Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.05 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
A: LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................1
B: NỘI DUNG............................................................................................................1
I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm...1
II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.....................3
III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Giải thích rõ tại sao...........................................................................................4
IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Giải thích rõ tại sao.......5
V. Hãy xác định loại người đồng phạm trong vụ án và giải thích rõ tại sao...............6
VI. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân.
Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến
của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao....................................................................7
C: KẾT LUẬN...........................................................................................................8
Chú thích một số cụm từ viês tắt.
1. BLHS : Bộ luật hình sự
2. CTTP : Cấu thành tội phạm
3. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
A: LỜI NÓI ĐẦU
Luật hình sự Việt Nam gắn chặt với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, và
cùng với việc xuất phát từ đặc điểm riêng của mình, luật hình sự Việt Nam có nhiệm vụ:
“...bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi
hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
trong phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 1 BLHS). Con người được coi là vốn quý
của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói
chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân
phẩm, danh dự và tự do của họ, vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối
với con người; và qua đó, đồng thời cũng là sự áp dụng những biện pháp cụ thể để trừng


phạt nghiêm khắc những hành vi của người phạm tội. Xã hội ngày càng phát triển, loại tội
xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do của con người ngày
càng gia tăng, đặc biệt là loại tội xâm hại tới tính mạng, sức khỏe của con người. Có rất
nhiều vụ án đều đề cập đến loại tội phạm xâm hại tới nhân phẩm, danh dự của con người
và dưới đây là một tình huống mà em lựa chọn cũng nói tới loại tội phạm nói trên:
A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi
chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi, A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện
cho N, V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ
vắng, cả 4 tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp
dâm.
2. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm
hình thức? Giải thích rõ tại sao.
4. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Giải thích rõ tại sao?
5. Hãy xác định loại người đồng phạm trong vụ án và giải thích rõ tại sao.
6. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn
nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp
sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
B: NỘI DUNG
I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm.
Như chúng ta đã biết khái niệm tội phạm được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 8 BLHS
năm 1999, thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu phạt. Tuy tội
phạm có chung các dấu hiệu trên nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Chính do sự khác nhau như vậy mà vấn đề
phân hóa và cá thể hóa hình phạt đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình
2
sự Việt Nam. Thể hiện nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm ra thành 4

nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định theo Khoản 3 Điều 8
BLHS.
Điều 111bộ Luật Hính sự nói đến “Tội hiếp dâm”. Tội hiếp dâm thuộc nhóm tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người; được quy định tại Chương XII: “Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”.
Hiếp dâm là hành vi đồi bại, thú tính không thể chấp nhận được vì hoạt động của con
người là hoạt động có nhận thức, hiếp dâm bị xã hội lên án, bị pháp luật trừng trị nghiêm
khắc.
Khoản 1 Điều 111 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với
nạn nhân trái ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Hành vi giao cấu với người phụ nữ trái ý muốn của họ được thực hiện bằng một trong
các thủ đoạn sau:
- Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân chống lại
sự giao cấu như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân...
- Đe dọa dùng vũ lực là thủ đoạn làm ý chí của người phụ nữ bị tê liệt, buộc họ phải chịu
sự giao cấu mà không dám kháng cự như dọa giết, dọa gây thương tích cho nạn nhân.
- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người phụ nữ là thủ đoạn lợi dụng người
phụ nữ vì lí do nào đó không thể chống lại được hành vi giao cấu trái với ý muốn của
mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng ốm đau, một mình trong đêm tối...
- Dùng thủ đoạn khác là người phạm tội có hành vi đe dọa dùng vũ lực uy hiếp tinh thần
hoặc dồn ép họ hay lợi dụng tình thế không thể chống cự... làm cho họ khiếp sợ.
Với khung cơ bản, mức hình phạt mà người thành niên phạm tội hiếp dâm phải chịu
tại Khoản 1 là từ 2 năm đến 7 năm. Và mức án phạt cao nhất là 7 năm. Căn cứ vào
Khoản 3 Điều 8 BLHS thì Khoản 1 Điều 111 sẽ áp dụng đối với người phạm tội nghiêm
trọng.
Khoản 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
i) Tái phạm nguy hiểm.
Khoản 2 có thêm tình tiết tăng nặng TNHS được ghi rõ tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g,
h, i. Nếu người phạm tội: phạm tội thuộc một trong các trường hợp mà được BLHS quy
định tại Khoản 2 thì người phạm tội đó phải chịu mức hình phạt là từ 7 năm đến 15 năm.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 8 BLHS, người phạm tội mà phạm tội theo Khoản 2 Điều 111
3
thì thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Những người phạm tội chỉ phải chịu TNHS tại
Khoản 2 nếu có những dấu hiệu được quy định như trong đó; và phải chịu TNHS về loại
tội phạm mà mình đã thực hiện: Tội phạm rất nghiêm trọng.
Người phạm tội thuộc Khoản 3 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Nếu người phạm tội phạm tội hiếp dâm được ghi rõ trong Khoản 1 và có thêm các
tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm a, b, c trong Khoản 3 Điều 111, thì
những người đó phải chịu mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình, từ việc chịu mức hình phạt theo khung cơ bản tại Khoản 1 chuyển sang phải chịu
mức hình phạt quy định tại Khoản 3; như vậy, đã có sự dịch chuyển khung hình phạt, có
thêm các tình tiết tăng nặng định khung. Căn cứ theo khoản 3, Điều 8 BLHS thì tội phạm
quy định tại Khoản 3 Điều 111 BLHS 1999 là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khoản 4 của tội hiếp dâm quy định: Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ

đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều
này, thì bị xử phạt theo hình phạt quy định tại các khoản đó.
Tội phạm khi thực hiện hành vi hiếp dâm mà chưa đạt đến độ tuổi nhất định, chỉ mới
là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì vẫn phải chịu TNHS về hành
vi phạm tội mà mình thực hiện, hình phạt mà người đó phải chịu trong trường hợp này là
5 đến 10 năm. Căn cứ theo Khoản 3 Điều 8 thì Khoản 4 Điều 111 quy định người phạm
tội thuộc khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng.
Người phạm tội hiếp dâm ngoài hình phạt chính phải chịu trong mỗi điều khoản quy
định, còn phải chịu thêm các loại hình phạt bổ sung được quy định trong Khoản 5 như
sau: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm”.
II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Nhân
phẩm, danh dự con người là những yếu tố về tinh thần bao gồm phẩm giá, giá trị, sự kính
trọng của những người xung quanh, của xã hội đối với một người. Xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người là làm cho người đó bị coi thường, bị khinh rẻ trong gia
đình, tập thể, trong nhân dân, trong xã hội.
+ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ
của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 của BLHS. Hành
vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho một trong những quan hệ xã hội đã được xác định. Như vậy, không phải mọi
quan hệ xã hội đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ quan hệ xã hội được cụ thể hóa
4
trong những quy phạm pháp luật hình sự và bị hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho xã hội xâm phạm mới bị coi là khách thể của tội phạm.
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111, Chương XII – Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Cụ thể, Tội hiếp dâm nằm trong nhóm

“Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người”. Trong trường này, thì khách
thể của tội phạm là quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ - cụ
thể là danh dự, nhân phẩm của B. Ngoài ra, khách thể của tội hiếp dâm còn có thể là sức
khỏe, tính mạng của họ; trật tự an toàn xã hội.
Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa về nhiều mặt, kể cả trong công tác
lập pháp và trong thực tiễn áp dụng. Việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật
hình sự, đặc biệt là các quy phạm phần các tội phạm đều phải bắt đầu bằng sự xác định
phạm vi những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
+ Khi xâm phạm khách thể bao giờ tội phạm cũng tác động đến đối tượng nhất định.
Tuy gần gũi với khách thể nhưng đối tượng tác động của tội phạm khách khách thể. Đối
tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội
tác động để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Các bộ phận của khách thể có thể bị tác động là:
- Chủ thể của các quan hệ xã hội;
- Nội dung của các quan hệ xã hội: Là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ xã hội;
- Đối tượng của các quan hệ xã hội: Là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng
như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại.
Con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ
thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội đó có những
quan hệ xã hội chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của
con người. Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này. Các tội phạm được quy
định trong Chương XII BLHS đều có tác động là con người. Những hành vi phạm tội của
nhóm này có thể là hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây tổn hại đến sức khỏe hoặc
là hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Trong tình huống trên, đối
tượng tác động của tội phạm là con người – B là con người đang sống, đang tồn tại trong
thế giới khách quan vói tư cách là chủ thể của quyền sống, quyền được tôn trọng về danh
dự, nhân phẩm. Tóm lại, hành vi của 4 tên A, N, V, Q làm biến đổi tình trạng bình thường
của B, là hành vi xâm phạm trái pháp luật quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm của
B.

III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Giải thích rõ tại sao.
Quá trình áp dụng pháp luật để xử lý đối với các trường hợp phạm tội “Hiếp dâm”,
theo quy định tại Điều 111 BLHS hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác
định đây có phải là tội phạm cấu thành vật chất hay tội phạm có cấu thành hình thức. Và
để xác định tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm
hình thức, chúng ta phải căn cứ vào tầm quan trọng của khách thể cần bảo vệ và yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Có thể chia cấu thành tội phạm thành hai loại: Cấu
thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức.
- Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu bắt buộc là: Dấu
hiệu hành vi, dấu hiệu hậu quả và dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
5

×