cuộc đời, bà Trần Lệ Xuân đã phải chứng kiến 10 cái tang của
những người họ hàng ruột thịt.
Từ năm 1990, Trần Lệ Xuân rời Italia sang Paris cư trú. Có những câu hỏi rằng,
không biết Trần Lệ Xuân ở vậy hay đi bước nữa, hoặc bà còn sống hay đã qua đời vì
cho đến nay, bà đã ở tuổi ngoài 80. Được biết, bà từ chối tiếp xúc với những người
làm chính trị và các cơ quan báo chí và sống rất ẩn tích. Thậm chí, nhiều người Việt ở
Pháp lâu năm vẫn tưởng bà còn đang sống ở Italia. Năm 2002 một luật sư người Việt
từ Mỹ sang chơi Paris đã có dịp trực tiếp gặp Trần Lệ Xuân và đã ghi nhận được
những điều tai nghe mắt thấy. Được biết bà ở một mình trong một căn hộ của một toà
nhà gần tháp Eiffel. Tại đây,Trần Lệ Xuân sở hữu hai căn hộ liền kề nhau. Bà kể rằng,
tiền mua hai căn hộ này là do giám mục Ngô Đình Thục cho, nhưng thực ra không
phải như vậy. Tiền đó là do một người nữ ẩn danh ở Italia tặng. Bà sở hữu một căn hộ
và căn hộ khác cho một nhà ngoại giao Nhật thuê. Số tiền cho thuê nhà cũng đủ cho
nhu cầu sinh hoạt của bà để không phải nhờ vào sự giúp đỡ của con cái.
Trần Lệ Xuân đang viết hồi ký bằng tiếng Pháp, rồi tự dịch ra tiếng Italia, tiếng
Anh và tiếng Việt. Theo lời bà thì cuốn hồi ký đó chỉ được công bố sau khi bà qua
đời.
HoangDo sưu tầm
Điều mà mọi người nhận định là chưa hẳn mọi điều trong cuốn hồi ký đều là sự
thật. Những gì mà Trần Lệ Xuân định nói, không hẳn là để sám hối, mà có thể là để

thanh minh cho một dòng họ đã gây ra quá nhiều ân oán, giang hồ trong một giai đoạn
lịch sử. Nhưng lịch sử là khách quan, không thể một cá nhân nào có thể bóp méo
được.
Tài liệu tham khảo:
-Bách khoa toàn thư Wikipedia;
-Văn Chinh: Những điều chưa biết về Ngô Đình Nhu.
wwwtque.gov.vn/tintuc/7456;
-Hoàng Trọng Miên: Bà Ngô Đình Nhu - cuộc sống lưu vong và buồn tẻ.
/>-Hoàng Trọng Miên: Đề nhất phu nhân Trần Lệ Xuân. vnthuquan.net.
-Tranh Trần Nhương: Ngô Đình Nhu từng là Giám đốc Thư viện Quốc gia.
Vanchinh.net;
-Văn Thư: Ngô Đình Thục, nhiều tham vọng, nhiều cay đắng. An Ninh Thế
giới cuối tháng, 06/9/2008;
-Trương Phú Thái: Bà Ngô Đình Nhu. www.vietnhim.com;
-Lịch sử Lưu trữ Nhà nước Việt Nam. Bản thảo số 4, 2007.
Hiệp ước Hăcmang (HIỆP ƯỚC QUÝ MÙI) và Hiệp ước Patơnotơ
PGS-TS. Dương Văn Khảm: HIỆP ƯỚC QUÝ MÙI 1883:
HoangDo sưu tầm
(cg. Hiệp ước Hacmăng 1883, Hiệp ước hoà bình), hiệp ước kí 25.8.1883 tại
Huế giữa đại diện triều đình nhà Nguyễn Trần Đình Túc với đại diện tổng thống Pháp
là tổng uỷ viên Hacmăng (Harmand), sau khi quân Pháp đánh chiếm cửa Thuận An
(18 - 20.8.1883), thừa nhận Pháp thống trị toàn bộ Việt Nam. Gồm 27 điều khoản.
Nội dung chủ yếu: chia cắt Việt Nam làm ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ); triều
đình Huế thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ đặt dưới
chế độ "bảo hộ và nửa bảo hộ" của Pháp; triều đình Huế không có quyền quan hệ
ngoại giao với các nước; buộc phải lưu dụng khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ loại tiền do
Ngân hàng Đông Dương (thành lập 21.1.1875) phát hành
Hiệp ước Patơnotơ
Sinh viên Trường cao đẳng Nội vụ Hà Nội hỏi: Hiệp ước Patơnốtơ khác Hiệp
ước Hămang thế nào?

PGS-TS. Dương Văn Khảm trả lời:
Ngày 6/6/1884, Pháp buộc triều Nguyễn ký điều ước Patơnốtơ.
Hiệp ước được ký tại Huế. Hiệp ước này được gọi là “Hiệp ước Patơnốtơ”.
Đại diện triều đình Huế là: Thượng thư Bộ Lại, kiêm phụ chánh thứ nhất
Nguyễn Văn Tường; Thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật; quyền Thượng thư Bộ
Công Tôn Thất Phan. Đại diện Pháp là Giuyn Patơnôtơ (Jules Patenôtre), đặc phái
viên của Chính phủ Pháp bên cạnh hoàng đế Trung Hoa.
Hiệp ước gồm 19 điều khoản. Nội dung bao trùm là: Nước An Nam thừa nhận
và chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong
HoangDo sưu tầm
mọi quan hệ đối ngoại. Người An Nam sống ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo hộ của
nước Pháp (điều 1).
Từ năm 1883, triều đình Huế đã ký Hiệp ước công nhận quyền bảo hộ của Pháp
ở Việt Nam, nhưng vẫn muốn tránh cuộc xung đột với quân Thanh trên chiến trường
Bắc kỳ. Còn triều đình nhà Thanh vẫn muốn có chút quyền lợi ở Việt Nam, nhưng
cũng không dám có hành động gì quyết liệt. Cuộc thảo luận giữa Pháp và nhà Thanh
đã dẫn đến ký kết bản Quy ước ngày 11/5/1984 tại Thiên Tân. Theo quy ước này,
quân Thanh sẽ lần lượt rút hết tại Bắc lỳ.
Trên đà tháng đó, ngày 06/6/1984, Chính phủ Pháp lại cử Patơnotơ cùng với
Triều đình huế ký hiệp ước mới được gọi là hiệp ước Patơnotơ. Nội dung của hiệp
ước dựa trên Hiệp ước Hăcmang trước kia, nhưng được sửa chữa lại một số điều
nhằm xoa dịu sự phản ứng của triều đình nhà Thanh và mua chuộc, lung lạc hơn nữa
giai cấp phong kiến Việt Nam. Nội dung cơ bản của Hiệp ước là Việt Nam thừa nhận
sự bảo hộ của Pháp và với tư cách là nước sẽ thay mặt Việt Nam trong mọi việc giao
thiệp với nước ngoài. Hiệp ước Patơnotơ đặt cơ sở lâu dài cho quyền bảo hộ của Pháp
ở Việt Nam. Theo hiệp ước, ba miền Nam, Trung , Bắc đã hoàn toàn lọt vào tay Pháp.
Chúng chia cắt ba miền với 3 chế độ khác nhau. Mục đích thâm hiểm của Pháp là chia
để trị. Sau hiệp ước, giai cấp Phong kiến Việt Nam đã hoàn toàn đầu hàng thực dân
Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã hoàn toàn xụp đổ. Nước Việt Nam đã trọn
vẹn trở thành thuộc địa của tư bản Pháp. Hiệp ước này mang ý nghĩa một bản khai tử

đối với chủ quyền đối ngoại của vua nước Nam và đặt dấu chấm hết cho một nước
Nam độc lập có chủ quyền.

×