Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 33 trang )

Nhóm chuyên gia
Chuyên đề số 1
Dự án thí điểm xây dựng
chương trình Nghị sự 21 tỉnh
Sơn La.
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Sơn La, ngày tháng 7 năm 2005
Báo cáo
Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
Tỉnh Sơn La đã trải qua gần 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, 15
năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991 – 2005.
Nhất là những năm gần đây thực hiện kế hoạch 5 năm (2001 – 2005), bên
cạnh những thuận lợi, Sơn La phải đối mặt với những khó khăn thách thức bất
lợi như sự biến động của cơ chế thị trường, nhất là khả năng cạnh tranh một
số sản phẩm chủ lực của tỉnh và do thiên tai hạn hán, lũ quét, sạt lở đất…Với
tinh thần kế thừa và phát huy những thành tựu, kinh nghiệm của những năm
đổi mới Sơn La liên tục được giữ vững ổn định về kinh tế chính trị, phát triển
về kinh tế – xã hội nhất là duy trì tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và bền
vững được thể hiện ở các nội dung như sau:
Phần i
Đánh giá hiện trạng
I. Thực trạng về sự tăng trưởng phát triển kinh tế: Đánh giá sự phát triển
kinh tế 5 năm (2001 – 2005).
1. Tốc độ tăng trưởng GDP .
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2004 đạt
1.835.660 triệu đồng (giá 1994), tăng 1,5 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn tỉnh năm 2004 đạt 14,21%.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân/năm thời kỳ 2001 - 2004 là:
10,6%/năm (cả nước là 7,05%/năm). Năm 2005 phấn đấu đạt 16% (bình quân
giai đoạn 2001 - 2005 đạt 11,65%/năm). Như vậy tốc độ tăng trưởng bình


quân giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh
của khối ngành công nghiệp - xây dựng, giai đoạn 2001 – 2005 bình quân
ngành công nghiệp – xây dựng tăng trưởng 27,2%/năm. Năm 2004, tốc độ
1
tăng trưởng ngành công nghiệp đạt 42,59%, một mức tăng trưởng rất cao,
năm 2005 ước đạt 32,42%.
Biểu 3. Tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh giai đoạn 2000 - 2005
Chỉ tiêu Đơn
vị
2000 2004 Ư 2005 Nhịp độ tăng
trưởng
(2001-2005)
GDP (giá 94) Tr.đ
1.226.266
1.835.660
2.129.400 11,65
- NN Tr.đ
760.212 919.670 975.000 5,1
- CN+XD Tr.đ
129.314 325.700 431.300 27,2
- Dịch vụ Tr.đ
336.740 509.290 975.000 16,5
GDP (giá hh) Tr.đ
1.837.352
3.428.420
4.142.800
Cơ cấu: %
100 100 100
- NN %
60,96 47,99 45

- CN+XD %
9,49 17,51 19
- Dịch vụ %
29,55 34,5 36
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Sơn La.
Giá trị gia tăng nông-lâm nghiệp, thuỷ sản thời kỳ 2001-2004 tăng bình
quân 4,85%/năm. Năm 2005 ước tăng 6,01%, tăng bình quân giai đoạn 2001 -
2005 ước đạt 5,1%/năm.
Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng, thời kỳ 2001-2004 tăng bình
quân xấp xỉ 25,95%/năm, cao gấp xấp xỉ 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân của nền kinh tế. Năm 2005 ước tăng 32,42%, bình quân tăng giai đoạn
2001 - 2005 ước tăng 27,2%/năm.
Giá trị gia tăng ngành dịch vụ thời kỳ 2001-2004 tăng trưởng bình quân
15,07%/năm, cao gấp 1,4 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP toàn
tỉnh. Năm 2005 ước thực hiện tăng 22,49%, bình quân giai đoạn 2001 - 2005
ước tăng 16,5%/năm. Trong 3 khối ngành thì ngành dịch vụ có mức tăng
trưởng ổn định nhất. Năm 2004 tổng sản phẩm trong tỉnh đạt 3.428,4 tỷ đồng
(giá hiện hành).
Ước thực hiện năm 2005 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 16,0%; cơ cấu
ngành nông, lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 45,0%; ngành công nghiệp xây dựng
chiếm 19%; ngành Dịch vụ chiếm 36%.
Số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Sơn La giai đoạn
2001 - 2005 cao hơn giai đoạn trước, phù hợp với xu thế phát triển của cả
2
nước nói chung và của cả vùng Tây Bắc nói riêng. Nền kinh tế của tỉnh những
năm gần đây có tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, năm sau đều cao hơn năm
trước, trong đó khối dịch vụ tăng khá, khối công nghiệp và xây dựng tăng
mạnh.
2. GDP bình quân đầu người
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định nên GDP bình quân đầu

người tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt 2.202.878 đồng/người (142 USD),
năm 2004 đạt 3.516.000 đồng/người (225 USD-giá hiện hành).
So với GDP bình quân đầu người cả nước tương ứng các năm là 398
USD (năm 2000) và 545 USD (năm 2004) thì Sơn La vẫn còn thua kém nhiều
(khoảng xấp xỉ 40% bình quân cả nước), xu hướng tăng nhanh hơn để thu hẹp
khoảng cách là chưa rõ và chưa vững. Năm 2004, GDP bình quân đầu người
cả nước đạt 545 USD. Như vậy năm 2004, GDP bình quân đầu người của Sơn
La chỉ xấp xỉ bằng 41,5% GDP bình quân cả nước. Năm 2005 phấn đấu thu
nhập bình quân đầu người tỉnh Sơn La đạt 4.150.000 đồng (khoảng 258
USD). Mặc dù so với cả nước, GDP toàn tỉnh vẫn còn thấp song đời sống của
đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức sống giữa các địa bàn dân cư trong
Tỉnh vẫn còn lớn và có nguy cơ doãng ra. ở các xã đặc biệt khó khăn (chiếm
khoản 35% dân số toàn tỉnh), mức thu bình quân đầu người chỉ đạt khoảng
1.000.000 đồng - 1.200.000 đồng/năm, chỉ bằng khoảng trên 30% mức thu
nhập bình quân toàn Tỉnh. Như vậy, 35% dân số Tỉnh ở các xã đặc biệt khó
khăn chỉ nắm giữ xấp xỉ 14% thu nhập của tỉnh, 65% dân số còn lại nắm giữ
trên 86% thu nhập toàn tỉnh.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế toàn tỉnh đã có bước chuyển
dịch quan trọng, đúng hướng, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất
nước trong xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ trong GDP toàn tỉnh tăng dần, đồng thời tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP có xu hướng giảm xuống.
- Nông - Lâm nghiệp, Thuỷ sản: Thời kỳ 2000-2004 GDP ngành nông –
lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 4,87%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Vì vậy, tỷ trọng GDP của
ngành giảm từ 60,96% (năm 2000) xuống 47,99% năm 2004; Ước thực hiện năm
2005 giảm còn 45%, tuy nhiên giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng đều.
3

- Công nghiệp - xây dựng: Thời kỳ 2001 – 2004, ngành công nghiệp – xây
dựng có bước phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao nên tỷ trọng
GDP của ngành tăng từ 9,49% (năm 2000) lên 17,51% năm 2004, ước thực hiện
năm 2005 tăng lên 19%.
- Dịch vụ: Thời kỳ 2001 - 2004 tăng bình quân 15,07%/năm. Với đà tăng
trưởng đó, tỷ trọng GDP ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế toàn tỉnh vẫn tăng
đều qua hàng năm, tăng từ 18,75% (năm 1995) lên 29,55% (năm 2000) và đạt
34,5% năm 2004, năm 2005 ước tăng lên 36%.
Số liệu trên cho thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La đã có sự chuyển biến
mạnh mẽ trong các năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ kinh tế thuần nông
tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Tuy vậy ngành nông
lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng ngành công nghiệp tăng không
vững chắc và còn rất thấp, dịch vụ và các ngành khác tăng nhanh hơn.
4. Kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu.
4.1. Xuất nhập khẩu
Tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2000 đạt 3,103 triệu
USD, năm 2004 đạt 11 triệu USD, năm 2005 ước đạt 14 triệu USD, giai đoạn
2001 - 2004 tăng bình quân năm 41,55%/năm, ước giai đoạn 2001 - 2005 tăng
bình quân 38,6%/năm. Xu hướng tăng giá trị xuất khẩu trong giai đoạn 2001
– 2005 diễn ra đều đặn và tương đối rõ trong tất cả các năm. Mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là đường kết tinh, cà phê, chè, ngô hạt.
Hàng hoá nhập khẩu đã thay đổi dần cơ cấu, từ năm 2000 trở lại đây
hàng hoá nhập khẩu phong phú, ngoài một số mặt hàng tiêu dùng còn nhập
các thiết bị dây chuyền sản xuất đồng bộ phục vụ cho sản xuất công nghiệp,
phương tiện vận tải chiếm một tỷ trọng cao trong tổng giá trị nhập khẩu hàng
năm. Tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 1995 là 3,464 triệu
USD đến năm 2000 giảm xuống còn 2,15 triệu USD, năm 2004 đạt 4,5 triệu
USD; giai đoạn 2000 - 2004 tăng bình quân 20,25%/năm song mức tăng giảm
là không đều. Năm 2005 ước đạt khoảng 5,0 triệu USD.
Năm 2005 giá trị xuất khẩu bình quân đầu người của tỉnh Sơn La đạt

xấp xỉ 14,02 USD/người/năm, giá trị nhập khẩu bình quân đạt xấp xỉ 5
USD/người.
Tổng giá trị xuất, nhập khẩu qua các năm biến động mạnh, tăng giảm
không đều. Năm 2001, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 6,6 triệu USD, đã giảm
xuống còn 4,8 triệu USD vào năm 2002 và tăng lên 15,5 triệu USD năm
4
2004. Tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu/GDP (tính theo giá hiện hành) đạt thấp: đạt
4,7% năm 1995, giảm xuống 2,7% năm 2000 và và tăng lên 6,9% năm 2004,
chứng tỏ "độ mở" của nền kinh tế tỉnh Sơn La là rất thấp và thiếu ổn định.
Biểu 4. Kết quả xuất nhập khẩu 1995 – 2004
Đơn vị: Nghìn USD
Chỉ tiêu 2000 2004 Ư 2005
I. Xuất khẩu 3.103 11.000 14.000
Trung ương xuất khẩu trực tiếp 20
Địa phương xuất khẩu trực tiếp 349
Uỷ thác xuất khẩu 2.734
II. Nhập khẩu 355 4500 5.000
Trung ương nhập khẩu trực tiếp 205
Địa phương nhập khẩu trực tiếp 130
Uỷ thác nhập khẩu -
Đầu tư nước ngoài -
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Sơn La, Sở Kế hoạch và Đầu tư Sơn La.
4.2. Các hoạt động khác
Cùng với hoạt động xuất nhập khẩu, các hoạt động kinh tế đối ngoại
khác cũng được Tỉnh quan tâm phát triển.
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được Tỉnh coi trọng
nhằm thu hút các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội của Tỉnh. Tính đến hết tháng 6 năm 2005, toàn tỉnh thu hút được 5 dự
án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký còn hiệu lực với tổng vốn đăng
ký 25,07 triệu USD. Trong số đó, đã có một số dự án thực hiện với tổng vốn

đầu tư 10,63 triệu USD.
Trên địa bàn Tỉnh cũng có một số dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng khả năng tiếp
cận của nhân dân đối với các dịch vụ xã hội,.. Điển hình là Dự án xóa đói
giảm nghèo.
Hoạt động du lịch quốc tế cũng được coi trọng, đặc biệt là dịp kỷ niệm
50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Khách du lịch quốc tế đã tăng từ 1821
khách du lịch năm 1995 lên 5.378 khách du lịch năm 2000 và đạt 11.500
khách du lịch quốc tế năm 2004. Lượng khách du lịch quốc tế lớn góp phần
5
tăng thu ngoại tệ, giao lưu văn hóa, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh.
Là Tỉnh biên giới, có chung đường biên giới với Nước CHDCND Lào
nên quan hệ hữu nghị giữa Tỉnh với các Tỉnh phía Bắc Lào cũng được đẩy
mạnh, nâng cao về tầm và chất lượng, góp phần thắt chặt tình đoàn kết hữu
nghị giữa nhân dân 2 Nước, 2 Dân tộc. Quan hệ hợp tác với các Tổ chức quốc
tế cũng được cải thiện đáng kể.
5. Đầu tư phát triển
Trong 4 năm 2001 – 2004, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh Sơn La đạt
9.088 tỷ đồng (giá hiện hành), cao hơn nhiều so với tổng vốn đầu tư 5 năm
1996 – 2000. Ba lĩnh vực được đầu tư nhiều nhất là nông lâm nghiệp, vận tải
kho bãi và thông tin liên lạc, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng.

Tổng vốn đầu tư so với GDP tăng đáng kể. Năm 2000, tỷ lệ vốn đầu
tư/GDP (tính theo giá hiện hành) đạt 37,8%, và đạt mức 142,8% năm 2005.
Mức đầu tư bình quân đầu người năm 2004 của Tỉnh cũng đã tăng lên và đạt
mức 3,056 triệu đồng/người, bằng 79% mức đầu tư bình quân đầu người của
cả nước, năm 2005 ước đạt 5,93 triệu đồng/người.
Năm 2004, tổng vốn đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh đã tăng đột biến đạt
4.574,5 tỷ đồng, gấp 2 lần tổng vốn đầu tư năm 2003. Việc tăng đột biến này

chủ yếu nhờ vào việc thực hiện các dự án đầu tư các công trình chuẩn bị thi
công thuỷ điện Sơn La, năm 2005 ước đạt 5.916 tỷ đồng.
Dự báo trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) tổng mức đầu tư trên địa
bàn đạt 15.000 tỷ đồng tăng gấp nhiều lần so với 5 năm trước (1996-2000) và
sẽ còn tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2006 – 2010. Tổng mức đầu tư có thể
tăng rất cao để làm đường giao thông, xây dựng nhà máy xi măng, di dân, xây
dựng các công trình phụ trợ khác, đây là yếu tố chính làm cho nền kinh tế tỉnh
tăng trưởng cao trong những năm tới.
6. Thu, chi ngân sách
Năm 2004 tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.360 tỷ đồng tăng gấp
2,16 lần so với năm 2000, trong đó thu tại địa phương 220 tỷ đồng (chiếm
16,7% tổng thu NS), trợ cấp của TW khoảng 1.119,8 tỷ đồng (82,32%). Điều
này chứng tỏ sản xuất hàng hoá trong tỉnh đã từng bước phát triển, thị trường
được mở rộng. Tuy nhiên, trong tổng nguồn thu thì thu từ Trợ cấp của Trung
ương vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và
phát triển của tỉnh. Năm 2005, thu ngân sách tại địa phương ước đạt 245 tỷ
6
đồng, tăng 11,36% so với năm 2004. Trợ cấp của Ngân sách Trung ương
chiếm đến 82,4% tổng thu ngân sách. Nhìn chung vấn đề thu ngân sách trên
địa bàn còn thấp so với khả năng, cần có biện pháp quản lý tốt để tăng nguồn
thu ngân sách địa phương.
Thu, chi ngân sách trên địa bàn tỉnh Sơn La tăng khá qua các năm:
Biểu 5. Kết quả thu chi ngân sánh
Đơn vị: Triệu đồng
2000 2004 Ư 2005
Tổng thu 630.057 1.360.300 1.819.000
Chỉ số phát triển về thu(%) 216,5 96,4
I. Thu từ kinh tế TW trên địa bàn 50.971 88.000 75.000
II. Thu từ kinh tế địa phương 60.690 132.000 145.000
III. Thu từ k/v kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài
23 100 100
IV. Thu kết dư năm trước 12.408 188.657 30
V. Trợ cấp từ TW 501.307 1.120.000 1.394.000
VI. Thu viện trợ 1.239
VII. Thu được để lại chi qua NSNN 3.419
VIII. Thu từ các nguồn vốn vay - 30.000 30.000
Tổng chi 602.004 1.345.000 1.819.000
Chỉ số phát triển về chi (%) 230,4 137,5
I. Chi đầu tư và phát triển 167.431 404.362
Tr.đó: Chi đầu tư XDCB 101.975 117.622 150.000
II. Chi thường xuyên 434.573 834.690
1. Chi quản lý hành chính 69.517 150.000
2. Chi sự nghiệp kinh tế 36.187 80.000
3. Chi sự ngiệp xã hội 271.093 410.000
- Giáo dục 181.633 100.295
- Y tế 30.613 60.427
- Chi bảo đảm xã hội 6.705 54.588
4. Chi thường xuyên khác 57.677 194.690
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Sơn la
7
Tổng chi ngân sách qua các năm đều tăng. Năm 2004 tổng chi ngân
sách đạt 1.345 tỷ đồng, cao gấp trên 2,23 lần so với năm 2000 nhưng giảm so
với chi năm 2003. Nguyên nhân tăng đột biến chi ngân sách năm 2003 là tăng
chi quản lý hành chính. Mặt khác, chi thường xuyên tăng nhanh hơn chi đầu
tư phát triển do tăng chi cho các sự nghiệp giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội
khác. Chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo năm 2003, cao gấp 2 lần và chiếm
tới 26,9% tổng chi ngân sách, chi cho sự nghiệp y tế cao gấp 2,3 lần năm
2000.
Tuy nhiên qua cân đối cho thấy, thu ngân sách từ kinh tế địa phương

so với chi thường xuyên là rất thấp, năm 2000 đạt gần 14%, năm 2004 cũng
chỉ đạt 16,36%. Chi ngân sách của Tỉnh vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn trợ
cấp từ trung ương.
Qua số liệu thu chi ngân sách trên cho thấy Sơn La còn là một tỉnh
nghèo, thu từ kinh tế địa phương không đủ chi thường xuyên, không có tích
luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh, hàng năm Trung ương còn phải trợ cấp,
năm ít như năm 1995 cũng đến 218 tỷ đồng, năm nhiều lên tới 1.119,8 tỷ
đồng (năm 2004). Ước trợ cấp từ Trung ương cho tỉnh Sơn La năm 2005
khoảng 1.394 tỷ đồng.
II. Sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản
1. Nông nghiệp
Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp Tỉnh Sơn La đã có sự phát
triển đáng kể, bước đầu thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất
theo hướng sản xuất hàng hoá, nổi bật là sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ
cấu mùa vụ, xác định được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từng bước
hình thành vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung, chuyên canh, thâm canh
gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật công nghệ gắn với chính sách đầu tư,
chính sách khuyến nông, coi trọng vai trò kinh tế hộ tự chủ, ổn định sắp xếp
lại dân cư, phát triển mạnh kinh tế trang trại... là những biện pháp có tác động
tích cực trong thời gian vừa qua.
Biểu 6. Kết quả sản xuất nông nghiệp
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2004 Ư 2005
GTSX nông nghiệp (giá
hiện hành)
Triệu đ. 1.073.398 1.679.630 2.095,74
Tr. đó: - Tr. Trọt
Triệu đ. 866.555 1.277.050
8
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2004 Ư 2005

- Chăn nuôi
Triệu đ. 200.262 390.350
- Dịch vụ
Triệu đ. 6.581 12.230
GTSX nông nghiệp (giá
so sánh 1994)
Triệu đ. 792.184 1.028.360 1.175,2
1. Lương thực có hạt Tấn 243.895 352.540 350.000
Lúa: Diện tích Ha 41.537 38.951 36.095
Sản lượng Tấn 108.117 133.946 130.000
Ngô: Diện tích Ha 51.645 68.209 60.700
Sản lượng Tấn 135.775 218.583 222.000
2. Các sản phẩm khác
Đậu tương: Diện tích Ha 9.484 13.253 14.000
Sản lượng Tấn 9.480 14.773 14.800
Chè: Diện tích Ha 2.246 3.957 4.460
Sản lượng Tấn 10.758 16.406 16.000
Cà phê: Diện tích Ha 3.862 2.649 2.900
Sản lượng Tấn 377 2122 2.028
Bông: Diện tích Ha 1.132 2.920 3.000
Sản lượng Tấn 539 3.000 3.200
Mía: Diện tích Ha 3.742 3.625 3.500
Sản lượng Tấn 136.574 164.728 180.000
Cây ăn quả: Diện tích Ha 18.680 24.981 25.900
Sản lượng Tấn 41.046 55.000 60.000
Dâu tằm: Diện tích Ha 490 410 473
Sản lượng Tấn 148 125 250
Nguồn: Niên giám thống kê 2003, Báo cáo kinh tế – xã hội 4 năm (Cục
Thống kê).
Sản lượng: Chè: Chè búp tươi, Cà phê: cà phê nhân, Mía: mía cây

+ Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng đều qua các năm, năm sau
đều cao hơn năm trước, năm 2000 đạt 1.073 tỷ đồng, năm 2004 đạt 1637,8 tỷ
đồng (giá hiện hành). Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngành nông nghiệp đạt khá,
9
giai đoạn 2000 – 2004 giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân
6,7%/năm.
+ Về cơ cấu: Trồng trọt vẫn là ngành chủ yếu, chiếm tỷ trọng 80,7%
năm 2002 và ở mức 76,03% năm 2004 trong tổng giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp. Tỷ trọng của trồng trọt còn cao thể hiện ngành nông nghiệp của tỉnh
vẫn rất lạc hậu, đời sống đại bộ phận nhân dân còn thấp. Ngành chăn nuôi tuy
có chuyển biến song còn chậm, lại có xu hướng giảm xuống trong 2 năm
2002 và 2003 do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, giảm từ 25% năm 1995
xuống 18,7% năm 2000 và ở mức 18 – 19% trong hai năm 2002 và 2003. Tỷ
trọng giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2004 đạt 23,18% - một mức tăng đáng
kể. Hoạt động dịch vụ nông nghiệp quá nhỏ bé chỉ chiếm tỷ trọng 0,14%
(1995) - 0,61% (2000) và 0,79% năm 2004. Như vậy, việc phát triển của
ngành chăn nuôi là chưa mạnh, chưa tạo ra được một xu hướng rõ rệt để bứt
phá, trở thành ngành quan trọng. Điều quan trọng là sản xuất nông nghiệp
đang trong thời kỳ chuyển hướng từ sản xuất nhỏ, phân tán, phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên sang sản xuất hàng hoá rất lớn. Hiện có khoảng trên 50% số
hộ nông dân đi vào sản xuất hàng hoá.
1.1. Trồng trọt
- Sản xuất lương thực có hạt tăng khá cao và ổn định, từ 243.895 tấn
vào năm 2000 và đạt 352.540 tấn vào năm 2004. Giai đoạn 2000 - 2004 tăng
bình quân năm là 9,65%, trong đó phần tăng của diện tích là 3,55%. Sản
lượng lương thực có hạt bình quân đầu người của Sơn La tăng đều qua các
năm: Từ 217,8 kg/người năm 1995 tăng lên 269kg/người vào năm 2000, năm
2004 đạt 361 kg/người/năm. Năm 2005, sản lượng lương thực có hạt toàn tỉnh
ước đạt 350.000 tấn, bình quân đầu người đạt 351 kg/người, tăng mạnh so với
mức năm 2000. So với cả nước, sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu

người của tỉnh Sơn La năm 2004 mới chỉ bằng 75%. Điều đáng nói là trong
sản lượng lương thực có hạt, sản lượng ngô đã chiếm đến 2/3.
Sơn La đã đảm bảo được an ninh lương thực theo quan điểm sản xuất
hàng hoá trên cơ sở tập trung thâm canh tăng năng xuất, tăng vụ đối với diện
tích lúa ruộng. Tổng diện tích trồng lúa mùa ruộng năm 2004 đạt 15.353 ha,
tăng 1,22 lần so với năm 1995, trong đó diện tích ruộng 2 vụ là 8.382 ha, tăng
2.482 ha so với năm 1995. Diện tích lúa mùa ruộng năm 2005 đã tăng lên
15.350 ha. Diện tích lúa nương giảm từ 24.997 ha (năm 1995) xuống 20.831
ha (năm 2000) và còn 14.928 ha năm 2004. Việc giảm diện tích lúa nương đã
góp phần làm giảm diện tích trồng lúa từ 43.639 ha năm 1995 xuống còn 938
10
ha năm 2004 (giảm 4.701 ha). Bình quân mỗi năm giảm 522 ha. Xây dựng
nương định canh, nhằm chống xói mòn, rửa trôi đất, tăng năng suất, chất
lượng cây trồng.
+ Đối với cây trồng cạn: Đã hình thành các vùng sản xuất cây lương
thực hàng hoá tập trung (cây ngô, cây đậu tương) theo hướng thâm canh, tăng
vụ, đưa giống mới vào sản xuất, giảm diện tích cây ngắn ngày trên nương đất
dốc. Diện tích cây ngô năm 2000 đạt 51.645 ha, tăng 26.645 ha so với năm
1995, năm 2004 tăng lên 68.209 ha, tăng 16.564 ha so với năm 2000. Tổng
sản lượng ngô năm 2004 đã đạt 217.831 tấn.
+ Đã và đang hình thành các vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung
gắn với công nghiệp chế biến:
- Vùng chè tập trung chủ yếu ở Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Phù
Yên, Thuận Châu. Từng bước khôi phục và phát triển các vùng chè đặc sản có
ưu thế như: vùng chè Tà Xùa (Bắc Yên). Đến năm 2003 tổng diện tích chè
toàn tỉnh đạt 3.845 ha (trong đó 460 ha chè nhập ngoại chất lượng cao), sản
lượng chè búp tươi đạt 13.065 tấn. Đã xây dựng được thương hiệu chè Mộc
Châu trên thị trường thế giới. Năm 2005 ước thực hiện nâng diện tích chè lên
4.460 ha cho sản lượng 16.000 tấn chè búp tươi.
- Vùng cà phê tập trung ở các huyện Mai Sơn, Thị xã Sơn La, Thuận

Châu, đang phát triển thêm tại các vùng ở huyện Sông Mã, Quỳnh Nhai. Tổng
diện tích cà phê năm 2004 đạt 2.650 ha, trong đó diện tích cà phê kinh doanh
là 2.459 ha. Sản lượng cà phê nhân năm 2004 đạt 2.122 tấn. Năm 2005 ước
thực hiện được 2.900ha cà phê, trong đó cà phê kinh doanh 2.284 ha, cho sản
lượng 2.028 tấn cà phê nhân.
- Vùng mía nguyên liệu tập trung được phát triển tại các huyện Mai
Sơn, Yên Châu, thị xã Sơn La, Bắc Yên để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy
mía đường của tỉnh. Năm 2004 diện tích mía đạt 3.625 ha, trong đó diện tích
vùng nguyên liệu là 3.500 ha, sản lượng mía cây đạt 164.728 tấn. Năng suất
mía cây bình quân năm 2004 đạt 45,44 tấn/ha, cao gấp 1,24 lần năng suất bình
quân năm 2000 song chưa đạt 90% năng suất mía bình quân của cả Nhà nước.
Năm 2005, diện tích mía giảm xuống còn 3.500 ha vùng mía nguyên liệu tập
trung cho nhà máy Mía đường Sơn La (giảm 125 ha so với năm 2004 cho sản
lượng 180.000 tấn mía cây.
- Vùng trồng dâu nuôi tằm được hình thành tại các huyện Mộc Châu,
Mai Sơn và Thị xã Sơn La và Thuận Châu. Năm 2004 diện tích dâu đạt 410
11
ha, sản lượng kén đạt 125 tấn, sản lượng tơ đạt 12,3 tấn, năm 2005 diện tích
dâu tăng lên 473 ha, sản lượng ước đạt 250 tấn kén.
- Vùng cây ăn quả tập trung đã được hình thành và phát triển ở các
huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Thị xã Sơn La và huyện Sông Mã.
Năm 2004 tổng diện tích cây ăn quả đạt 24.981 ha, sản lượng quả đạt 55.996
tấn. Sản lượng cây ăn quả năm 2004 đã tăng mạnh so với năm 2000, tăng
33.0%. Một số cây ăn quả chủ yếu là nhãn, chuối, xoài, Sơn Tra… Năm 2005
diện tích cây ăn quả đạt 25.900 ha sản lượng quả ước đạt 65.000 tấn.
1.2. Chăn nuôi
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi có sự thay đổi đáng kể. Năm 2000, giá
trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 200,26 tỷ đồng, đã tăng lên 390.350 tỷ đồng
năm 2004. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi chủ yếu do chăn nuôi gia súc
quyết định, chiếm trên 60% giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi. Tuy nhiên,

cơ cấu giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp có
sự biến động, từ mức 23% (năm 2001) đến 18 – 19% (năm 2002, 2003) và
tăng lên 23,18% (năm 2004). Năm 2005, giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi
ước đạt 583,85 tỷ đồng (giá hiện hành), chỉ chiếm 23,82% giá trị sản xuất
toàn ngành nông nghiệp. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi bình
quân đạt 18%/năm trong cả giai đoạn 2000 – 2004, giai đoạn 2001 - 2005 ước
đạt 23,85%/năm. Như vậy tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất của ngành
chăn nuôi cao gấp 1,5 lần tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất toàn ngành
nông nghiệp. Điều đó cho thấy sự phát triển ngành chăn nuôi là khá mạnh
trong ngành nông nghiệp.
Đàn gia súc, gia cầm trong những năm qua tốc độ phát triển ổn định,
tuy có năm có dịch bệnh xẩy ra ở một số xã.
- Đàn trâu từ 124.290 con năm 2000 lên 139.595 con năm 2004. Tốc độ
tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2004 là 2,95%/năm. Ước thực hiện năm
2005 đạt 144.000 con, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 ước đạt
2,99%/năm.
- Đàn bò từ 90.513 con năm 2000 lên 114.104 con năm 2004. Tốc độ
tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2004 là 5,95%/năm. Ước thực hiện năm
2005 đạt 119.000 con (trong đó bò sữa là 5.000 con).
- Đàn lợn từ 399.323 con năm 2000 lên 452.857 con năm 2004. Tốc độ
tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2004 là 3,2%/năm. Ước thực hiện năm 2005
đạt 478.000 con.
12
- Đàn gia cầm từ 2.841,86 nghìn con năm 2000 lên 3.171 nghìn con
năm 2004. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2004 là 2,8%/năm. Do
năm 2004 do dịch cúm gia cầm bùng phát nên toàn tỉnh phải tiêu huỷ gần 14
vạn con gia cầm, đến năm 2005 số gia cầm tăng lên 3.450 nghìn con.
Ngoài ra, năm 2004, Sơn La còn có đàn dê khoảng 62 nghìn con, đàn
ngựa 17,8 ngàn con (chủ yếu sử dụng để vận chuyển). Sản lượng thịt giết mổ
gia súc, gia cầm năm 2004 đạt 18,5 nghìn tấn (trong đó thịt lợn hơn 10 ngàn

tấn), dự kiến năm 2005 sản lượng thịt đạt 25.000 tấn. Sản lượng thịt đảm bảo
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh.
Những năm gần đây chăn nuôi của Sơn La đã chuyển theo hướng đẩy
mạnh đầu tư theo chiều sâu, nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm và đa
dạng hoá sản phẩm chăn nuôi, tăng quy mô hàng hoá trong cơ cấu phát triển.
Sự chuyển biến tích cực trong chăn nuôi thể hiện rõ qua việc đẩy mạnh áp
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là khâu giống; nhiều giống gia
súc gia cầm như đàn bò lai Sind, dê bách thảo, đàn lợn hướng nạc được đưa
vào sản xuất, phát triển ở các trung tâm đô thị, thị tứ, bước đầu nâng cao chất
lượng và sản lượng chăn nuôi; các giống gia cầm như gà Tam Hoàng, Vịt siêu
thịt, siêu trứng, ngan Pháp… đang được nhân rộng, nhất là gà thả vườn.
Chăn nuôi bò sữa: điều đặc biệt trong chăn nuôi đại gia súc của Sơn La
là sự phát triển của đàn bò sữa, tập trung ở Mộc Châu. Năm 1998 đã có 1.558
con bò sữa, đã tăng lên 3.784 con năm 2003, năm 2004 có 4.644 con. Cùng
với việc gia tăng tổng đàn, chất lượng đàn bò cũng được nâng lên nhờ cải tạo
giống với việc lai tạo bò mẹ giống Hà Lan (Hostein Frisian) với bò đực Zêcxây
và AFF của Australia cho phép tạo giống mới có năng suất cao (4.000- 4.200
kg sữa/chu kỳ 305 ngày). Việc đổi mới hình thức quản lý chuyển đàn bò cho hộ
gia đình chăn nuôi cùng với đầu tư dây truyền chế biến hiện đại của Pháp và
New Zeland chuyên sản xuất sữa tươi tiệt trùng công suất 6,5 tấn/ngày và các
sản phẩm khác như sữa cô đặc, bơ, kem... nên đàn bò sữa đang ổn định và có
khả năng phát triển phạm vi phát triển bò sữa. Riêng mô hình thí điểm thực
hiện ở một số khu vực huyện Mai Sơn và Thị xã Sơn La không có hiệu quả.
Đến năm 2004 đã có 7 Doanh nghiệp tham gia chương trình phát triển bò thịt,
bò sữa và có 449 hộ tại 3 huyện: Mộc Châu, Mai Sơn và Thị xã nhận nuôi bò
sữa nhập khẩu tổng số 1.043 con.
Tuy nhiên việc chăn nuôi bò sữa và sản xuất sữa hiện còn gặp một số
hạn chế như đòi hỏi kỹ thuật và vốn đầu tư khá cao; thị trường tiêu thụ sữa
của địa phương không lớn do đại đa số dân cư chưa có tập quán dùng sữa; thị
13

×