Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn của Rabindnarath Tagore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.72 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




TRẦN NGỌC THỦY TIÊN




SẮC MÀU HUYỀN THOẠI
TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA RABINDNARATH TAGORE



Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số : 60 22 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY










THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- 2010



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Cô giáo hướng dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thúy
Các thầy cô Tổ Văn học nước ngoài
Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Phòng sau Đại học và Công nghệ trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh
Gia đinh và bạn bè
đã tận tình giúp đỡ, góp ý để tôi hoàn thành luận văn này.

Quảng Nam, ngày 25 tháng 12 năm 2010
Người viết luận văn


Trần Ngọc Thủy Tiên
Lớp Cao học Văn học nước ngoài Khóa 17





LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng công bố ở các công
trình khác.
Người viết luận văn


Trần Ngọc Thủy Tiên
Lớp Cao học Văn học nước ngoài khóa 17



1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Rabindranath Tagore (1861- 1941) là một trong số không nhiều những người mà tên
tuổi của họ đã trở thành biểu tượng cho năng lực sáng tạo kì diệu của con người. Ông được xem
là một tổng hợp kì diệu của Ấn Độ từ Upanisad qua Kalidasa đến Ấn Độ phục hưng. Bà Indra
Gandhi, cố Thủ tướng Ấn Độ từng nói “ R.Tagore là cái mà ta gọi là văn hóa Ấn Độ”. Ông
được xem là một trong Tam vị nhất thể của Ấn Độ hiện đại (M. Gandhi, J.Neru, R.Tagore).
Đóng góp của Tagore cho tiến trình văn hóa, văn học Ấn Độ hết sức lớn lao. Với một tầm nhìn
sâu rộng, một năng lực sáng tạo đặc biệt, ông đã góp phần tạo nên một cuộc cách mạng trong
văn học Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XX, đưa văn học Ấn Độ hội nhập vào nền văn học hiện
đại, rút ngắn được khoảng cách giữa hai nền văn học Đông và Tây.
1.2 Trong nền văn học Ấn Độ, thiên tài Tagore lan tỏa khắp mọi nơi như ánh sáng mặt
trời. Tagore đã sáng tạo trên nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng khẳng định được tài
năng của mình. Ông vừa là nhà thơ, một tiểu thuyết gia, vừa là họa sĩ, nhạc sĩ, nhà tư tưởng, nhà
giáo dục. Sau hơn 70 năm sáng tạo, ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ: 52 tập
thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hơn 100 truyện ngắn, 2006 ca khúc và hàng ngàn bức họa.. Giải
Nobel văn học trao cho tập “Thơ Dâng” vào năm 1913 đã đưa ông lên vị trí người Châu Á đầu
tiên được trao tặng giải thưởng cao quý này. Với kiệt tác Thơ Dâng cùng sự nghiệp thơ ca,

Tagore là một phát hiện của thơ ca hiện đại, là “Kì công thứ hai củ a tạo hóa” sau Kalidasa (
Hoàng đế thơ Ấn Độ, sống dưới vương triều Gupta 320-350).
1.3 Với tài năng đã được khẳng định và giải Nobel cho “Thơ Dâng” năm 1913, Tagore
không chỉ là biểu tượng của thơ ca Ấn Độ mà còn là một ngôi sao sáng trên văn đàn Phục hưng
ở thể loại truyện ngắn. Tagroe là nhà văn mở đường đồng thời cũng là người có công đưa thể
loại này đến đỉnh cao bằng những sáng tác của mình. Thế giới truyện ngắn của ông phong phú,
đa dạng cả về đề tài lẫn cách thể hiện, nhưng đều thống nhất ở phong cách nghệ thuật độc đáo.
Đó là sự hài hòa giữa trữ tình và triết lí, tư duy và mơ mộng, hiện thực và huyền ảo…Đi vào tìm
hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn, chúng ta sẽ khám phá được bản lĩnh và khả năng sáng tạo
tuyệt vời của R.Tagore.
1.4 Khuynh hướng sử dụng huyền thoại trong văn học xuất hiện từ rất sớm. Những câu
chuyện thấm đẫm huyền thoại đã hướng người đọc cảm nhận về một thực tại huyền ảo, về vẻ
toàn bích của tâm hồn con người. Việc sử dụng yếu tố huyền thoại trong tác phẩm văn học như
một phương thức nghệ thuật của R. Tagore nói riêng, văn học thế giới nói chung đã tạo nên dấu
ấn thẩm mĩ trong tác phẩm.
Bút pháp huyền thoại cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào thế giới, tạo ra sự lạ hóa để thu
hút người đọc. Các tác phẩm ấy đã đem đến nhiều cảm xúc kì diệu về một hiện thực nghiệt ngã
và phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tưởng tượng.Vì vậy, tìm hiểu yếu tố huyền thoại
trong truyện ngắn của R.Tagore không chỉ để hiểu biết thấu đáo về biệt tài viết truyện ngắn của
ông mà còn là sự tiếp cận một khuynh hướng sáng tạo trong thể loại truyện ngắn của văn học
hiện đại Ấn Độ và thế giới.
1.5 R. Tagore được đề cập đến ở Việt Nam khá sớm. Từ năm 1924, thơ ông đã được
dịch và giới thiệu trên báo Nam Phong và đến nay, R.Tagore đã trở thành một tác giả trọng tâm
trong chương trình giảng dạy từ bậc phổ thông cho đến bậc cao đẳng, đại học. Và hình như các
độc giả cũng chỉ biết R.Tagore với tư cách là một nhà thơ. Như thế là một khiếm khuyết lớn.
Bên cạnh là một nhà thơ, ông còn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Từ thực tế này,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đặc điểm huyền thoại trong truyện ngắn của Tagore nhằm cung
cấp thêm tư liệu tham khảo để phần nào tháo gỡ những khó khăn trong việc tìm hiểu, nghiên
cứu về “ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng ”(J.Neru) ở Việt Nam, đồng thời mở rộng việc tiếp
nhận R.Tagore ở nghệ thuật viết truyện ngắn của ông.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Qua những tài liệu hiện có và bao quát được, chúng tôi nhận thấy lịch sử vấn đề nghiên
cứu về nghệ thuật truyện ngắn Tagore đã được chú ý từ lâu, thu hút được sự quan tâm, nghiên
cứu của không ít độc giả, giới nghiên cứu ở Ấn Độ và các nước phương Tây. Chúng tôi tạm
phân loại việc nghiên cứu dịch thuật, truyện ngắn Tagore theo ba mảng tư liệu: ở Ấn Độ,
phương Tây và ở Việt Nam.
Ở Ấn Độ: Các bài viết, các ý kiến của các nhà tư tưởng, nhà văn, nhà nghiên cứu của Ấn
Độ về thành tựu sáng tạo của Tagore được xem là những đánh giá quan trọng và đây cũng là
nguồn tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu Tagore và truyện ngắn của ông.
- Trong “Tagore, đề tài và tư tưởng”, Sankar Basu đã so sánh một số truyện ngắn của
Tagore với truyện ngắn của Chekhov ở mảng đề tài hiện thực (69. 56-89)
- Giáo sư phê bình người Bengal Promothonath Bishi đã viết: “ Không có một nhà văn
Bengal nào có thể tạo ra nhiều nét đặc sắc như Tagore đã làm đối với tác phẩm của mình
…không chỉ là từ việc điểm những con số, mà trong sự khác biệt ở những nét đặc sắc này là cả
một sự sáng tạo tuyệt vời” (67.76)
-
Trong bài “Truyện ngắn của Tagore”, Narayan Gongopadhay viết: “Ở thế kỷ XIX,
trong lĩnh vực văn chương thế giới, chúng ta đã tìm ra bốn cây bút truyện ngắn xuất sắc: Guy de
Maupassant, Anton Chekhov, Edgar Allan Poe and Rabindranath Tagore. Họ bắt đầu viết vì
một lý do như nhau, chỉ là để đáp ứng yêu cầu của những tạp chí khác nhau. Sự bắt đầu của một
kỷ nguyên mới đã đặt ra những hình thức mới về thể loại và những tạp chí này lại trở thành nền
tảng cho việc đáp ứng yêu cầu của thời đại” (66.183)
- Bhattacharya trong bài viết của mình đã đề cập đến những yếu tố siêu nhiên trong 10
truyện ngắn của Tagore.( 58. 67-82).Trong 10 truyện ngắn này, ông đã chỉ ra những yếu tố siêu
nhiên xuất hiện trong truyện ngắn của R.Tagore và điều đó đã tạo nên phong vị đặc biệt của các
câu chuyện. Đằng sau những yếu tố siêu nhiên đó, Tagore muốn đưa độc giả đến một tầm sâu
hơn về ý nghĩa xã hội, về mặt văn hóa. Ông muốn trình bày sự phản kháng của mình đối với
những thực tế đang tồn tại dựa trên sự tàn bạo, nhẫn tâm, vô nhân tính và phi lý của xã hội Ấn
Độ và khiến đôc giả nhìn sâu hơn vào thực tế đó
- Dr, Sukumar Sen cho rẳng “Tagore là nhà văn đầu tiên viết truyện ngắn thật sự bằng

tiếng Bengali(1891) và là nhà văn viết truyện ngắn hay nhất”( History of Bengali Literature-
Lịch sử văn học Begali (New Delhi, 1960), trang 310–11)

- Buddhadeva Bose nói: “Tagore đã mang truyện ngắn đến cho chúng ta thậm chí ngay
cả khi người ta hầu như còn chưa biết đến nó tại Anh”( An Acre of Green Grass, trang 2)
- Bhudev Chaudhuri khẳng định: “Truyện ngắn bằng tiếng Bengali đã có những mùa
hoa rực rỡ đầu tiên trong các tác phẩm của Tagore. Văn học hiện đại của Bengal đã bước một
kỷ nguyên mới với sự khởi đầu của thời kì Rabindnarath viết truyện ngắn” ( dẫn theo Dr
Sukumar Sen, History of Bengali Literature- Lịch sử văn học Begali (New Delhi, 1960), trang
310–11)

- Srikumar Banerjee, một giáo viên Văn học Bengali đã nhận xét “ Tagore ở giữa những
nhà văn Bengal - những người đầu tiên khám phá ra hình thức truyện ngắn: không có lời tựa, sự
vận động nhanh và có tính chất gợi mở tột bậc”

(“The Short Story,” Studies in the Bengal
Renaissance, được biên soạn bởi Atulchandra Gupta (Jadavpur, Nam Bengal, 1958), trang 337).
Ở phương Tây
- Năm 1976, ở bài viết “ Truyện ngắn của R.Tagore” in trong tập “ Rabindranath
Tagore” do nhà xuất bản Twayne (New York) phát hành, tác giả Mary.M.Lago cho rằng truyện
ngắn của Tagore được xem là những truyện ngắn hiện đại đầu tiên trong nền văn học Bengal và
ông nêu một vài chủ đề chính trong truyện ngắn của Tagore : sự tương phản giữa nông thôn và
thành thị (Rural Versus Urban), giáo dục như là sự giàu sang (education- as- wealth), chủ nghĩa
dân tộc và chính trị (Nationalism and Politics), phụ nữ và cộng đồng (women and community)
(65. 80-114)
- Mary. M. Lago khảo sát những vấn đề liên quan đến tình trạng khó xử và những chọn
lựa về đạo đức trong hai truyện ngắn “Punishment” (Trừng phạt)và “A lapse of Judgement”(Sự
phán quyết sai lầm) trong phạm vi lịch sử, chính trị và văn hóa Ấn Độ ( 64. 24-36)
- Lansing Evans Smith bàn về những yếu tố hoang đường trong Đá đói trong sự so sánh
với truyện ngắn của Hoffmann và Charlotte Perkins Gilman.(63. 227)

- Bài báo Indian Tales trong ấn phẩm “Times literary Supplement”(Tạp chí văn chương)
ở Luân Đôn ngày 18/04/1918 đã đưa ra những đánh giá về truyện Mashi và một số truyện ngắn
khác của Tagore (62. 183)
- Buckley đưa ra những nhận xét tích cực về truyện ngắn Đá đói (61, 6-7)
- Các nhà phê bình nhận xét kỹ năng viết truyện ngắn của Tagore (67. 149-150)
- Singh chỉ ra trong truyện Mashi có những đại diện Ấn Độ có ảnh hưởng không tốt đến
độc giả ở phía Nam.( 70. 20-21)

- Các tuyển tập được dịch ra tiếng Anh:
The Hungry Stone and Other Stories, New York, 1916.
Selected Short Stories: Rabindranath Tagore,The Oxford Tagore Translation (2000), ,
vol.1, edited by Sankanta Chaudhuri.
Hungry stones, Nxb Macmillan, London 1958;
Stories from R.Tagore, Nxb Macmillan, London 1958;
More stories from R.Tagore, Nxb Macmillan, London 1958
Với những tư liệu được thu thập, tìm thấy từ các trang viết ở nước ngoài, chúng tôi nhận
thấy rằng việc nghiên cứu về R.Tagore và truyện ngắn của ông được biết đến khá sớm song
chưa có bài viết cụ thể, chuyên sâu nào về sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn của
R.Tagore. Dẫu vậy, các bài nghiên cứu này sẽ là nguồn tư liệu cần thiết làm cơ sở để chúng tôi
triển khai đề tài của mình.
Ở Việt Nam
Giải Nobel văn học 1913 trao cho tập Thơ Dâng đã đặt R. Tagore vào một vị trí xác
định hơn trong nền văn học Ấn Độ và thơ ca thế kỷ XX. Và cũng từ đây , tên tuổi và tác phẩm
của ông được nói đến nhiều trên văn đàn thế giới, đặc biệt là ở phương Tây và Nga. Tuy nhiên,
trên thực tế, mọi sự chú ý của các dịch giả, các nhà nghiên cứu dường như đều tập trung vào
lĩnh vực thơ ca. Dựa trên những tài liệu bao quát được, chúng tôi nhận thấy, cho đến cuối thập
niên 50 của thế kỷ XX, truyện ngắn Tagore mới được dịch và giới thiệu ở nhiều nước Châu Âu
như Anh, Pháp, Nga Như vậy có thể thấy so với thơ, truyện ngắn của Tagore xuất hiện muộn
hơn nhiều thập kỷ.
Riêng ở Việt Nam, tên tuổi của R.Tagore lần đầu tiên được biết đến thông qua bài viết

“Bàn phiến về văn hóa phương Tây” của học giả Thượng Chi đăng trên báo Nam Phong số 84,
85 năm 1924. Trong bài viết của mình, tác giả ngợi ca Tagore như một đại diện siêu việt của
văn hóa phương Đông, người đang chủ trương hòa hợp hai nền văn hóa Đông- Tây. Và như đã
nói ở trên, các dịch giả, các nhà nghiên cứu Việt Nam phần lớn cũng đều tập trung vào lĩnh vực
thơ ca. Các công trình nghiên cứu về thơ ca rất phong phú và chuyên sâu, trong khi đó, trong
phạm vi mà chúng tôi bao quát được, các nghiên cứu về truyện ngắn lại không nhiều và cũng
chỉ dừng lại ở những bước khởi đầu.
- Trước hết phải kể đến công lao của Cao Huy Đỉnh và La Côn trong việc giới thiệu
truyện ngắn của R.Tagore đến với độc giả Việt Nam. Khi nhận xét về truyện ngắn Tagore , Cao
Huy Đỉnh cho rằng truyện ngắn của R.Tagore mang nhiều chất trữ tình và nó nói hộ triết lí và
tình cảm của nhà thơ bằng những hình ảnh thiên nhiên, bằng thần thoại, bằng biểu tượng và ngụ
ngôn nhiều hơn là sự việc rút từ thực tế đời sống. Cách viết của R.Tagore rất súc tích và cái tính
chất tập trung, logic và thống nhất cao độ trong truyện ngắn của ông chính là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa những ảnh hưởng của văn học phương Tây và văn học Ấn Độ. Và khi bàn về
nguồn gốc đề tài của truyện ngắn, ông tiếp tục nhận xét “ những truyện ngắn của ông có truyện
lấy đề tài trong thực tế, có truyện lấy đề tài trong thần thoại, cổ tích và lịch sử”( 17. 360). Ở
đây, Cao Huy Đỉnh đã đề cập đến vấn đề nguồn gốc của yếu tố huyền thoại trong truyện ngắn
của Tagore. Đây có thể xem là nhận xét có tính chất giới thiệu nhằm giúp độc giả tiếp cận với
truyện ngắn R.Tagore
- Tác giả Đào Anh Kha trong lời giới thiệu tập truyện ngắn “Mây và mặt trời” do nhà
xuất bản Văn học ấn hành năm 1986 có viết như sau: “Cách hư cấu của R.Tagore là cho hiện
thực lồng vào huyền thoại, là đúc kết những sự việc có thật trong xã hội rồi đem đặt bên cạnh
những yếu tố, những tư liệu rút từ thần thoại, cổ tích, dân ca và cả tôn giáo. Nhận xét này mang
tính gợi mở rất lớn về một đặc trưng trong nghệ thuật biểu hiện của Tagore.
- Tác giả Lưu Đức Trung có viết : “Truyện ngắn của Tagore rất đa dạng. Có truyện rất
ngắn chỉ mấy chục dòng, có truyện rất dài, kết cấu khá phức tạp, nhưng nói chung tính hiện
thực rất sâu sắc. Ông thường kết hợp tính chất huyền ảo và hiện thực trong truyện, khiến cho tác
phẩm có sức gợi cảm và hấp dẫn” ”( 49.151-152)
- Đỗ Thu Hà “cái siêu nhiên đã được Tagore sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để
tạo ra một tầng sâu hơn về mặt xã hội và tư tưởng cho câu chuyện, chuyển tải sự phản kháng

của nhà văn đối với trật tự xã hội đang tồn tại”( 18.156)
* Từ phần nghiên cứu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy rằng những công trình nghiên
cứu, giới thiệu về truyện ngắn của Tagore ở nước ngoài nghiêng về giới thiệu chung, đánh giá
tài năng viết truyện ngắn của Tagore. Các bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giá trị nội dung
và đặt truyện ngắn của Tagore trong sự so sánh với một số tác giả phương Tây. Các nhận xét
của các nhà nghiên cứu ở trong nước mới chỉ mang tính giới thiệu chung về việc kết hợp hiện
thực và huyền ảo, sử dụng yếu tố huyền thoại như một thủ pháp biểu hiện đặc trưng trong
truyện ngắn Tagore. Chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về yếu
tố huyền thoại trong truyện ngắn của Tagore. Trong phạm vi đề tài của luận văn Sắc màu huyền
thoại trong truyện ngắn R.Tagore, chúng tôi sẽ tiếp nhận những ý kiến, nhận xét đáng lưu tâm
có liên quan đến yếu tố huyền thoại từ nguồn tư liệu thu thập được để phục vụ cho quá trình
triển khai luận văn này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Theo mục đích yêu cầu của đề tài, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là yếu tố
huyền thoại trong truyện ngắn của R.Tagore
- Phạm vi nghiên cứu: 35/100 truyện ngắn được in trong “ R. Tagore- tuyển tập tác
phẩm” do Lưu Đức Trung tuyển chọn và giới thiệu, NXB Lao động, Hà Nội 2004 kết hợp đối
chiếu với bản dịch tiếng Anh “ The Hungry stones and Other stories”, New York, 1916 để tìm
ra những yếu tố ổn định, đáng tin cậy cho việc lý giải, phân tích yếu tố huyền thoại được sử
dụng trong các truyện ngắn
- Phạm vi nghiên cứu còn mở rộng ra ở một số truyện ngắn của Tagore bằng bản tiếng
Anh in trong tập “

The Hungry stones and Other stories”, New York, 1916; “Selected Short
stories of R.Tagore”, in Oxford Tagore Translation, 2000 và “Collection of Stories”,
Visvabharati Publiciation, Calcuta, 1945.
-Việc khảo sát còn mở rộng ở sự đối chiếu so sánh với các thể loại khác của Tagore;
truyện ngắn của các tác giả Việt Nam, Sekhov.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong công trình này, để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi vận dụng những phương pháp

sau:
Phê bình huyền thoại là một phương pháp nghiên cứu mà chúng tôi nhận thấy có hiệu
quả trong việc giải quyết vấn đề pháp nghiên cứu. Theo Gilbert Durand- nhà phê bình huyền
thoại tiêu biểu của thế kỉ XX, phê bình huyền thoại là sự phân tích văn bản để tìm ra những
“chuyện kể nằm bên dưới truyện kể” và “gắn liền với ý nghĩa của mọi chuyện kể”(15.3). Theo
Durand, phê bình huyên thoại là sự nghiên cứu trên tinh thần kết hợp giữa “một yếu tố văn hóa”
và một “tập hợp xã hội nhất định: và “việc xem xét các tác phẩm theo phê bình huyền thoại” sẽ
cho chúng ta biết về “linh hồn cá nhân hay tập thể” . Có thể nói trong truyện ngắn R.Tagore,
huyền thọai là chất liệu không thể thiếu để chuyển tải ý nghĩa của tác phẩm dù cho đó là những
câu chuyện mang đậm tính thời sự.
Phương pháp phân tích và so sánh theo loại hình cũng được sử dụng vì đối tượng khảo
sát của luận án là truyện ngắn.
Phương pháp thống kê- phân loại được sử dụng trong việc khảo sát văn bản giúp người
người viết luận văn có thể thống kê, phân loại một cách hệ thống để có thể đạt được hiệu quả tốt
nhất
Phương pháp trực giác: phương pháp này vốn được các nhà phê bình - lí luận sử dụng
trong việc cảm thụ văn chương, dựa vào trực giác tinh tế để cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác
phẩm
Ngày nay trong hoạ t động nghiên cứu khoa học, việc xác định phương pháp nghiên cứu
được xem là một trong những vấn đề quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng bài viết.
Ý thức được điều này, chúng tôi đã khá thận trọng trong việc lựa chọn và áp dụng các phương
pháp đã được gợi mở bởi các nhà khoa học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho luận văn
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn gồm ba phần chủ yếu: phần mở đầu. các chương chính và phần kết luận. Phần
mở đầu gồm có sáu mục. Ở mục thứ nhất, Lí do chọn đề tài, chúng tôi sẽ điểm qua đôi nét về
tác giả R.Tagore nhằm cung cấp một cái nhìn trực diện cho những ai lần đầu tiên tiếp xúc với
tác giả cũng như tác phẩm của ông đồng thời chúng tôi cũng nêu lên những lí do cụ thể khiến
chúng tôi chọn truyện ngắn của R.Tagore làm đối tượng nghiên cứu trong công trình này. Trong
mục tiếp theo, Lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ phác họa bức tranh khái quát về tình hình nghiên
cứu trong và ngoài nước về truyện ngắn của R.Tagore. Ở mục Đối tượng và phạm vi nghiên

cứu, chúng tôi sẽ giới hạn những vấn đề được khai thác chủ yếu xoay quanh 35/100 truyện ngắn
của R.Tagore gắn liền với những gì thuộc về huyền thoại cùng những phương pháp mà chúng
tôi sử dụng trong quá trình giải quyết vấn đề ở mục Phương pháp nghiên cứu. Cuối cùng, chúng
tôi sẽ trình bày về trình tự sắp xếp các chương, mục (Bố cục của luận văn) và ý nghĩa thực tiễn
lẫn khoa học mà công trình mang đến (Đóng góp mới của luận văn).
Tiếp theo phần mở đầu sẽ là ba chương chính. Ở chương 1- R.Tagore- người mở đầu
cho thể loại truyện ngắn của văn học hiện đại Begal, chúng tôi sẽ khái quát nền văn học Begal
thời Phục hưng và những ảnh hưởng của truyện ngắn R.Tagore trong quá trình hiện đại hóa văn
học Ấn Độ. Khi giới thiệu truyện ngắn của R.Tagore, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu những sáng tạo
của R.Tagore khi vận dụng những yếu tố huyền thoại trong văn học, văn hóa, tôn giáo Ấn Độ
và huyền thoại trong văn học thế giới vào những sáng tác của ông. Đồng thời chúng tôi cũng sẽ
giới thuyết những khái niệm về huyền thoại, thi pháp huyền thoại để tạo cơ sở lí luận cho việc
tìm hiểu yếu tố huyền thoại trong truyện ngắn của R.Tagore.
Trong chương 2- Sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn R.Tagore qua thế giới nhân
vật , chúng tôi sẽ nêu vấn đề tôn giáo con người của R.Tagore, quan niệm đặc biệt về con người
của ông để thấy được các kiểu nhân vật huyền thoại. Và trước khi đi sâu vào khai thác các kiểu
nhân vật mang sắc màu huyền thoại, chúng tôi cũng sẽ giới thuyết về nhân vật huyền thoại để
làm cơ sở lí luận để triển khai vấn đề ở chương này. Và chương 3- Sắc màu huyền thoại trong
truyện ngắn của R.Tagore qua không gian- thời gian, sau khi đặt cơ sở lí luận về không- thời
gian huyền thoại, chúng tôi sẽ khai thác các kiểu không- thời gian đặc trưng trong truyện ngắn
của R.Tagore để thấy được sự sáng tạo của ông khi vận dụng huyền thoại vào trang viết của
mình
Cuối cùng là Phần kết luận. Trong phần này, chúng tôi sẽ tổng hợp và đánh giá tất cả
các vấn đề đã trình bày ở các chương, đề xuất những hướng đi tiếp theo của các công trình
nghiên cứu sau này.
Ngoài ra, luận văn còn có mục Tài liệu tham khảo.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:

Ý nghĩa khoa học: như chúng tôi trình bày ở phần Lịch sử vấn đề, R.Taogre là một tác
giả nhận được nhiều sự quan tâm của độc giả lẫn các nhà nghiên cứu. Bên cạnh những thành

tựu thi ca, R.Tagore cũng là một cây bút truyện ngắn xuất sắc. Tuy nhiên những nghiên cứu về
truyện ngắn của ông chưa nhiều. Có thể nói nghiên cứu truyện ngắn dưới góc độ huyền thoại là
một ý tưởng khá mới mẻ mà chúng tôi nhận thấy chưa được khai thác một cách có hệ thống
trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào, mặc dù đôi lúc cũng được đề cập đến như một
trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm. Chính vì thế, chúng tối quyết định đến
với đề tài “Sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn R.Taogre” với tâm thế của một người kế
thừa cái cũ, tìm hiểu cái mới và quyết tâm chinh phục nó.
Ý nghĩa thực tiễn: hiện nay, các công trình nghiên cứu trong nước về R.Tagore và thơ ca
của ông khá nhiều nhưng truyện ngắn lại chưa được quan tâm đúng mức, chưa xúng tầm với
một tài năng và tầm vóc của một thiên tài văn chương như R.Tagore . Vì vậy, công trình này
được hoàn tất chỉ với hy vọng góp một tiếng nói trong việc đưa vẻ đẹp của truyện ngắn
R.Tagore đến gần hơn với những ai yêu thích văn học, qua đó cung cấp cho người đọc một cái
nhìn toàn diện về một hiện tượng văn chương khá đặc biệt của văn học Ấn Độ.









Chương 1: R.TAGORE- NGƯỜI MỞ ĐẦU CHO THỂ LOẠI
TRUYỆN NGẮN CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI ẤN ĐỘ
1.1 Văn học Bengal thời Phục hưng:
Khi bàn về cuộc chiến tranh xâm lược và sự thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ, C.
Mac đã cho rằng một đất nước mà nhân dân lấy tinh thần cao thượng và trầm tĩnh để làm thăng
bằng cho sự thuần phục của họ thì sớm hoặc muộn gì đất nước vĩ đại ấy cũng được phục hưng.
Quả đúng như vậy. Ngay từ đầu thế kỉ XVIII, nhiều khuynh hướng tư tưởng, nhiều phong trào
xã hội, văn học, tôn giáo có tính chất cách mạng đã xuất hiện nhiều nơi, đánh dấu sự hồi sinh,

thức tỉnh của Ấn Độ.
So với những khu vực khác của Ấn Độ thì Bengal là nơi chứng kiến đầu tiên nền thống
trị Anh và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Chính vì thế mà Bengal đã trở thành trung tâm
của nhiều phong trào nổi dậy phục hưng Ấn Độ. Trong cuốn hồi kí Đời Tôi(My life), Tagore
viết: “Tôi sinh năm 1861: đó không phải là một ngày quan trọng của lịch sử, nhưng nó thuộc về
giai đoạn lớn lao trong lịch sử Bengal. Chắc các bạn không biết rằng chúng tôi đạt vị trí hành
hương của chúng tôi vào những nơi tụ hội của các dòng sông, những dòng sông đối với chúng
tôi là biểu tượng tinh thần của sự sống trong thiên nhiên, và chỗ gặp gỡ của các dòng sông
tượng trưng cho chỗ gặp gỡ của trí tuệ, chỗ gặp gỡ của lí tưởng. Đúng vào lúc tôi sinh ra, cũng
là lúc gặp gỡ của ba trào lưu trong đời sống của đất nước chúng tôi”(437-438). Ba trào lưu mà
Tagore đề cập đến ở đây chính là traò lưu cải cách tôn giáo( do Raija Rammohan Roy lãnh
đạo), trào lưu cải cách văn học(do Bankim Chandra Chatterji khởi xướng) và phong trào dân
tộc( do Bal Gandhar Tilak phát động). Những thay đổi lớn lao của thời đại đã tác động rất lớn
đến văn học mà trước hết là sự thay đổi trong tư tưởng, tình cảm, quan niệm của người nghệ sĩ.
Thời kì phục hưng với tình hình xã hội khá phức tạp lại chứng kiến sự khởi phát tuyệt vời của
nền văn học Bengal.
Trong phong trào phục hưng Ấn Độ, trước tiên phải kể đến học giả đồng thời cũng là
nhà cải cách Raija Rammohan Roy (1774-1833). Ông luôn có ý thức khai thông sự bế tắc trong
tinh thần Ấn Độ bằng cách vứt bỏ những tín ngưỡng giáo điều, những tập tục lạc hậu trong đời
sống Ấn Độ như kêu gọi hủy bỏ chế độ đẳng cấp, tập tục tảo hôn và đặc biệt là tập tục Sati (hỏa
thiêu góa phụ), đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ văn hóa Ấn Độ trước cuộc xâm lăng văn
hóa phương Tây. Năm 1818, Raija Rammohan Roy đã cho ra đời tờ báo đầu tiên của Ấn Độ
viết bằng tiếng Anh và sau đó là tạp chí song ngữ Bengali- Anh….Đây thực sự là sự kiện để lại
một dấu ấn sâu rộng trong đời sống văn hóa Ấn Độ lúc bấy giờ. Ở Raija Rammohan Roy, người
ta luôn tìm thấy một biểu tượng sinh động của tinh thần Ấn Độ và đặc biệt là tư tưởng hòa hợp
Đông –Tây. Những tư tưởng tiến bộ của ông đã được các trí thức cấp tiến cùng thời kế thừa và
phát triển, góp phần đưa Ấn Độ vào thời kì phục hưng dân tộc.
Bankim Chandra Chatterji (1838-1894) là người đã góp phần mở rộng bức tranh toàn
cảnh của văn học Bengal. Trong các tác phẩm mang tính thời sự cuả B. Chandra. Chatterji, xã
hội Bengal và tác động của thời kì phục hưng được hiện ra một cách đầy đủ và rõ ràng nhất.

Cuốn tiểu thuyết “Con gái viên chỉ huy pháo đài” là tác phẩm đầu tiên của ông được viết bằng
tiếng Bengali, một thứ ngôn ngữ mà trước đó chỉ được biết đến như là ngôn ngữ của thơ ca.
Ông đã có công khai thông sự bế tắc của ngôn ngữ Bengal, thổi vào đó một sức sống mới bằng
chính tài năng và sự sáng tạo của mình. Có thể nói kể từ đây, thơ ca không còn giữ vị trí độc tôn
trong đời sống văn học nữa. Văn xuôi đã xác lập được vị trí, dần dần khẳng định sức sống mới
trong đời sống văn học Bengal và đạt đến đỉnh cao với sự xuất hiện của các tác phẩm được viết
bằng tiếng Bengali của R.Tagore.
Là con thứ mười ba trong gia đình có mười bốn người con, R.Tagore luôn nhận được sự
quan tâm, ưu ái của các anh, chị và những người giúp việc trong gia đình . Các anh, chị của
R.Tagore đều là những nhà thơ, nhà triết học, họa sĩ lớn ở Bengal thời bấy giờ. Cùng với những
người thân trong gia đình, R.Tagore còn có “vương quốc của những người đầy tớ”.Mối cảm
tình đặc biệt với lớp “người dưới đáy” và với thiên nhiên trong tâm hồn, tình cảm R.Tagore một
phần được bắt nguồn từ đó. Khác với bạn bè cùng trang lứa xuất thân trong gia đình quý tộc,
R.Tagore rất ít đến trường. Cả ba lần đến trường đều không mang lại cho ông chút hứng thú học
tập. Trong cảm nhận của ông, hệ thống giáo dục nhà trường chẳng khác nào một gọng kìm và
ông chia tay với nhà trường năm mười ba tuổi (1874). Và như vậy, một điều dễ nhận thấy là nhà
trường của Ấn Độ thuộc địa đã không ảnh hưởng nhiều đến tài năng, nhân cách của R.Tagore.
Thay vào đó là trường học cuộc đời. Sinh ra và lớn lên trong không khí tụ hội của ba phong trào
(trào lưu tôn giáo, cuộc cách mạng văn học, phong trào dân tộc) mà cả ba đều là phong trào
cách mạng và đặc biệt hơn là những thành viên trong gia đình đều tham gia tích cực ba phong
trào này, Tagore cũn g không tránh bị ảnh hưởng. Những vấn đề xã hội được Tagore đưa vào
trang viết một cách tinh tế, thể hiện được cái nhìn nhạy cảm và sâu sắc của nhà văn đối với thời
đại. Không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn của R.Tagore trong thời kì phục hưng văn
học Ấn. Theo cách nói của J.Nehru thì Tagore chính là “ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”.
Các tiểu thuyết của R. Tagore là những biểu hiện sinh động của chủ nghĩa dân tộc và phong trào
Swadesi- cái mà đã càn quét Bengal dưới tác động của thời kì phục hưng. Trong tác phẩm
Ghare-Baire (The Home and the World), Tagore đã mô tả những xu hướng trá i ngược nhau
giữa những lý tưởng cực đoan và ôn hòa, chủ nghĩa khủng bố và lòng nhiệt thành tôn giáo- là
những vấn đề nổi cộm trong giai đoạn này.“ Chính Tagore hơn là B. Chandra.Chatterji đã là
người tạo ra tiểu thuyết Ấn Độ hiện đại và cũng chính ông là người đầu tiên viết ra những

truyện ngắn thực sự bằng tiếng Bengali” (8.120). Quả thật Tagore là nhà văn đầu tiên có công
đưa truyện ngắn thành một thể loại mới văn học Bengal. Ông đã đến với truyện ngắn để tìm ra
một giọng điệu mới, một phương thức nghệ thuật mới để bẻ gãy những ảnh hưởng nặng nề và
cứng nhắc của văn học truyền thống bằng tiếng Sanskrit. Tagore đã hòa quyện chủ nghĩa hiện
thực và chủ nghĩa dân tộc trong những câu chuyện phản ánh cuộc sống đương thời ở nông thôn
và thành thị Bengal. Nhiều truyện ngắn của ông đã mô tả những xung đột hay trạng thái căng
thẳng giữa cái cũ và cái mới, sự phân biệt đẳng cấp, những vấn đề về tâm lí con người…sâu sắc
và có chiều sâu.
Rõ ràng, thời đại phục hưng đã mở ra những khả năng to lớn cho những tài năng kiệt
xuất như B. Chandra. Chatterji, R. Tagore… thể hiện được sự sáng tạo của mình. Riêng về
R.Tagore, với những sáng tác đặc sắc trên nhiều lĩnh vực và sự cống hiến không mệt mỏi trong
quá trình phục hưng văn học Ấn Độ nói chung và Bengal nói riêng, ông xứng đáng là “cái mà ta
gọi là văn hóa Ấn Độ”( Indra Gandhi).
1.2 Truyện ngắn R.Tagore trong quá trình hiện đại hóa văn học Ấn Độ
1.2.1 Tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn R.Tagore
R.Tagore- niềm tự hào của xứ sở dòng sông Hằng linh thánh không chỉ là một nhà thơ
với những vần thơ tuyệt diệu mang cảm nhận sâu sắc, độc đáo mà còn là một bậc thầy trong
lĩnh vực truyện ngắn. Các nhà nghiên cứu về lịch sử văn học Bengal đều đồng nhất cho rằng ở
thành tựu văn học Bengal nói riêng và văn học Ấn Độ nói chung, vào thập niên chín mươi của
thế kỷ XX, Tagore đã đóng góp một phần không nhỏ. Không những là nhà văn mở đường,
Tagore còn có công đưa thể loại này đến đỉnh cao vì những sáng tác của mình. Không có nhà
văn hàng đầu nào tại Bengal hay Ấn Độ có thể thế chỗ cho Tago re. Bhudev Chaudhuri đã
khắng định:“ Truyện ngắn bằng tiếng Bengali đã có được những mùa hoa thật rực rỡ đầu tiên
trong các tác phẩm của Tagore. Văn học hiện đại của Bengal đã bước đầu bước vào một kỷ
nguyên mới với sự khởi đầu của thời kì Rabindranath viết truyện ngắn”.
Để thực hiện những tác phẩm của đời mình, Tagore đã tự trang bị cho mình một nền văn
hóa đa diện, Âu cũng như Ấn. Tầm hiểu biết của R.Tagore được mở rộng và tư duy cũng trưởng
thành hơn qua những chuyến du lịch nước ngoài và học tập chuyê n sâu tại Anh. Thời thanh
niên,ông đã đi du lịch khắp đất nước và cùng cha tới tận dãy Himalaya. Khi bắt đầu sáng tác
bằng tiếng Bangali, ông vẫn còn rất trẻ và ông đã thử tài trong lĩnh vực thơ, văn xuôi, kịch và ở

thể loại nào, Tagore cũng đạt được những thành công vang dội
Lần đầu tiên trong văn học Bengal, R. Tagore xuất hiện với tư cách là một nhà văn viết
truyện ngắn, với hai tác phẩm đầu tay Ông chủ bưu điện và Sự trở lại của Khobababur

,

được
viết bằng tiếng Begali vào năm 1891. Đây là một điều đặc biệt bởi vì cũng như nhiều nước ở
phương Đông, Ấn Độ không có truyền thống văn xuôi. Lịch sử văn học, về cơ bản là lịch sử thơ
ca. Thơ trữ tình, và một chừng mực nào đó là kịch thơ, luôn giữ vị trí hàng đầu trong đời sống
văn học. Hơn nữa, trước R. Tagore, cùng thời với R. Tagore, dường như chưa có nhà văn nào ở
Ấn Độ thành công với những tác phẩm văn xuôi viết bằng ngôn ngữ bản địa, ngay cả sáng tác
của B. Bankim Chandrra. Tất cả những điều này cho chúng ta thấy bản lĩnh và khả năng sáng
tạo nghệ thuật của R. Tagore.
Sau hai truyện ngắn đầu tay, R.Tagore liên tiếp cho ra đời hàng loạt truyện ngắn viết về
nhiều đề tài khác nhau, mà tiêu biểu là các tác phẩm như: Một đêm (1892), Biên tập viên
(1893), Đền tội (1894), Mây và mặt trời (1894), Kẻ gây rắc rối (1895) Chúng tôi tôn anh làm
vua (1898)...
Hầu hết những tác phẩm này đều được R. Tagore viết khi ông về sống ở Shilaidaha, một
vùng quê yên tĩnh ở miền đông Bengal. Ông viết bằng tất cả tình yêu thương đối với con người,
đối với quê hương. Có nhiều người cho rằng ông không đủ hiểu biết sâu rộng về Bengal vì
R.Tagore là “một kẻ quá ư giàu có.Ông ta được sinh ra với chiếc thìa bạc của người Anh trong
miệng. Ông ta thì có hiểu biết gì về làng quê cơ chứ””(19.96) và R.Tagore cật lực phản đối vì
điều này “tôi có thể khẳng định rằng những kẻ nói như vậy ít biết về làng quê hơn tôi…Muốn
biết về làng quê thì người ta phải thực sự yêu nó trong khi những người đó chỉ kiếm tìm sự thỏa
mãn cá nhân của mình ngoài những gì làng quê có.Tôi đã nhìn cuộc sống ở làng quê với con
mắt của một tình yêu dưới nhiều góc độ…chứ không phải sự thờ ơ hay những khoảnh khắc bất
chợt” (19.96).
Tagore được sinh ra trong một gia đình đẳng cấp Balamon giàu có nhưng không vì thế
mà ông xa lánh cuộc sống, số phận của những người dân quê. Ông đã nhìn cuộc sống của họ

không phải xuất phát từ sự hiếu kỳ, sự khinh miệt mà bằng sự quan tâm, mối thiện cảm đặc biệt
của một nhà nhân đạo chủ nghĩa. Bởi ngay từ nhỏ, R.Tagore được những người “đầy tớ” chăm
sóc và ông gọi cái môi trường đặc biệt ấy là “vươn g quốc của những người đầy tớ”. Tuổi thơ
ông được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích của chú Syam, trong những lời ca của chú
Caliat, những mẫu chuyện sử thi qua lời kể của chú Badesua và cái “vương quốc đầy tớ” ấy đã
khiến cho tâm hồn R.Tagore thêm phong phú và đa cảm. Mặt khác, cậu bé Tagore “có nhạc tâm
hồn ngân vang như tiếng quản huyền, trang nghiêm như khúc thiền ca, bay bổng như tiếng sáo
trời” ấy đã được tắm mình trong vòng tay của thiên nhiên. Với Tagore, hòa hợp với thiên nhiên,
đó không chỉ là tư tưởng, mà còn là triết lí hành động, phương châm sống. Và hơn thế, nó phải
trở thành một tình cảm đặc biệt, một nhu cầu tự nhiên của mỗi con người. Khi còn là một cậu
bé, khi đọc tác phẩm Robinson Cruso của D.Defoe, cái làm cho R.Tagore vui thích ở đây chính
là sự thực hiện một cách thắng lợi mối thông cảm hòa hợp giữa con người với thiên nhiên chứ
không phải sự chiến thắng của con người với thiên nhiên. Ở đây, ta bắt gặp một minh triết Ấn
Độ về sự hiện hữu của linh hồn tuyệt đối Bhaman, mà con người, thiên nhiên là những dạng tồn
tại khác nhau của nó. Đây chính là cốt lõi của triết lí “thiên nhân đồng thể hợp nhất” trong triết
học Upanisad mà R.Tagore đã hấp thụ một cách tự nhiên như hít thở khí trời để sống vậy.Gần
gũi với thiên nhiên, với R.Tagore không phải chỉ để thưởng thức, giao cảm mà còn để khám phá
những điều bí ẩn của vũ trụ bao la, của lòng người sâu thẳm, là cách để tìm về với bản ngã
nguyên sơ.
Yêu thương con người, thích gần gũi với thiên nhiên trong một cuộc sống cô dơn tĩnh
lặng với tâm hồn mơ mộng đầy cảm xúc…là những đặc điểm nổi bật ở R.Tagore. Đó vừa là
những yếu tố tâm lí mang tính cá nhân cá thể, vừa tiêu biểu cho đời sống tinh thần Ấn Độ. Khi
nói về Ấn Độ, Romain Rolland (1866-1944) cho rằng “nếu có một nơi nào đó trên bề mặt trái
đất mà ở đó tất cả những giấc mơ của con người đã tìm được quê hương ngay từ thời kì nguyên
sơ khi con người bắt đầu mơ ước về sự tồn tại của mình thì đó là Ấn Độ”. Như vậy, ngoài ngôn
ngữ Bengali, Tagore- “ Leonardo de Vanci của thời phục hưng Ấn Độ” còn thể hiện mình bằng
một thứ ngôn ngữ riêng: ngôn ngữ của thiên nhiên, biểu tượng và ngụ ngôn.
Hòa hợp với cuộc sống phong phú của Ấn Độ được tích lũy qua hàng ngàn năm cùng
với một nền văn học cổ điển Anh đã khắc sâu trong tâm hổn R.Tagore từ bé và khả năng thiên
bẩm về nghệ thuật đã khắc họa nên hai mặt của một tâm hồn: cái trầm ngâm, sâu sắc, trừu

tượng và trầm lặng của Ấn Độ hòa hợp với cái sôi nổi, phóng khoáng của văn hóa tiến bộ
phương Tây và điều này cũng đã được thể hiện khá đậm nét trong những truyện ngắn của ông.
Đề tài trong truyện ngắn của R.Tagore phong phú, đa dạng và mang nhiều màu sắc của
cuộc sống, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi viết về con người và làng quê
Bengal, không giống với các nhà văn khác “chỉ tìm kiếm sự thoả mãn cá nhân của mình ngoài
những gì làng quê có” với thái độ lãnh cảm, thờ ơ, thiếu hiểu biết sâu rộng về làng quê thì
R.Tagore lại nhìn cuộc sống ở làng quê với “con mắt của một tình yêu dưới nhiều góc độ”.
Trong những tác phẩm của ông có một sự thân thuộc với làng quê mà hiếm có người nào khác
có thể có được. Sống gần gũi với nông dân, tận mắt chứng kiến sự nghèo khó tối tăm của họ,
bằng sự quan sát hiện thực sắc sảo, R.Tagore đã nhận ra tình trạng bất bình đẳng giữa các đẳng
cấp trong xã hội Ấn Độ. Và tình trạng này càng trở nên sâu hơn, rộng hơn dưới chính sách cai
trị của người Anh. Điều này đã có một tác động rất lớn đến tư tưởng tình cảm và những xúc
cảm nghệ thuật mạnh mẽ của R.Tagore. Trong phần lớn truyện ngắn của mình, Tagore chủ yếu
tập trung miêu tả, bộc lộ những niềm vui nho nhỏ cũng như nỗi đau khổ trong cuộc sống đời
thường của những con người nghèo khổ, thấp kém, bị xã hội quên lãng. “Thật thú vị khi chú ý
đến thời điểm những truyện ngắn này ra đời, những con người bình thường, đặc biệt là những
người nghèo khổ chưa từng đi vào văn chương Ấn Độ với bất kì chiều sâu tâm lí nào (người
viết dịch- A Tagore reader, trang40)
Trong đời sống tinh thần Ấn Độ, hòa hợp là một triết lý căn bản, gắn với mục đích giải
thoát linh hồn cá nhân, cá thể. Người Ấn cho rằng, sự giải thoát tuyệt đối chỉ có được khi linh
hồn cá nhân (Atman) hòa hợp với linh hồn vũ trụ (Bhaman) bằng con đường thiền định, thực
nghiệm tâm linh. Đó là một triết lý trừu tượng, c ao siêu trong minh triết Ấn Độ, được hình
thành trên nguyên lí vạn vật đồng nhất trong Upanisad. Coi trọng đời sống tinh thần, bỏ qua cái
nhất thời, hướng đến những giá trị tuyêt đối, mang ý nghĩa phổ quát là một nét đặc trưng của
tinh thần Ấn Độ, làm nên nét khác biệt cơ bản giữa Ấn Độ và phương Tây. Trong cuộc tiếp xúc
Đông- Tây, sự khác biệt ấy đã dẫn đến những xung đột , về thực chất là xung đột giữa các quan
niệm, các giá trị văn hóa..Vượt lên trên những xung đột ấy, R.Tagore đã hướng tới một lý tưởng
hòa hợp với tinh thần “cả thế giới là nhà của tôi”. Mục đích của ông là tìm sự hài hòa giữa các
giá trị. Khái niệm “thế giới” trong quan niệm của R.Tagore không bị giới hạn trong những quan
hệ xã hội và cũng không hề trừu tượng, hư vô. Nó được đặt trong nhiều tương quan mà trong đó

con người là yếu tố trung tâm. Nhờ đó, triết lí hòa hợp trong tinh thần Ấn Độ từ chỗ trừu tượng,
cao siêu đã được R.Tagore cụ thể hóa thành nguyên tắc ứng xử căn bản trong quan hệ văn hóa,
nhằm đạt được sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, bên trong và bên ngoài, quá khứ và
hiện tại, phương Đông và phương Tây, dân tộc và nhân loại…
Là nhà văn đồng thời cũng là một chiến sĩ họa động xã hội, ngòi bút của R.Tagore luôn
hướng về mục đích vạch trần, phê phán xã hội đương thời, thức tỉnh quần chúng, mong muốn
giải phóng tâm hồn, tư tưởng người Ấn Độ cận đại ra khỏi cái thòng lọng của tôn giáo, ra khỏi
sự kìm hãm của bạo lực và cường quyền. Có thể nói, mỗi truyện ngắn của Tagore đều chứa
đựng một nỗi niềm tâm sự của ông về cuộc đời nhân thế và những biến hóa khôn lường.
R.Tagore luôn mở rộng tâm hồn để lắng nghe mọi sự việc, tìm hiểu mọi tâm tình, sẻ chia với
những kiếp người bé nhỏ bao buồn, vui trong vòng quay vô tận của thời gian. Số phận của
những con người trong xã hội Ấn Độ luôn bị sự chi phối nghiệt ngã của tôn giáo và chế độ đẳng
cấp (Varna). Và bởi vây, khi đọc những tác phẩm của R.Tagore, chúng ta bắt gặp những mảnh
đời đen trắng với bao thăng trầm, biến dịch. Cuộc đời nhân vật có khi được bao bọc trong vòng
hào quang xán lạn, cũng có lúc ngập chìm trong giông tố cuộc đời. Câu chuyện k ể có lúc dữ
dội, dồn nén, mang đầy kịch tính nhưng cũng có lúc nhẹ nhàng, man mác như một áng thơ văn
xuôi. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Tagore là những con người bình thường, gần gũi
trong cuộc sống, đủ mọi tầng lớp. Đó là những thương gia, nhữ ng viên chức nhà nước, hay
những sinh viên thụ hưởng lối sống thực dụng từ nhà trường thực dân, những nông phu lam
lũ…Đặc biệt, trong truyện ngắn của ông, chúng ta còn bắt gặp những tu sĩ Balamon, những đứa
trẻ lang thang bị vất ra ngoài rìa của cuộc sống , những người phụ nữ bị hắt hủi chìm trong
những tháng ngày hờn tủi. Có biết bao số phận sinh ra như một sự sai lầm của tạo hóa, một thứ
định mệnh nghiệt ngã của kiếp nhân sinh. Họ đã phải sống trong đau khổ, trong những giằng xé
tinh thần đến từ muôn nẻo khác nhau của đời sống trần thế. Có lúc chỉ là sự ngẫu nhiên tai ác
như một sự đùa bỡn của số phận nhưng không ít khi chỉ vì cái lợi trước mắt, sự cám dỗ của đời
sống vật dục khiến họ phải sống trong ân hận dằn vặt suốt đời.
Tagore trăn trở trước cuộc sống thực tại, lo âu cho từng số phận đang phải sống trong
một xã hội đầy rẫy áp bức bất công với sự trói buộc của những hủ tục lạc hậu, sự phân biệt đẳng
cấp nghiệt ngã, sự xung đột giữa cái mới và cái cũ trước những va đập dữ dội của cơn lốc Âu
hóa.. Dưới dạng này hay dạng khác, miêu tả trực tiếp hay gián tiếp những xung đột gay gắt của

hiện thực xã hội đã được ông “gia đình hoá” qua những xung đột giữa cha - con; chồng- vợ;
anh- em.. và bao trùm lên là xung đột giữa cái cũ và cái mới, trong đó không phải cái c ũ nào
cũng đã lỗi thời và cái mới nào cũng tiến bộ. Cũng như ở nhiều nước phương Đông, ở xã hội
Ấn Độ hiện đại, gia đình vẫn luôn giữ một vai trò quan trọng. Nó vừa là nơi hội tụ những quan
hệ mang tính điển hình của xã hội, vừa là nơi lưu giữ những tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp nhất
trong đời sống mỗi con ngưòi. Có thể xem đó như một thành trì cuối cùng để bảo vệ các giá trị
truyền thống trước cuộc xâm lăng ồ ạt từ nhiều phía của văn hoá thực dân. Là một nhà văn đặc
biệt nhạy cảm với những biến thái trong đời sống tinh thần xã hội, R. Tagore đã cảm nhận được
nhiều vấn đề nóng bỏng của hiện thực đang diễn ra trong mỗi gia đình ngay cả khi nó vẫn giữ
được cái vẻ ngoài phẳng lặng, đặc biệt là ở tầng lớp bình dân. Ông nghe thấy những điều mà
không phải ai cũng hiểu, nhìn thấy được nỗi đau khổ của con người dù là nhỏ nhất. Hiện thực
tăm tối ngột ngạt của xã hội Bengal đã được R. Tagore soi chiếu dưới nhiều góc độ, hiện hình
lên qua từng số phận. Đó là Anathbandhu ( Đền tội – 1894), một kẻ xuất thân trong gia đình
nghèo khó ở một vùng nông thôn hẻo lánh, nhưng nhiều tham vọng, để cuối cùng phải đối mặt
với một sự thật phũ phàng là mất đi tình yêu, hạnh phúc, gia đình, sự kính trọng của mọi người
hay Baroda (Người thờ phụng- 1916)- một thanh niên lười học hành, trở thành một tu sĩ khổ
hạnh, để lại vợ con phía sau nhưng sau mười hai năm lại xuất hiện rước mặ cha mình trong
trang phục Âu mà không hề nghĩ rằng điều đó gây tổn thương đến những người thân yêu như
thế nào; đó là số phận của Bindu, Mrinal (Lá thư của một người vợ – 1914), những người phụ
nữ khát khao hạnh phúc nhưng cuối cùng một người phải kết thúc cuộc đời bằng cái chết oan
nghiệt và người kia chôn vùi tuổi thanh xuân trong một cuộc sống mỏi mòn vô cảm, là cô gái
Mahamaya (Dàn hỏa thiêu) với mong ước được sống cùng người yêu nhưng chế độ phân biệt
đẳng cấp đã không cho Mahamaya được toại nguyện. Cô sống mà như đã chết với tấm Xari dày
lúc nào cũng che kín gương mặt đầy vết sẹo của cô. Tuy nhiên, phải nói rằng nhân vật của
R.Tagore không chỉ cam chịu mà đã bắt đầu có ý thức phản kháng, báo hiệu sự thức tỉnh của ý
thức cá nhân trong cuộc đấu tranh vì quyền sống của con người. Trong bức tranh xám xịt của
cuộc sống đã xuất hiện những tia sáng mong manh, có khi chỉ là trong giấc mơ, hay trong một
viễn cảnh mang tính huyễn tưởng. Điều này cho thấy một sự kết hợp hài hoà giữa hai cảm hứng
hiện thực và lãng mạn trong sáng tạo của R. Tagore.
Một đặc điểm nổi bật của truyện ngắn R.Tagore là sự lồng ghép, đan cài các yếu tố hư,

thực. Những motip trong truyện kể dân gian, những huyền thoại tôn giáo hay những yếu tố bất
ngờ, ngẫu nhiên xuất hiện nhiều trong tác phẩm của R.Tagore. Nó thường giữ một vị trí quan
trọng trong việc tổ chức cốt truyện. Đây không chỉ là một nghệ thuật mà còn thể hiện một cách
nhìn cuộc sống của R.Tagore. Với cuộc sống này, không có gì là không thể. Nó là một dòng
chảy tự nhiên giữa quá khứ và hiện tại, là sự hòa trộn giữa cái có thể và cái không thể, giữa bên
trong và bên ngoài, giữa linh hồn và thân xác.
Tính chất duy lý của triết học phương Tây, khả năng trực giác và sự mơ mộng của người
Ấn Độ đã được kết hợp hài hoà trong tư duy nghệ thuật R. Và truyện ngắn chính là kết tinh tài
năng của Tagore trong sáng tạo nghệ thuật: “sắc sảo trong quan sát hiện thực, phóng khoáng
trong tưởng tượng và nhân hậu trong ình yêu thương con người”(5.107)
1.2.2 Yếu tố huyền thoại:
1.2.2.1 Khái niệm huyền thoại:
Được coi là chất liệu nghệ thuật quan trọng, yếu tố huyền thoại là một trong những
thành tố tạo nên phương pháp sáng tác huyền thoại, nòng cốt của trào lưu văn học ở châu Mĩ La
tinh trong thế kỉ XX “một chủ nghĩa huyền thoại xuất hiện trong hàng loạt sáng tác của nhiều
nhà văn nhiều nước với những kiểu khác nhau…Sử dụng hình ảnh ngụ ngôn, triết lí trữ tình,
hướng về các hằng số cổ xưa, về cuộc sống tự nhiên của nhân loại: ngôi nhà, con đường, núi,
đồi, tuổi thơ, tuổi già, bệnh tật, cái chết…(47;187). Có thể nói, khái niệm huyền thoại không
còn xa lạ gì với văn chương hiện đại. Ngay từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có không ít các
nhà văn đã gặt hái được vin h quan bằng các tác phẩm sử dụng huyền thoại như F.Kafka,
G.Macket, T.Aimatov… Tuy nhiên, do biên độ nội hàm khái niệm co dãn khá rộng nên việc trả
lời cho câu hỏi “huyền thoại là gì” vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh luận.
Huyền thoại (myth) là một thuật ngữ xuất hiện từ xa xưa và nội dung của nó thay đổi
không ngừng. Thuật ngữ này vốn bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là muthos.
.Muthos
có nghĩa đen là
lời, lời nói, câu chuyện, là truyền thuyết, truyền thoại
.
Trong khoa học về huyền thoại, huyền
thoại thường được định nghĩa là những truyện kể thiêng liêng, giải thích thế giới và con người

đã hình thành và có được dạng tồn tại hiện nay như thế nào. Huyền thoại theo nghĩa đó thường
được hiểu là “những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn
gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu (thời gian khởi nguyên),
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như việc tạo lập nên những nhân
tố của nó – thiên nhiên và văn hoá”( E.M.Melentinsky- Từ điển thần thoại, trang 74)
Bất cứ dân tộc nào trên thế giới ít nhiều cũng có kho thần thoại của riêng mình. Những
huyền thoại ấy là sản phẩm của trí tưởng tượng; chúng cũng mơ hồ, tối nghĩa, cần phải giải
đoán và không thể đưa ra những tiêu chuẩn của lý trí để bắt bẻ được. Chính vì thế mà xung
quanh khái niệm “huyền thoại” có rất nhiều cách giải thích, định nghĩa khác nhau. Có những
cách giải thích, định nghĩa khá đơn giản, ngắn gọn nhưng vô hình trung lại khoác lên “huyền
thoại” một chiếc áo khá rộng như huyền thoại kể “một sự kiện chưa từng bao giờ xảy ra để nói
về một điều tồn tại từ xa xưa” (sử gia La Mã cổ đại Salluste); kể “một sự kiện đã xảy ra trong
thời khai thiên lập địa”(Mircea Eliade); huyền thoại là “truyện hoang đường từ xa xưa, qua đó
thể hiện một cách tượng trưng quan niệm về thế giới”(Từ điển Encarta), là “truyện hoang đường
truyền từ đời nọ qua đời kia, trái với truyền thuyết có tầm hạn hẹp (nó gắn với một địa điểm
chẳng hạn), huyền thoại có khuynh hướng mang ý nghĩa phổ quát (vũ trụ, siêu hình hoặc nhân
loại)” hay “ huyền thoại là một câu chuyện hoang đường tự kể ra” … Một số học giả lại xem
huyền thoại đồng nhất với thần thoại hay coi huyền thoại là sự tương tác giữa văn học và thần
thoại qua các thời đại văn học sử…
Như vậy, nói đến huyền thoại là người ta nghĩ ngay đến những yếu tố siêu nhiên, hoang
đường. Do tính chất hư cấu, không có thật của huyền thoại xưa nên nhiều khi thuật ngữ “huyền
thoại” còn được dùng để chỉ những sự việc, những mơ ước hão huyền.
Từ những điểm nhìn không giống nhau, các học giả đi đến nhiều nhận định khác nhau
về bản chất của huyền thoại. R.Barthes cho “huyền thoại là một ngôn từ”, S.Freud đánh giá
huyền thoại như là “một trong những hình thức thay thế việc thực hành ham muốn”, C.Jung lại
hiểu huyền thoại là “cái mang tải kinh nghiệm nhân loại đặc biệt quan trọng, quí giá đối với mọi
thời đại”…còn với E.M.Meletinsky- tác giả của Thi pháp huyền thoại thì “huyền thoại là một
hiện tương trung tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một phương tiện cổ xưa để nhận thức
thực tại xung quanh và bản chất của con người. Huyền thoại cũng là mô hình đầu tiên của mọi
hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của các loại hình văn hóa khác nhau- văn học, nghệ thuật,

tôn giáo và ở mức độ nào đó, cả triết học, thậm chí cả khoa học”(tr.xiv)
Nhìn chung, có quá nhiều ý kiến, quan điểm về huyền thoại được đưa ra khiến cho
nội hàm của khái niệm này bị co dãn không ngừng. Với tâm thế của người kế thừa những thành
quả của người đi trước và chỉ mới chập chững bước vào con đường khám phá huyền thoại, đồng
thời do yêu cầu của đề tài, chúng tôi cũng xin đưa ra quan điểm của mình về huyền thoại để làm
cơ sở cho việc triển khai đề tài. Chúng tôi cho rằng huyền thoại là một phương thức xây dựng
tác phẩm (chiếm lĩnh hiện thực) bằng cách đưa vào những yếu tố hoang đường, kì ảo, những cái
“có tính huyễn hoặc” tạo cho tác phẩm một màu sắc hư ảo- sự trộn lẫn giữa cái thực, cái ảo,
nhằm khắc học rõ nét hơn hiện thực khách quan. Nói cách khác, những yếu tố hoang đường,
những cái “có tính huyễn hoặc” đó được vận dụng ở nhiều cấp độ trong sáng tác nhằm chuyển
tải những vấn đề của cuộc sống con người hiện tại. Và cùng với nó là cách hiểu “huyền thoại
hóa” như một thủ pháp nghệ thuật để “lạ hóa” một cách thức thể hiện mang đến cho tác phẩm
mọt sức hấp dẫn, một vẻ đẹp riêng, đi giữa hai bờ thực và ảo.
Việc sử dụng yếu tố huyền thoại trong sáng tạo văn chương cho thấy mối tương tác rất
lớn giữa văn học và hiện thực khách quan. Yếu tố huyền thoại trong các hình tượng văn học sẽ
tạo nên một thế giới giả định, mờ ảo bao bọc một thực tại cụ thể. Nó biến thực tế đôi khi trần
trụi, vô cảm thành sống động tràn trề niềm vui. Với sự tưởng tượng đặc biệt cùng lối cấu trúc
riêng biệt, yếu tố huyền thoại sẽ cho chúng ta cảm nhận về một thực tại không thuần túy như nó
vốn có.
Trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn, R.Tagore đã sử dụng yếu tố huyền thoại khá
linh hoạt và độc đáo. Điều đó đã làm cho truyện ngắn của ông được bao bọc trong một màu sắc
huyền ảo và lung linh. Tuy nhiên, nếu huyền thoại phương Tây mang tính tượng trưng rất cao,
huyền thoại Ba Tư có tính công thức thì huyền thoại phương Đông lại thiên về ẩn dụ. Và đặc
biệt, ở văn học Ấn Độ, các huyền thoại trong văn chương, văn hóa và tôn giáo như được hòa
quyện và thâm nhập lẫn nhau tạo nên sự đa dạng và phong phú trong cách nhìn, cách hiểu ở độc
giả.
1.2.2.2. Yếu tố huyền thoại trong sáng tác của R.Tagore:

R.Tagore chịu ảnh hưởng lớn của xu hướng huyền thoại trong văn học truyền thống Ấn
Độ và văn học thế giới. Chất thơ, vẻ đẹp huyền ảo đôi chút hoang dại, những ngẫu nhiên huyền

thoại trong tác phẩm Kalidasa, Tunxi Đat hay một thế giới nửa thực nửa hư, mờ ảo ẩn hiện của
Dickens đã làm rung động và có sức ám ảnh nhà thơ trong những năm tháng tuổi thơ. Với ảnh
hưởng này, R.Tagore cảm nhận, suy tư và mô tả thực tại theo cách riêng. “Chất hiện thực” ở
R.Tagore không phải là bức ảnh sao chụp chính xác tự nhiên mà là một thực tại chứa đựng sức
sống của sự vận động và niềm vui, một thực tại với liên hợp hình tượng kì ảo nhất được tạo nên
từ óc tưởng tượng thiên bẩm đặc biệt ở R.Tagore.
Sử dụng yếu tố huyền thoại trong văn xuôi, nhà văn R.Tagore cho “ra mắt” một giấc mơ
có thể nắm bắt và biến nó thành thực tại huyền diệu. Chẳng hạn như tiểu thuyết Đắm thuyền-
một câu chuyện tình yêu hấp dẫn, éo le được thể hiện bằng bút pháp trữ tình tài ba. Chất trữ tình
sâu lắng, vẻ đẹp mờ ảo tinh tế của cuộc sống hiện hữu bộc lộ từ nhân vật đến không gian, thời
gian và các tình huống ngẫu nhiên huyền diệu.
Những truyện ngắn đặc sắc như Mây và mặt trời, Chiến thắng, Ảo ảnh tan vỡ là những
nét nhấn cho sự hoàn thiện bút pháp. Từ tên truyện đến cấu trúc đã khắc họa một thực tại trần
trụi, khắc nghiệt, bỏng rát (Mây và mặt trời); một ảo ảnh tình yêu đeo đuổi ám ảnh suốt cuộc
đời (Ảo ảnh tình yêu) hay sự chiến thắng của chân lí tình yêu vĩnh cửu (Chiến thắng)…bằng bút
pháp huyền ảo bậc thầy.
Sự vận dụng yếu tố huyền thoại không chỉ giới hạn trong thể loại văn xuôi mà còn mở
rộng ở những thể loại khác như kịch, thơ. Vở kịch Sự trả thù của tự nhiên ( sau đổi tên thành
Thầy tu khổ hạnh) là một ví dụ tiêu biểu. Vở kịch này nói về tấn bi kịch của một tu sĩ, muốn
sống cách biệt với thế giới, muốn rời bỏ tất cả để đi tìm chân lí trong cõi hư vô nhưng rốt cuộc
lại mắc kẹt trong tình yêu, hối hận về tình yêu rồi kiên quyết trở về với cuộc đời. Với vở kịch
này, R.Tagore đã tuyên chiến thật khéo với “ maya - ảo mộng” và chủ nghĩa khổ hạnh của tôn

×