Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ý nghĩa của bảo trợ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.29 KB, 15 trang )

1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo trợ xã hội.
*/ Khái niệm bảo trợ xã hội:
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng gặp những thuận
lợi, may mắn mà ngược lại luôn bị đe dọa trước những biến cố, rủi ro, bất hạnh,...
vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào những tình huống như vậy, nhu cầu
khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng trở thành
cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc. Do đó, có thể nhận thấy, bảo trợ xã hội
là biện pháp tương trợ cộng đồng đầu tiên mà con người tìm đến để giúp nhau
vượt qua những tình huống khó khăn. Đây là hình thức tương trợ cộng đồng đơn
giản, phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội mỗi quốc
gia.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của bảo trợ xã hội, hầu hết
các nước đều tổ chức thực hiện bảo trợ xã hội bằng cách xây dựng pháp luật và tổ
chức thực hiện phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập
quán,... của mình. Theo thống kê của ILO trong các tài liệu về an sinh xã hội,
trong số 172 nước thiết lập hệ thống an sinh xã hội thì chế độ bảo trợ xã hội đều
được quan tâm thực hiện ngay từ đầu. Thậm chí một số nước như Pháp, Đức,...
còn xác định bảo trợ xã hội cho những người nghèo nhất chính là trọng tâm và
mục tiêu chủ đạo của an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, mặc dù bảo trợ xã hội đã được thực hiện từ rất lâu với vai
trò quan trọng của Nhà nước nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chính
thức về bảo trợ xã hội trong các văn bản pháp luật. Theo cách hiểu thông thường
thì đó là “sự giúp đỡ cho qua khỏi cơn nguy khốn” hay “giúp cho qua khỏi cơn
nghèo ngặt”. Về ngữ nghĩa, thì đa số các nhà khoa học cho rằng cụm từ này gồm
hai nhóm từ ghép là “cứu trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội”.
Tóm lại, dựa trên những quan điểm chung của ILO và riêng ở Việt Nam,
có thể hiểu: Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng
1
những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào
cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói,... vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia


đình, nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật hoặc giúp
họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
Việc thể chế hóa chính sách xã hội mang đậm tính nhân đạo này, tùy
thuộc vào các giai đoạn khác nhau của điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước đã
ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể chế độ bảo trợ xã hội với phạm vi
đối tượng, điều kiện hưởng, mức hưởng,... và tổ chức thực hiện. Do vậy, có thể
hiểu, dưới góc độ pháp luật, chế độ bảo trợ xã hội là tổng thể các quy phạm pháp
luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, xác định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân trong việc hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho các thành viên trong
xã hội khi bị lâm vào hoàn cảnh bất hạnh, rủi ro, nghèo đói,... không đủ khả năng
đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
Xuất phát từ những phân tích trên về khái niệm bảo trợ xã hội có thể rút
ra một số đặc điểm sau:
- Về đối tượng: tham gia vào quan hệ bảo trợ xã hội bao gồm Nhà nước,
các đối tượng bảo trợ và các chủ thể khác như tổ chức, cá nhân khác trong hoạt
động chung mang tính nhân đạo này. Trong đó:
+ Đối tượng bảo trợ là mọi người dân trong xã hội không phân biệt vị thế
và thành phần xã hội khi gặp phải khó khăn, thiếu thốn, lâm nạn, cơ nhỡ,... hoặc
vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến cuộc sống thường ngày hoặc lâu dài của
họ bị đe dọa. Dưới góc độ kinh tế thì đó là những thành viên có mức sống thấp
hơn mức sống tối thiểu của xã hội hoặc gặp khó khăn, rủi ro cần có sự nâng đỡ về
vật chất. Dưới góc độ xã hội thì họ thuộc nhóm người “yếu thế” trong xã hội, với
những nguyên nhân khác nhau mà bị rơi vào vị thế bất lợi, thiệt thòi, có ít cơ may
trong cuộc sống như người bình thường và không đủ khả năng tự lo liệu, đảm bảo
2
cho cuộc sống của gia đình và bản thân. Ngoài ra dưới góc độ nhân đạo, đó có thể
là những đối tượng nghiện hút, mại dâm, lang thang xin ăn,...
+ Thứ hai là Nhà nước với tư cách là một chủ thể trong quan hệ bảo trợ
xã hội, đã xác định được nghĩa vụ của mình và mối quan hệ hợp tác giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân,.. trong hoạt động bảo trợ xã hội. Hoạt động bảo trợ xã

hội, ngoài trách nhiệm của Bộ lao động – thương binh và xã hội còn là trách
nhiệm của các bộ, ban ngành khác như Bộ y tế, Bộ giáo dục,... và toàn thể các
thành viên xã hội...
- Về nội dung: Chế độ bảo trợ xã hội được xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau. Nếu căn cứ vào phạm vi đối tượng sẽ có chế độ bảo trợ đối với từng
nhón cụ thể như người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật, trẻ em mồ
côi,... Nếu căn cứ vào tính ổn định hay nhất thời của trợ cấp thì sẽ có chế độ trợ
cấp thường xuyên và chế độ trợ cấp đột xuất. Trong đó, chế độ trợ cấp thường
xuyên có tính ổn định, lâu dài hơn, còn chế độ trợ cấp đột xuất thì có tính nhất
thời, được thực hiện một lần với các hình thức đa dạng, linh hoạt. Còn nếu căn cứ
vào hình thức của chế độ bảo trợ sẽ có bảo trợ xã hội về vật chất với các khoản
tiền trợ cấp, phương tiện sinh sống,... và bảo trợ xã hội về tinh thần bằng các hoạt
động tư vấn sức khỏe, tâm lý, giáo dục,...
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chế độ bảo trợ xã hội bao gồm
hai nội dung chính là chế độ bảo trợ thường xuyên và chế độ bảo trợ đột xuất.
Việc phân loại này chỉ có ý nghĩa đưa ra mức hưởng và hình thức bảo trợ cho phù
hợp với từng nhóm đối tượng.
- Về mục đích: mục đích của bảo trợ xã hội không nhằm bù đắp thu nhập
thường xuyên bị giảm hoặc mất hay đảm bảo ổn định đời sống, suy tôn công
trạng. đền ơn đáp nghĩa những người có công,... mà chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cho
những người lâm vào tình trạng thực sự khó khăn, túng quẫn, cần có sự giúp đỡ
về vật chất mới có thể vượt qua được hoàn cảnh hiện tại. Do đó, mức hưởng
3
thường là thấp và linh hoạt, phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của Nhà
nước, khả năng huy động nguồn lực, và tình trạng thực tế của đối tượng,...
Ngoài hai chế độ bảo trợ thường xuyên và đột xuất, ở phạm vi rộng, hoạt
động bảo trợ xã hội còn được thực hiện với các chương trình xóa đói giảm nghèo,
chăm sóc sức khỏe toàn dân, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
những người lầm lỡ mắc tệ nạn xã hội,...
*/ Ý nghĩa của bảo trợ xã hội:

Ngay từ khi ra đời cho đến nay, an sinh xã hội nói chung và bảo trợ xã
hội nói riêng đã được đón nhận như một sự đảm bảo cho cuộc sống và đặc biệt có
ý nghĩa đối với một bộ phận thành viên xã hội, bộ phận “người yếu thế”. Là sự
bảo vệ phổ cập và đồng nhất đối với mọi thành viên xã hội trên cơ sở sự tương
trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro, bảo trợ xã hội là hoạt động mang đậm tính nhân
đạo, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật.
- Dưới góc độ kinh tế, bảo trợ xã hội không vì mục đích kinh doanh, lợi
nhuận nhưng lại có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bac, của cải và dịch vụ
có lợi cho các thành viên bất hạnh trong xã hội, góp phần thu hẹp dần sự chênh
lệch mức sống, giảm bớt đói nghèo,... Với góc độ này thì bảo trợ xã hội chính là
biện pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Với mỗi thành viên xã
hội nói chung và đối tượng bảo trợ nói riêng, bảo trợ xã hội đặc biệt có ý nghĩa
trong việc đảm bảo sự tồn tại và tạo cơ hội vượt qua những khó khăn, túng quẫn
về kinh tế. Đối tượng bảo trợ xã hội là những người có mức sống thấp hơn mức
sống tối thiểu của xã hội, các yêu cầu tối thiểu về kinh tế như ăn, mặc,... không
được đảm bảo. Trong tình cảnh đó, bảo trợ xã hội chính là “lưới đỡ” kinh tế cuối
cùng về miếng cơm, manh áo hàng ngày cho đối tương. Không chỉ dừng lại đó,
bảo trợ xã hội còn đưa đến những cơ hội thuận lợi để đối tượng tự vươn lên đảm
bảo và nâng cao đời sống của mình. Tuy nhiên, cũng phải nhận thức rằng, bảo trợ
4
xã hội không loại trừ được nghèo đói, bất hạnh, rủi ro,... nhưng đây là biện pháp
kinh tế góp phần đẩy lùi nghèo túng, khắc phục rủi ro, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Dưới góc độ chính trị, xã hội: bảo trợ xã hội đặc biệt có ý nghĩa. Đây
không chỉ là thái độ của Nhà nước, là biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với
mỗi thành viên của mình khi gặp rủi ro, khó khăn mà còn làm giảm thiểu những
bất ổn trong xã hội, góp phần duy trì ổn định xã hội trong đó có ổn định chính trị.
Sở dĩ bảo trợ xã hội có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc như vậy là do xuất
phát từ nền tảng của bảo trợ xã hội là sự tương tác, tương trợ cộng đồng của các
thành viên xã hội trước những bất hạnh, rủi ro của cá nhân. Theo đó, những bất
hạnh, khó khăn này được cả cộng đồng gánh vác, sẻ chia mà không đòi hỏi một

nghĩa vụ nào về tài chính từ phía đối tượng. Ở đây không có sự phân biệt về đối
tượng hưởng cũng như chủ thể thực hiện mà hơn thế nữa lại là yếu tố tạo nên sự
hòa đồng giữa các thành viên xã hội, không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị
kinh tế,... Có thể coi bảo trợ xã hội là một hình thức tương trợ cộng đồng phổ
biến nhất, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của mỗi cá nhân và có sức hút hấp dẫn
trước những giá trị nhân bản của con người.
Ngày nay, bảo trợ xã hội không còn là vấn đề chính trị, xã hội của mỗi
quốc gia mà đã trở thành vấn đề có tính quốc tế. Việc thực hiện bảo trợ xã hội
không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, nó có ý nghĩa toàn
cầu vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển hơn.
- Dưới góc độ pháp luật: bảo trợ xã hội là một chế định quan trọng trong
hệ thống pháp luật an sinh xã hội. điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần
cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như
người bình thường khác và không đủ khả năng tự lo liệu. Ý nghĩa pháp luật của
bảo trợ xã hội xuất phát từ quyền cơ bản của con người. Mỗi con người sống
trong xã hội đều có quyền được sống, được bình đẳng, được thương yêu, đùm
bọc, bảo vệ khỏi những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự sống bị đe dọa.
5
Ở nước ta, quyền bảo trợ đã được ghi nhận trong Hiến pháp (điều 67) và
nhiều văn bản pháp lý khác. Điều đó cho thấy bảo trợ xã hội không chủ đơn
thuần là hoạt động tự phát mang tính nhân đạo của cộng đồng mà dưới góc độ
pháp luật, nó đã được thể chế hóa thành chế định của hệ thống pháp luật an sinh
xã hội quốc gia. Cũng từ đó, giúp chúng ta nhận thức được rằng, bảo trợ xã hội
không phải là sự ban ơn, sự chiếu cố của xã hội đối với những thân phận thấp
hèn, những người cùng cực, mà là quyền của mỗi thành viên trong xã hội, là trách
nhiệm, nghĩa vụ của cả cộng đồng.
2. Bài tập tình huống.
Giải quyết tình huống:
2.1 Chế độ bảo hiểm xã hội:
Xác định anh H thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: Căn

cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 (BHXH) quy
định về đối tượng áp dụng đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc: “1. Người lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam bao gồm: a) Người làm
việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ ba tháng trở lên;...”. Mà theo đề bài thì anh H đã làm việc tại công ty
xây dựng Y từ năm 1987, do đó, đối chiếu với Điều luật trên thì anh H thuộc đối
tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Căn cứ vào Điểm a, c, d Khoản 1 Điều 4 Luật BHXH năm 2006 thì các
chế độ ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí đều thuộc bảo hiểm xã hội bắt buộc.
a) Dữ kiện thứ nhất: Trong lúc làm thêm giờ anh H bị thương và phải
điều trị mất 2 tháng, được xác định suy giảm 45% khả năng lao động.
Chế độ tai nạn lao động:
- Điều kiện được hưởng:
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 và Khoản 2 Điều 39 Luật BHXH năm
2006; Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP của Chính phủ hướng
6

×