Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại NHNTHN trong thời gian ngắn nhất đồng thời đạt hiệu quả cao nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.35 KB, 85 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi đổi mới nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đất nước ta đã có sự đổi mới sâu
sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Mấy năm gần đây, lĩnh vực
tiền tệ - ngân hàng và thị trường tài chính đã trở nên một trong những lĩnh vực
kích thích nhất của nền kinh tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, TTCK
mới ở giai đoạn sơ khai, các doanh nghiệp còn chưa quen với việc huy động
vốn qua TTCK mà vẫn dựa chủ yếu vào nguồn vốn của ngân hàng. Vì vậy tín
dụng là nghiệp vụ truyền thống đem lại khoảng 80% thu nhập cho các NHTM
ở nước ta hiện nay (trong khi thế giới chỉ là 20%, 80% thu nhập còn lại là từ
các hoạt động dịch vụ). Nhu cầu tín dụng gia tăng đòi hỏi các NHTM phải có
một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng. Các nguồn ngắn hạn với đặc điểm thời gian
quay vòng vốn nhanh, ngân hàng có nhiều cách để huy động như từ các khoản
tiền gửi ngắn hạn của dân cư, tổ chức kinh tế xã hội, chứng chỉ tiền gửi ngắn
hạn, vay trên thị trường liên ngân hàng … thậm chí có thể lấy từ nguồn dài
hạn nếu cân bằng được chi phí huy động và lãi suất cho vay. Đối với nguồn
trung và dài hạn, do đặc điểm thời gian quay vòng vốn lớn (từ 1 năm trở lên),
các NHTM gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động. Các hình thức mà
hiện nay các NHTM đang tiến hành như huy động từ nguồn vốn tự có, tiền
gửi tiết kiệm trung và dài hạn, phát hành trái phiếu trung và dài hạn, phát
hành cổ phiếu (đối với NHTM cổ phần). Cũng như các NHTM làm thế nào để
huy động vốn có hiệu quả là một vấn đề bức xúc đặt ra đối với NHNTHN
hiện nay. Cùng với những kiến thức đã được học trong suốt 4 năm qua tại
trường em đã chọn đề tài này cho luận văn tốt nghiệp mong có thể đóng góp ý
kiến nhỏ bé của mình vào vấn đề không chỉ các NHTM mà cả xã hội đang
quan tâm.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
1
Luận văn tốt nghiệp


Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đánh giá kết quả huy động vốn, rút
ra nguyên nhân hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường huy động vốn tại NHNTHN trong thời gian ngắn nhất đồng thời đạt
hiệu quả cao nhất.
Nội dung luận văn gồm 3 phần:
Chương 1: Huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại
NHNTHN
Trong quá trình thực tập và làm luận văn em đã được sự hướng dẫn tận
tình của thầy Trần Đăng Khâm, các thầy cô trong Khoa và sự giúp đỡ nhiệt
tình của các anh chị nơi thực tập đặc biệt là các anh chị ở phòng Quan hệ
khách hàng. Mặc dù đã hoàn thành nhưng luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót,
em mong sự chỉ bảo của thầy cô và các anh chị nơi thực tập để đề tài của em
được hoàn thiện hơn.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
2
Luận văn tốt nghiệp
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
CHƯƠNG 1: HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1.1. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của NHTM
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
3
Luận văn tốt nghiệp
Khái niệm:
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Việc lưu hành đồng tiền riêng của mỗi quốc
gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu
cầu đúc tiền, đổi tiền. Các ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền, đúc tiền

gọi là ngân hàng thợ vàng. Người làm nghề đổi tiền thường giàu, trước đó đã
có thể làm nghề cho vay nặng lãi, giờ thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ
để để tăng khả năng đa dạng hoá các loại tiền, tăng thu nhập và tăng quy mô
tài sản. Đây cũng là điều kiện để dịch vụ thanh toán của ngân hàng ra đời.
Thực tiễn hoạt động các ngân hàng thường xuyên có người gửi tiền vào và rút
tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút ra cùng lúc đã tạo ra số dư thường
xuyên ở trong két. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể tạm
thời sử dụng một phần tiền gửi để cho vay. Do các tổ chức, các cá nhân kinh
doanh đều muốn mở rộng sản xuất, muốn tăng khả năng cạnh tranh, còn
người tiêu dùng đời sống ngày càng được nâng lên, nhu cầu mua sắm tăng
nhưng trong một số trường hợp năng lực tài chính của họ chưa cho phép, do
đó nhu cầu vay ngày càng gia tăng. Hoạt động cho vay đã tạo lợi nhuận khá
lớn cho ngân hàng. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động
ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Ngân hàng bao gồm nhiều loại
tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính
nói riêng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong
ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai
trò quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra ngân hàng quốc
doanh, các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh
trong những năm cuối thế kỉ 20. Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động,
các ngân hàng bao gồm:
- Ngân hàng thương mại
- Ngân hàng đầu tư và phát triển
- Ngân hàng tiết kiệm
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
4
Luận văn tốt nghiệp
- Ngân hàng chính sách
- Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng và các loại hình doanh nghiệp
Mỗi loại hình ngân hàng có đặc thù riêng nhưng xét trên phương diện

những loại hình dịch vụ mà họ kinh doanh có thể nói rằng ngân hàng là tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất so
với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Từ chỗ chỉ cho vay
ngắn hạn là chủ yếu, các NHTM đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho
vay đầu tư bất động sản, cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho
thuê. Các hình thức vay cũng được mở rộng như vay NHTƯ, vay các ngân
hàng khác, phát hành trái phiếu … thay vì chỉ nhận tiền gửi như trước đây.
Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của
ngân hàng, rõ nét nhất là việc thanh toán điện tử đang dần thay thế thanh toán
thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện an toàn trong thanh toán. Các loại
thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, ngân hàng tại
nhà đang tạo ra tiện ích ngày càng lớn cho cộng đồng.
Trong hệ thống tài chính trung gian, NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng. Theo nghĩa hẹp, " NHTM là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là
nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, làm
nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ". Định nghĩa này dựa
trên cơ sở đặc trưng hoạt động ngân hàng đó là nghiệp vụ tín dụng. Tuy nhiên
ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật công nghệ, sự cạnh
tranh, các ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc cung cấp các dịch vụ truyền
thống mà đang đua nhau mở rộng các dịch vụ mới chất lượng cao nên theo
nghĩa rộng : " NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế ".
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
5
Luận văn tốt nghiệp
Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc
chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Các hoạt động ngân

hàng xuyên quốc gia, đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành hiệp hội, tổ
chức liên kết nhằm tạo ra các chính sách, hoặc tương thích để kiểm soát, kết
nối, tạo sự thống nhất chung trong điều hành, vận hành hệ thống ngân hàng
của mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Đặc điểm :
Thứ nhất lĩnh vực chủ yếu của NHTM là tài trợ cho các hoạt động liên
quan đến thương mại, thực hiện kinh doanh với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận.
Mặc dù giờ đây các ngân hàng đều chuyển sang mô hình ngân hàng đa năng
nhưng nó vẫn mang những đặc trưng khác nhau về đối tượng và thị phần các
lĩnh vực tài trợ so với ngân hàng đầu tư (chủ yếu là tài trợ cho lĩnh vực đầu tư
phát triển), ngân hàng chính sách (thông qua hoạt động và dịch vụ ngân hàng
để thực hiện một chính sách kinh tế xã hội nào đó của nhà nước mà không vì
mục tiêu lợi nhuận), ngân hàng tiết kiệm (chủ yếu phục vụ cho việc tiết kiệm
của cá nhân tổ chức), hay ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng (là tổ chức kinh
doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng do các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình
tự nguyện thành lập với mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau cùng phát
triển trong kinh doanh.
Thứ hai với vai trò trung gian tài chính cho thấy đặc điểm của các
NHTM là tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh cao hơn so với bất kì tổ chức
nào trong nền kinh tế. Ngân hàng hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành
đầu tư, góp phần vào tập trung, phân phối vốn có hiệu quả. Trong nền kinh tế
xuất hiện các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu (chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập, họ cần bổ sung vốn, đồng thời cũng có
những cá nhân thặng dư trong tiêu dùng (thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các
khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ) họ có tiền để tiết kiệm. Để cả hai cùng
có lợi tất yếu sẽ nảy sinh mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm nghĩa là tiền sẽ
được chuyển từ người có thặng dư sang người có thâm hụt. Tuy nhiên mối
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
6
Luận văn tốt nghiệp

quan hệ tài chính giữa hai nhóm bị giới hạn do sự không phù hợp về qui mô
thời gian không gian, từ đó đòi hỏi phải có các trung gian giàu chuyên môn
kinh nghiệm đứng ra cung cấp các dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu cụ thể
của từng cá nhân, tổ chức. Ngân hàng chính là một tổ chức thu hút tiết kiệm
lớn nhất đồng thời cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Ngân hàng đóng vai trò là
thủ quỹ cho toàn xã hội. Thực tế ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho
vay rủi ro trong khi lại phát hành chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền
nghĩa là đã tham gia vào kinh doanh phi rủi ro. Như vậy là một trung gian tài
chính, ngân hàng đã tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích
tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn cho người đầu tư nghĩa là khuyến khích đầu
tư.
Thứ ba cùng với sự phát triển của cả hệ thống, các ngân hàng là tổ chức
tạo ra phương tiện thanh toán. Các ngân hàng thợ vàng tạo ra phương tiện
thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng, dần dần giấy nhận nợ
đó đã thay thế tiền kim loại trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi
nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu đồng tiền quốc gia duy nhất dẫn đến việc
nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ
tài chính hoặc là NHTƯ, ch ấm d ứt việc các NHTM tạo ra các giấy bạc của
mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua hệ thống ngân hàng, các
khách hàng nhận thấy họ có số dư tiền gửi thanh toán có thể dùng để chi trả
cho các hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để
thanh toán hàng hoá dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo
ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương
tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử
dụng khoản tiền vay để chi trả sẽ tạo nên các khoản thu tức là làm tăng số dư
tiền gửi của một khách hàng tại một ngân hàng khác từ đó tạo các khoản cho
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44

7
Luận văn tốt nghiệp
vay mới. Trong khi không một ngân hàng nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ
dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo
phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
So với các tổ chức tài chính khác, NHTM còn là trung gian thanh toán lớn
nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng sẽ
thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ. Các NHTM đã đưa ra nhiều
hình thức như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng
các loại thẻ … cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và
cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn tiến hành bù trừ
với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh
toán. Công nghệ ngân hàng được mở rộng về cả chiều rộng lẫn chiều sâu,
nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo ra tính thống nhất
trong thanh toán.
Cuối cùng NHTM bị sự điều hành của chính phủ chặt chẽ hơn so với
bất kì tổ chức nào trong nền kinh tế. Mỗi ngân hàng muốn được cấp giấy phép
hoạt động phải đáp ứng yêu cầu có một lượng vốn ban đầu đủ lớn, cam kết
thực hiện một số chính sách nhất định như cho vay, tài trợ cho một dự án hay
một khoản chi tiêu nào đó đồng thời trong quá trình hoạt động ngân hàng chịu
sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Ngân hàng còn là chỗ dựa quan trọng của
Chính phủ để thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính sách tiền
tệ, vì vậy là công cụ kinh tế quan trọng của Chính phủ nhằm phát triển nền
kinh tế bền vững.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM
NHTM là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ tài chính cho công
chúng và các tổ chức trong nền kinh tế. Bắt đầu từ nghiệp vụ đổi tiền, đúc
tiền, cho vay nặng lãi, cất trữ hộ gọi là những người kinh doanh ngoại tệ rồi
nảy sinh dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, qua thời gian hoạt động
ngân hàng đến nay đã có nhiều đổi thay. Sự phát triển của nền kinh tế, điều

kiện cạnh tranh gay gắt buộc các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển phải
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
8
Luận văn tốt nghiệp
tăng cường các dịch vụ, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của khách hàng. Các
hoạt động cơ bản hiện nay của ngân hàng bao gồm:
 Huy động vốn
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, vốn là nguyên liệu đầu
vào cho các hoạt động của ngân hàng. Vì vậy ngoài vốn chủ sở hữu của mình,
ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ các nguồn trong nền kinh tế.
- Nhận tiền gửi
Tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng
huy động được. Một trong những nguồn quan trọng là tiền gửi thanh toán và
tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Nguồn vốn là cơ sở cho mọi hoạt động của
ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay, cho vay là hoạt động đem lại thu
nhập chính vì vậy các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được nguồn
tiền ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với
cam kết hoàn trả đúng hạn. Các ngân hàng đã phải trả lãi cho tiền gửi như là
phần thưởng cho khách hàng về việc họ sẵn sàng hi sinh nhu cầu chi tiêu
trước mắt để ngân hàng tạm thời sử dụng chúng trong một thời gian nhất định
cho việc kinh doanh. Ngoài công cụ lãi suất được ngân hàng đưa ra nhằm thu
hút nguồn tiền gửi còn có các hình thức khuyến khích vật chất khác như có
quà tặng, khuyến mãi phiếu tham dự quay số trúng thưởng, nới lỏng các điều
kiện rút tiền hay linh hoạt khi đưa ra các chu kì nhận lãi…
- Ngoài ra để huy động vốn các ngân hàng còn tiến hành các nghiệp vụ
khác khi cần thiết để giải quyết nhu cầu vốn cấp bách trong chi trả như đi vay
ngân hàng trung ương, vay trên thị trường vốn…
 Sử dụng vốn
Đây là các hoạt động dùng vốn để hình thành tài sản của ngân hàng, là
cơ sở tạo nên thu nhập, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Ngân hàng dùng nguồn vốn để cho vay, thanh toán và tiến hành nhiều dịch vụ
khác.
• Nghiệp vụ ngân quỹ
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
9
Luận văn tốt nghiệp
Ngân quỹ là tài sản có tính thanh khoản cao nhất được thiết lập để duy
trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Ngân quỹ gồm: tiền mặt
trong két, tiền gửi tại các ngân hàng khác (NHNN, ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác). NHTM phải thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của
NHNN. Mức dự trữ bắt buộc được xác định dựa trên nguồn vốn huy động
trong kì tính và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể (tỷ lệ này thay đổi tuỳ theo thời kì
khác nhau, các nguồn khác nhau). Ngân quỹ của ngân hàng là tài sản không
sinh lời hoặc sinh lời rất thấp song lại có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng
nhu cầu chi trả thường xuyên. Do đó mỗi ngân hàng đều cố gắng duy trì ngân
quỹ ở mức thấp nhất có thể được mà vẫn đáp ứng khả năng chi trả, thanh toán
khi khách hàng yêu cầu.
• Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng, nó vừa giúp ngân hàng
mở rộng tín dụng, tăng lợi nhuận, vừa giúp cho các đơn vị có đủ nguồn vốn
để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay đối với hầu
hết các ngân hàng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu, được quan tâm mở rộng
trong khi về cơ bản hệ thống các dịch vụ ngân hàng thì đơn điệu về chủng
loại, chất lượng dịch vụ thấp còn xu hướng thế giới và ở các nước phát triển
họ quan tâm nhiều đến việc phát triển các dịch vụ tài chính. Các hình thức
cho vay chủ yếu của NHTM :
- Cho vay thương mại: Hình thức cho vay thương mại đầu tiên là chiết
khấu thương phiếu. Thực tế đây là hoạt động cho vay đối với người bán,
người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước sau đó
ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua, giúp họ có

vốn để mua hàng hoá dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: Ở thời kì đầu, ngân hàng thợ vàng là những người
cho vay nặng lãi, thực hiện cho vay đối với cá nhân chủ yếu là những người
giàu có phục vụ mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự sụp đổ của hệ thống ngân
hàng này sau đó đã khiến cho các NHTM giai đoạn sau không còn tích cực
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
10
Luận văn tốt nghiệp
cho vay tiêu dùng bởi họ tin rằng khả năng vỡ nợ tương đối cao. Nhưng rồi sự
gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và cạnh tranh, các ngân hàng đã hướng
tới người tiêu dùng như là khách hàng tiềm năng. Giờ đây tín dụng tiêu dùng
là một trong những loại hình tín dụng đem lại thu nhập khá cao và cũng là
lĩnh vực được ngân hàng quan tâm khai thác mở rộng.
- Cho vay theo dự án: Cho vay theo dự án là một trong những tài trợ
cho dự án đã được xây dựng trước, trong đó việc cho vay được tiến hành trên
một văn bản hoàn chỉnh về việc cho vay và trả nợ đã được nghiên cứu, soạn
thảo, được kí kết giữa các chủ dự án và ngân hàng, đồng thời dựa trên các căn
cứ khoa học kĩ thuật, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của nhà nước.
Nhu cầu vốn gia tăng, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong
tài trợ vốn trung và dài hạn như việc tài trợ để xây dựng nhà máy mới, phát
triển các ngành công nghệ cao có triển vọng, một số ngân hàng còn cho vay
để đầu tư vào bất động sản.
- Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ cho thuê thiết bị trung và
dài hạn (leasing). Ngân hàng mua các thiết bị và cho khách hàng thuê với điều
kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị tài sản cho thuê và
cuối kì thuê khách hàng có thể mua lại. Cho thuê của ngân hàng có nhiều
điểm giống với cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
11
Luận văn tốt nghiệp

• Đầu tư
Cũng như nhiều tổ chức tài chính khác ngân hàng cũng giành một phần
vốn của mình thực hiện hoạt động đầu tư. Đầu tư là hoạt động trong đó ngân
hàng đem nguồn vốn của mình trực tiếp tham gia vào kinh doanh một lĩnh
vực nào đó, nó khác với việc ngân hàng cho vay bởi vì khi đầu tư ngân hàng
thực sự thâm nhập vào hoạt động kinh doanh, bị ảnh hưởng trực tiếp đối với
việc lỗ lãi của hoạt động đầu tư theo nguyên tắc " được cùng hưởng, thua
cùng chịu ". Các hình thức đầu tư của ngân hàng như kinh doanh chứng
khoán, góp vốn liên doanh, đầu tư trực tiếp hình thành nên các tập đoàn công
nghiệp ngân hàng. Ở Việt Nam, hầu hết các ngân hàng còn ở qui mô nhỏ, các
hình thức đầu tư của ngân hàng chỉ ở mức độ đơn giản, chủ yếu hiện nay là
việc ngân hàng tham gia vào đầu tư chứng khoán vì có khả năng quay vòng
vốn nhanh hơn cả và ưu thế về nguồn vốn so với các tổ chức và cá nhân khác.
Ưu điểm của hoạt động đầu tư là ngân hàng có thể thâm nhập trực tiếp giám
sát quá trình kinh doanh, nắm bắt nhanh chóng, chính xác các thông tin để kịp
thời có các biện pháp khi thấy dấu hiệu kinh doanh không tốt, giúp giảm rủi
ro cho nguồn vốn. Tuy nhiên để thực hiện được hoạt động đầu tư, ngân hàng
phai có lượng vốn lớn, ổn định trong lâu dài.
• Các hoạt động sử dụng vốn khác
Các hoạt động tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao, cung cấp
các thông tin đánh giá kinh tế, quảng bá danh tiếng, mở rộng quan hệ, đặc biệt
là quan hệ tín dụng…
 Cung cấp các dịch vụ
Theo xu hướng hiện đại, các ngân hàng ngày càng mở rộng hoạt động
dịch vụ của mình, không chỉ giúp gia tăng thu nhập của ngân hàng mà còn
giúp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tiết kiệm thời gian, của cải cho xã
hội. Các chuyên gia ngân hàng đánh giá rằng thu về dịch vụ thanh toán, kinh
doanh ngoại hối, đầu tư, đặc biệt là dịch vụ tài chính phi ngân hàng như
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
12

Luận văn tốt nghiệp
chứng khoán, tư vấn tài chính, mua bán nợ của các NHTM Việt Nam … còn
rất thấp.
 Dịch vụ bảo quản tài sản hộ (còn gọi là dịch vụ cho thuê
két)
Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ hộ những tài sản tài chính, bảo quản
vàng, các giấy tờ có giá, các tài sản và giấy tờ quan trọng khác cho khách
hàng trong két với nguyên tắc bí mật, an toàn, thuận tiện. Dịch vụ này phát
triển cùng các dịch vụ khác như mua bán các giấy tờ có giá cho khách hàng,
thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
 Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Do có kinh nghiệm quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân,
nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong
đó ngân hàng đồng ý quản lý thu chi và tiến hành đầu tư phần tiền mặt tạm
thời nhàn rỗi vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Cũng từ dịch vụ này các ngân hàng có
mối liên hệ chặt chẽ với khách hàng, tăng cơ hội cho vay, đồng thời giảm rủi
ro cho khoản vay.
 Dịch vụ bảo lãnh
Do khả năng nắm giữ tiền, thanh toán hộ cho khách hàng cho rất lớn
nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn các tổ chức tín dụng khác…Gần đây nghiệp vụ bảo lãnh của
ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.
 Dịch vụ uỷ thác
Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, vì vậy
nhiều cá nhân, doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt
động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác đã phát triển sang cả uỷ thác cho vay hộ,
vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… thậm chí ngân hàng còn đóng vai
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44

13
Luận văn tốt nghiệp
trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố các tài sản, bảo quản các tài sản có giá.
 Dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán
Các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho
khách hàng cơ hội đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán khác.
Trong một vài trường hợp các ngân hàng lớn còn tổ chức riêng công ty chứng
khoán và công ty môi giới chứng khoán hoạt động bài bản với quy mô lớn.
Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn ở những bước chập
chững ban đầu, các nhà đầu tư còn chưa có nhiều hiểu biết về lĩnh vực này thì
các hoạt động tư vấn, môi giới là rất cần thiết. Đây cũng cơ hội kinh doanh
của ngân hàng.
 Dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế
hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên
doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức ra các công ty bảo hiểm con (công
ty trực thuộc ngân hàng). Các hình thức bảo hiểm phổ biến hiện nay là gắn
bảo hiểm với tiết kiệm như: tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
 Dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi nên các ngân hàng khác (thường là các
ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh
toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm đầu mối trong đồng tài trợ.
 Dịch vụ thông tin tư vấn
Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng đã
tạo cho nó lợi thế hơn hẳn trong việc cung cấp cho khách hàng những lời
khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về mọi lĩnh vực mà khách hàng
yêu cầu, qua đó giúp khách hàng giảm thấp thiệt hại và nâng cao mức lợi

nhuận. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như chuyên gia tư vấn tài chính
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
14
Luận văn tốt nghiệp
cho họ. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, về thành lập,
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng không
những thu được phí của khách hàng mà còn mở rộng quan hệ, nắm bắt chính
xác tình hình kinh doanh của họ giúp cho việc ra quyết định cho vay mà còn
củng cố, tăng cường vị trí, uy tín của ngân hàng một cách nhanh chóng.
 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực
hiện lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, Người gửi tiền không cần phải đến ngân
hàng để lấy tiền mà chỉ việc viết phiếu chi trả, khách hàng của họ mang giấy
đến ngân hàng sẽ lấy được tiền. Thanh toán bằng tiền mặt tạo sự nhanh chóng
chính xác, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập
cho khách hàng. Khi ngân hàng mở rộng phạm vi thanh toán, tiện ích tạo ra
ngày càng nhiều khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nhờ thanh
toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các hình
thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng L/C đã phát
triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…
Để bắt kịp xu thế hiện đại, các ngân hàng đang tích cực nâng cấp về cả
số lượng và chất lượng hoạt động, triển khai các dịch vụ mới cả ngân hàng và
phi ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng.
1.1.3. Vai trò của vốn trung và dài hạn trong hoạt động của NHTM
1.1.3.1. Vai trò của vốn nói chung
Vốn luôn là bài toán khó của mọi tổ chức kinh doanh. Là một doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, vốn có vai trò cực kỳ quan trọng đối
với ngân hàng.
Thứ nhất vốn là cơ sở ban đầu để các NHTM tiến hành hoạt động kinh doanh.

Như mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn được phép hoạt động
phải có lượng vốn ban đầu gọi là vốn pháp định. Vốn pháp định là số vốn cần
thiết tối thiểu để thành lập ngân hàng do luật pháp quy định. Mức vốn pháp
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
15
Luận văn tốt nghiệp
định cho mỗi ngân hàng tuỳ thuộc vào quy mô và khả năng của chủ sở hữu
ngân hàng. Vốn điều lệ là vốn được ghi vào trong điều lệ hoạt động, thuộc sở
hữu ngân hàng, ngân hàng toàn quyền sử dụng. Trong một chừng mực nào đó
thì vốn pháp định có thể được hiểu như vốn điều lệ, nhưng trên thực tế vốn
điều lệ phải luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định đồng thời được ghi vào
điều lệ hoạt động của ngân hàng. Vốn điều lệ có vị trí quan trọng trong hoạt
động và thể hiện quy mô ngân hàng. Quy mô ngân hàng lớn là một lợi thế
ngay từ đầu để tạo gây sự chú ý, tạo dựng niềm tin đối với khách hàng. Một
mặt vốn điều lệ là căn cứ pháp lý để thành lập ngân hàng, mặt khác việc tăng
vốn điều lệ theo từng thời kì còn thể hiện năng lực và xu thế phát triển của
mỗi ngân hàng. Tuy vốn điều lệ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
huy động nhưng mang tính ổn định, vững chắc cao, có thể thay đổi theo từng
thời kỳ căn cứ vào hoạt động của ngân hàng đồng thời nó có vai trò quan
trọng bổ sung vào nguồn trung và dài hạn với chi phí rẻ, tức là ngân hàng
không phải trã lãi cho việc huy động mà chỉ mất chi phí để duy trì.
Thứ hai vốn quyết định khả năng cho vay và thực hiện các hoạt động
của ngân hàng. Có vốn nhiều ngân hàng mới có thể tăng cường cho vay đặc
biệt là đối với những khách hàng lớn, ngược lại nếu nguồn vốn hạn hẹp, ngân
hàng sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để tạo lợi nhuận. Khả năng cho vay là cơ sở để
khách hàng đánh giá qui mô, tiềm năng và mức độ uy tín của ngân hàng. Một
ngân hàng mà khả năng cho vay kém đồng nghĩa với việc qui mô ngân hàng
nhỏ, mức độ uy tín không cao, khách hàng sẽ cảm thấy không yên tâm khi gửi
tiền cũng như sử dụng các dịch vụ khác. Tất cả các hoạt động của ngân hàng
đều có mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt chẽ thúc đẩy nhau cùng phát triển.

Ngân hàng phải quan tâm phát triển đồng đều tất cả các mặt, cân đối giữa huy
động vốn và sử dụng vốn tránh rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Nguồn vốn không chỉ quyết định khả năng cho vay mà còn ảnh hưởng đến
việc thực hiện các hoạt động khác của ngân hàng như hoạt động thanh toán,
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
16
Luận văn tốt nghiệp
đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
Thứ ba vốn là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Người xưa có câu: " Buôn tài không bằng dài vốn ". Muốn thắng trong cạnh
tranh ngân hàng không thể không có một nguồn vốn ổn định và vững mạnh.
Khi đời sống con người tăng lên, mức độ đòi hỏi đối với các hoạt động dịch
vụ cũng tăng lên về cả số lượng và chất lượng. Các ngân hàng thành công
luôn biết nắm bắt cơ hội kinh doanh, xác định đúng nhu cầu thị trường, có sự
đầu tư chiều sâu. Nhưng để làm được điều đó một trong những yếu tố quan
trọng là vốn. Ngân hàng muốn đổi mới trang thiết bị máy móc, áp dụng công
nghệ ngân hàng, hiện đại hoá các dịch vụ cung cấp cho khách hàng, mở rộng
chi nhánh, mở rộng quan hệ, tăng cường tham gia tài trợ các hoạt động xã hội
để quảng bá danh tiếng … tất cả đều cần phải có vốn. Sự cộng hưởng ở đây là
khi đã có được uy tín nhất định ngân hàng cũng dễ dàng thành công trong
việc triển khai các loại hình dịch vụ mới. Đó là nguồn gốc của tăng tiềm lực
vốn bởi tăng lợi nhuận là cơ sở để tăng vốn.
Cuối cùng nguồn vốn còn làm tăng khả năng đóng góp của ngân hàng
cho nền kinh tế. NHTM là trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, cùng với các trung gian khác tài chính khác
đóng vai trò tập trung phân phối vốn trong nền kinh tế. Có thể nói rằng không
một công ty nào hoạt động tốt mà hoàn toàn không vay vốn ngân hàng hay sử
dụng tín dụng thương mại. Đối với các doanh nghiệp hiện nay nguồn vốn vay
ngân hàng vẫn là nguồn quan trọng nhất. Nền kinh tế tốt là nền kinh tế trong

đó đa số các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế hoạt động tốt, hiệu quả kinh
doanh cao. Ngân hàng có thể đáp ứng tốt các nhu cầu vốn giúp doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả chính là một sự đóng góp cho nền kinh tế vì doanh
nghiệp giống như tế bào của nền kinh tế.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
17
Luận văn tốt nghiệp
1.1.3.2. Vai trò của vốn trung và dài hạn
Thứ nhất vốn trung và dài hạn có vai trò quyết định khả năng cho
vay trung và dài hạn. Trước tiên vốn trung và dài hạn là nguồn chính để ngân
hàng có thể tiến hành cho vay trung và dài hạn. Trước kia, các ngân hàng chỉ
tập trung cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn không được chú ý. Do ngân hàng
quan niệm các khoản tín dụng trung và dài hạn có mức độ rủi ro cao. Nhưng
với tốc độ phát triển của nền kinh tế, những đòi hỏi về nguồn vốn trung và dài
hạn ngày càng nhiều, để có thể cạnh tranh tồn tại và phát triển ngân hàng
không thể không mở rộng các hoạt động huy động của mình. Cùng với sự
phát triển của khoa học kĩ thuật, trình độ ngày càng được nâng cao, các
chuyên gia ngân hàng ngày càng có kinh nghiệm hơn trong việc thẩm định để
ra các quyết định cho vay, làm cho tính rủi ro của các khoản cho vay trung và
dài hạn giảm đi. Thu nhập đem lại từ việc cho vay trung và dài hạn lớn hơn từ
ngắn hạn rất nhiều, hơn nữa nó lại ít chịu ảnh hưởng của những biến động
kinh tế hàng ngày so với việc cho vay ngắn hạn. Do các khoản cho vay ngắn
hạn không thể chuyển hoá hoàn toàn để cho vay trung và dài hạn mà bị giới
hạn trong một tỷ lệ nhất định nên chỉ các nguồn trung và dài hạn mới đáp ứng
được nhu cầu cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.
Thứ hai nguồn vốn trung và dài hạn là một phần khá quan trọng
giúp ngân hàng thực hiện cho vay ngắn hạn. Để đảm bảo khả năng thanh toán,
Ngân hàng phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng giữa thời hạn nguồn và tài sản,
hay sự cân bằng của huy động vốn và sử dụng vốn. Sự khác biệt về kỳ hạn
nguồn và tài sản là tất yếu nhưng nó có thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân

hàng . Để xác định kỳ hạn của nguồn và tài sản người ta dựa vào kỳ hạn thực
tế. Nguồn trung và dài hạn có thể dùng để cho vay ngắn hạn do người ta
chuyển hoán kỳ hạn của nguồn. Tỷ lệ cho phép chuyển từ nguồn ngắn hạn
sang trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn dể cho vay trung và dài hạn
do NHNN quy định là 25%. NHNN phải quy định tỷ lệ này để đảm bảo khả
năng thanh toán của NHTM. Tuy nhiên khi chuyển hoá từ nguồn trung và dài
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
18
Luận văn tốt nghiệp
hạn sang ngắn hạn thì lại không phải tuân theo tỷ lệ nào do thời hạn nguồn
ngắn hạn nhỏ hơn nguồn trung và dài hạn. Còn tỷ lệ chuyển hoá là bao nhiêu
tuỳ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng, tuỳ vào đòi hỏi cho
vay ngắn hạn đồng thời cũng phải tính đến chi phí huy động nguồn trung và
dài hạn với lãi suất cho vay ngắn hạn.
Thứ ba nguồn vốn trung và dài hạn còn là chỗ dựa để ngân hàng thực
hiện các hoạt động khác. Ngoài hoạt động tín dụng, các NHTM còn thực hiện
rất nhiều hoạt động khác. Giờ đây cạnh tranh giữa các ngân hàng chủ yếu là
cạnh tranh về dịch vụ. Các ngân hàng liên tiếp tung ra thị trường các loại hình
dịch vụ mới, áp dụng công nghệ cao. Các hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt đang ngày càng phát triển với nhiều loại thẻ có chất lượng cao. Để
đáp ứng nhu cầu phát triển của khoa học công nghệ, tạo ra nhiều tiện ích để
thu hút khách hàng, ngân hàng cần phải đầu tư mua các máy móc thiết bị, mở
rộng chi nhánh, tăng cường quảng bá sản phẩm trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Tất cả đều cần có sự hỗ trợ của nguồn vốn trung và dài hạn.
Thứ tư ngoài ra nguồn vốn trung và dài hạn la nguồn kém nhạy cảm nên
Ngân hàng không phải theo dõi một cách thường xuyên những thay đổi của
lãi suất và các biến động kinh tế khác ảnh hưởng đến chi phí huy động với
trung và dài hạn. Các tài sản và nguồn nhạy cảm là loại mà số dư nhanh
chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi, bao gồm loại
có kỳ hạn đặt lại giá nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng. Các tài sản và nguồn ngắn

hạn, tài sản và nguồn trung và dài hạn có thời gian đáo hạn nhỏ hơn hoặc
bằng 12 tháng, tài sản và nguồn có lãi suất thả nổi. Các loại nhạy cảm thuộc
về tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định có kỳ hạn đặt giá lớn
hơn 12 tháng. Do Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định đã tạo ra các tài sản và
nguồn kém nhạy cảm với lãi suất. Sự không phù hợp về kỳ hạn đặt giá của
nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
19
Luận văn tốt nghiệp
Để hạn chế rủi ro lãi suất, ngân hàng phải duy trì khe hở lãi suất càng
thấp càng tốt (gần như bằng 0). Đối với nguồn trung và dài hạn là nguồn nhạy
cảm, Ngân hàng ít phải quan tâm đến những biến động của nó do ảnh hưởng
của thay đổi lãi suất và các biến động khác trong khi đối với nguồn ngắn hạn
ngân hàng luôn phải theo dõi sát sao để duy trì khe hở lãi suất hợp lý. Tuy
nhiên sự thay đổi lãi suất theo các mức độ khác nhau cũng gây ra rủi ro lãi
suất cho dù độ lớn và dấu của khe hở lãi suất như thế nào.
Qua những phân tích trên có thể thấy được vai trò của vốn trung và dài
hạn đối với các hoạt động của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn trung và dài
hạn là một loại quan trọng nhất trong cơ cấu nguồn vốn, là cơ sở giúp cho mọi
hoạt động của Ngân hàng
1.2. Huy động vốn trung và dài hạn
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vốn của NHTM
Khái niệm
Khái niệm về vốn của NHTM bắt nguồn từ khái niệm về nguồn vốn nói
chung trong lịch sử kinh tế học. Ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử kinh tế học
người ta đã nói đến vốn, cùng với lao động, kỹ thuật là các yếu tố quan trọng
của quá trình kinh doanh tạo ra giá trị thặng dư.
Vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình, tài sản vô
hình, tài sản tài chính được đầu tư vào các hoạt động kinh tế xã hội, quốc

phòng, an ninh đối ngoại. Trong phạm vi một quốc gia, một xã hội, vốn là
toàn bộ tài sản tồn tại đến tất cả hình thái mà một xã hội, một đất nước có
được ở một thời điểm hay một thời kỳ nhất định, có thể chi phối và sử dụng
cho việc xây dựng, phát triển đất nước, hoạt động của doanh nghiệp và nhu
cầu của hộ gia đình.
Vốn của NHTM là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị tài sản hữu hình,
tài sản vô hình, tài sản tài chính mà ngân hàng có được bao gồm nguồn tự có
và nguồn huy động.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
20
Luận văn tốt nghiệp
Vốn trung và dài hạn của NHTM là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị
mà ngân hàng tạo lập đuợc bao gồm nguồn vốn tự có (ngân hàng có toàn
quyền sở hữu và sử dụng), nguồn vốn huy động với thời hạn từ 1 năm trở
lên (ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu).
Đặc điểm
Thứ nhất vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị của những tài sản,
đại diện cho một lượng giá trị thực của một tài sản. Tất cả mọi tài sản đều có
một giá trị nhất định. Để hình thành nên tài sản phải có sự chuyển đổi từ
nguồn vốn, dùng vốn để hình thành nên tài sản. Chính vì vậy nguồn vốn và tài
sản chỉ là hai mặt cùng phản ánh tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp. Đối với
ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mối liên hệ nguồn vốn và tài sản
là mối liên hệ giữa huy động và sử dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt
động của ngân hàng. Khi ngân hàng tiến hành huy động, đó chính là hoạt
động tạo nên nguồn vốn, hoặc dùng nguồn vốn đó để mua sắm các trang thiết
bị, máy móc, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng chi nhánh, thực hiện các
nghiệp vụ cho vay, đầu tư … đó chính là quá trình hình thành nên các tài sản
của ngân hàng. Như vậy tài sản biểu thị tiềm lực vốn của ngân hàng và quy
mô huy động càng tăng, tài sản càng tăng và ngược lại.
thứ hai đặc điểm quan trọng nhất là vốn vận động với mục đích sinh lời. Các

cá nhân tổ chức kinh tế một khi đã bỏ vốn ra kinh doanh chắc chắn là nhằm
mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, nghiệp vụ chủ yếu là tín dụng mà
nguyên tắc của nghiệp vụ này là dòng tiền di chuyển phải quay trở lại với một
lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín
dụng, nếu không thì đó là quan hệ cấp phát, hùn vốn. Đối với các doanh
nghiệp khác, vốn giúp họ hình thành nên các tài sản như nhà cửa, máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm sau đó đưa ra thị trường bán
và thu tiền về. Đó là toàn bộ quá trình vận động của vốn. Tất cả các hoạt động
mua sắm tài sản trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo sản
phẩm đều mang mục đích sinh lời cho đồng vốn. Ngân hàng dùng nguồn vốn
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
21
Luận văn tốt nghiệp
huy động được để mua máy móc, xây dựng trụ sở, đó là những tài sản cố định
không trực tiếp sinh lời nhưng nó là một phần để phát triển thị phần và thu
nhập cho ngân hàng bởi vì nhà cửa, máy móc hiện đại, mạng lưới chi nhánh
rộng thể hiện quy mô, uy tín đảm bảo ngân hàng sẽ đáp ứng tốt nhất cho
khách hàng, họ sẽ thu hút được khách hàng sử dụng các dịch vụ của mình.
Khi ngân hàng thực hiện cho vay, lãi vay chính là phần thể hiện khả năng sinh
lời của khoản vay và các hoạt động khác như đầu tư, kinh doanh ngoại tệ,
mua bán chứng khoán … đều là các hoạt động dùng vốn nhằm mục đích sinh
lời. Tài sản mang lại thu nhập chủ yếu, còn nguồn vốn lên quan tới chi phí
chủ yếu của ngân hàng, chi phí trả lãi. Quy mô huy động càng tăng, tài sản
càng tăng, khả năng sinh lời có thể càng lớn hoặc ngược lại. Nếu dùng chỉ
tiêu chênh lệch thu chi từ lãi (thu nhập từ lãi – chi phí trả lãi) để đo mối liên
hệ sinh lời giữa nguồn vốn và tài sản, thì sinh lời tăng khi lãi suất bình quân
của tài sản phải lớn hơn lãi suất bình quân của nguồn vốn hoặc lãi suất biên
của tài sản phải lớn hơn lãi suất biên của nguồn vốn. Điều này có nghĩa là
nguồn vốn và sự gia tăng nguồn vốn với quy mô và cấu trúc nhất định cần
được phân bổ cấu tạo thành các tài sản sinh lời thích hợp. Việc gia tăng cho

vay và đầu tư với mức rủi ro thấp nhất chính là điều kiện để gia tăng sinh lời.
Thứ ba vốn là hàng hoá phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Vốn
cũng được coi là một hàng hoá nên nó cũng có thị trường mua bán riêng đó là
thị trường tài chính. Trong thị trường tài chính những người có vốn tạm thời
nhàn rỗi (thu nhập > chi tiêu) nếu không trực tiếp sử dụng vốn để tạo ra thu
nhập những người này sẽ tiến hành chuyển quyền sử dụng sang cho những
người thiếu vốn, cần vốn để trực tiếp sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất
kinh doanh tạo ra lợi nhuận. Việc di chuyển vốn đầu tư thông qua việc mua
bán các công tụ tài chính trên thị trường tài chính làm nảy sinh hiện tượng
tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn Thị trường tài chính tạo
điều kiện cho người có cơ hội đầu tư, làm tăng khả năng sản xuất, giúp nâng
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
22
Luận văn tốt nghiệp
cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, trực tiếp cải thiện mức
sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm mua sắm tốt hơn.
Cuối cùng một khoản tiền phải đạt đến một lượng nhất định khi muốn
thực hiện một hoạt động kinh doanh nào đó mới được coi là nguồn vốn vì vậy
vốn còn có đặc điểm là phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất
định.
1.2.2. Các phương thức huy động vốn trung và dài hạn
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện tập trung và
phân phối lại vốn tiền tệ trong nền kinh tế, vì vậy công tác tổ chức các nguồn
vốn luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định
toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Mặt khác việc nghiên cứu các nguồn vốn
không chỉ có ý nghĩa đối với ngân hàng mà còn có ý nghĩa kinh tế quyết định
đối với việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp cũng như sự
vận động của mọi nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Trong công tác tổ chức
nguồn vốn, huy động vốn là một hoạt động quan trọng đặc biệt là hoạt động
huy động vốn trung và dài hạn luôn được các NHTM đặc biệt chú ý mở rộng.

So với các trung gian tài chính khác, NHTM có nhiều ưu thế trong hoạt động
huy động vốn nhất là vốn trung và dài hạn đồng thời cũng là tổ chức có nhiều
hình thức huy động nhất.
• Vốn chủ sở hữu:
Là vốn tự có thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, phục vụ cho các hoạt
động của gân hàng bao gồm
 Nguồn vốn hình thành ban đầu
Để bắt đầu hoạt động chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.
Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài hình thành nên trang thiết bị,
nhà cửa cho ngân hàng.
- Vốn pháp định: Là số vốn cần thiết tối thiểu pháp luật quy định để
thành lập ngân hàng, quy mô vốn vốn pháp định do khả năng của các chủ sở
hữu ngân hàng.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
23
Luận văn tốt nghiệp
- Vốn điều lệ: Là số vốn thuộc sở hữu ngân hàng, ngân hàng có toàn
quyền sử dụng và định đoạt. Trong một chừng mực nhất định thì vốn pháp
định cũng có thể hiểu như là vốn điều lệ, nhưng trên thực tế thì vốn điều lệ
phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định đồng thời đuợc ghi vào điều
lệ của ngân hàng.
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn
ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn do Nhà
nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông đóng góp, ngân hàng tư
nhân thì do vốn thuộc sở hữu tư nhân. Nguồn vốn hình thành ban đầu tuy
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, nhưng
mang tính ổn định, vững chắc đồng thời có thể thay đổi theo từng thời kỳ nhất
định căn cứ vào quy mô hoạt động của ngân hàng.
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Là số vốn do ngân hàng tạo ra từ kết quả kinh doanh tổng hợp và các

hoạt động khác. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn chủ theo
nhiều phương thức tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể và mục tiêu hoạt động
trong từng thời kỳ.
- Nguồn từ lợi nhuận: Ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ cũng như các tổ chức kinh doanh khác sẽ thu được lợi
nhuận. Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn 0, chủ ngân hàng có xu hướng
gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư.
Tỷ lệ chuyển tuỳ thuộc vào cân nhắc của từng chủ ngân hàng về tích luỹ và
tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn hơn, nguồn tích luỹ
từ lợi nhuận sẽ cao hơn so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô, đổi mới trang thiết bị đầu tư vào các dự án mới, đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn chủ do NHNN quy định… Đặc điểm của hình thức huy
động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng
vốn sở hữu lớn hơn vào lúc cần thiết.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
24
Luận văn tốt nghiệp
 Các quỹ
Theo tinh thần của các Pháp lệnh Ngân hàng và dự thảo luật Ngân hàng
thì mọi NHTM hoạt động ở Việt Nam đều phải thành lập các loại quỹ dự trữ
bao gồm: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và Quỹ dự trữ đặc biệt. Ngoài ra
còn một số quỹ khác tuỳ thuộc vào quy định của từng nước và yêu cầu của
từng ngân hàng khác nhau.
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là một phần thu được từ kết quả hoạt
động của ngân hàng, được trích lập hàng năm bằng 5% lợi nhuận ròng và với
mức tối đa do NHNN quy định.
- Quỹ dự trữ đặc biệt: Là bộ phận quỹ dùng để dự trữ phần bù đắp cho
các rủi ro trong quá trình hoạt động được trích lập hàng năm bằng 10% lợi
nhuận ròng và trích lập cho đến khi bằng mức vốn điều lệ.

Mỗi quỹ được thành lập đều có một mục đích riêng
- Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và được tích
luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của
lạm phát.
- Quỹ thặng dư: Là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh
lệch giữa thị giá và mênh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
- Các quỹ khác mang tính chất nội bộ như quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ giám đốc.
Các loại quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng mọi NHTM đều phải
mở tài khoản quản lý riêng theo quy định của NHNN. Việc sử dụng các loại
quỹ này phải được sự thông qua của Hội đồng quản trị là Đại hội cổ đông
(ngân hàng cổ phần) và được NHNN chấp nhận bằng văn bản. Nghiêm cấm
các NHTM sử dụng các loại quỹ đó để chia lãi cổ phẩn hoặc chuyển ra nước
ngoài. Tuy nhiên khi chưa trích dùng thì ngân hàng có thể sử dụng quỹ đó
làm nguồn vốn kinh doanh, nhưng phải đảm bảo cân đối, không được thâm
hụt.
SV: Phạm Ngọc Anh Lớp TTCK44
25

×