Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bình Dương.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 137 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………… 1
Chương 1: Nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trẻ……………
10
1.1. Nguồn nhân lực trẻ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ…10
1.2 . Đặc điểm và những yếu tố tác động, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn
nhân lực trẻ ở nước ta hiện nay…………………………….28
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương………39.
2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế – xã hội ở tỉnh Bình Dương40
2.2.Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương hiện nay
45
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương………………………88
3.1. Quan điểm và phương hướng bồi dưỡng , phát huy nguồn nhân lực tre88
3.2. Một số giải pháp chủ yếu: ……………………32
KẾT LUẬN……………………………………………123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………126
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa” [56, tr.13]. Ngày nay
hơn lúc nào hết, yếu tố con người có tầm quan trọng đặc biệt, là nền tảng sức
mạnh của sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Một đất nước chỉ có
thể phát triển vững mạnh khi có nguồn nhân lực chất lượng cao đủ sức giải
quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển. Do vậy, đối tượng khai thác
đồng thời là mục tiêu và động lực phát triển giờ đây đang được tập trung vào
chính bản thân con người, và thang giá trị của sự phát triển xã hội được đo bằng
giá trị con người với chất lượng nguồn lực con người không ngừng được nâng


cao.
Nói đến nguồn lực con người, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nguồn lực
thanh niên. Người đã từng nói : “ Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một
phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng
đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình”.[55,
tr.26].
Như vậy, việc xây dựng và phát triển một xã hội hiện đại phụ thuộc vào sự
phát triển con người và tổ chức hoạt động của họ. Các nguồn lực tài chính, tự
nhiên, viện trợ nước ngồi, cũng như thương mại quốc tế… đều đóng vai trị
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Song khơng có nguồn lực nào quan trọng
hơn nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực trẻ. Nguồn lực này càng đặc
biệt quan trọng đối với Việt Nam, khi nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước công nghiệp hiện đại.

1


Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đơng Nam Bộ. Từ khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta có chủ trương mở cửa hợp tác kinh tế và giao lưu
văn hố với các nước qua chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Cùng với một
số tỉnh, thành phố phát triển mạnh trong cả nước, Bình Dương đang là trọng
điểm phát triển kinh tế với nhiều khu cơng nghiệp có quy mơ lớn được xây dựng
và đi vào hoạt động có hiệu quả, đồng thời cịn nhiều dự án đang bắt đầu thực
thi. Chính vì vậy, có thể nói Bình Dương đang là một trong những trung tâm
kinh tế, văn hoá, khoa học lớn của đất nước, một trong những lá cờ đầu của đổi
mới kinh tế đang đóng góp tích cực vào sự phát triển đất nước. Cũng do đó, nhu
cầu phát triển nguồn nhân lực ở Bình Dương trở nên bức xúc, cần phải nghiên
cứu những vấn đề lý luận và tìm tịi những giải pháp thực tiễn để phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ..

Nghiên cứu nguồn nhân lực dựa trên cơ sở lý luận triết học là vấn đề con
người và phát huy vai trò nhân tố con người trong chủ nghĩa xã hội, được hình
dung cụ thể trong lĩnh vực lao động, quản lý xã hội, chính sách và cơ chế hoạt
động của chính sách đó. Trên phương diện này, việc nghiên cứu di sản tư tưởng
của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí
Minh trở nên rất cần thiết. Nguồn lực con người được phát huy không chỉ là
động lực trực tiếp mà còn là mục tiêu của đổi mới ở nước ta. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII ( 1996) đã xác định : “ Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Vấn đề đặt ra
là làm thế nào để con người có được vai trò và bằng cách nào để phát huy được
vai trò nhân tố con người cho mục tiêu phát triển trên. Đó là câu hỏi lớn đã và
đang đặt ra địi hỏi tìm lời giải đáp.
Hiện nay, ở nước ta nói chung và Bình Dương nói riêng đang đứng trước
mâu thuẫn rất lớn, đó là cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi chất lượng nguồn

2


nhân lực cao, nhất là nguồn nhân lực trẻ. Nhưng hiện trạng chất lượng nguồn
nhân lực nước ta còn thấp, số lao động có chun mơn được đào tạo rất ít, đa số
lao động khơng có tay nghề, cho nên chỉ lao động phổ thơng là chính. Ngược lại,
nhiều trường hợp có trình độ, thậm chí có trình độ cao nhưng lại không được sử
dụng đúng chỗ, do thế không phát huy được hiệu quả, hoặc hiệu quả chưa cao.
Những chính sách và cơ chế quản lý của chúng ta lại khơng đồng bộ, thậm chí
cịn lạc hậu so với cuộc sống. Vậy cần có những giải pháp nào để khắc phục tình
hình khó khăn này? Đó là chưa kể đến năng lực dự báo chính xác về sự phát
triển của nền kinh tế tri thức, về xu hướng phát triển nguồn nhân lực trong bối
cảnh xã hội thông tin, tồn cầu hố kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ với gia tốc lớn.
Những lý do đó cho thấy việc nghiên cứu để vạch ra cơ sở khoa học cho việc bồi
dưỡng phát huy nguồn lực con người , mà đặc biệt là nguồn nhân lực thanh niên

trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Bình Dương là vấn đề cấp thiết,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ở Bình Dương” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, nguồn lực con người trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố là
vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều cơng trình và
bài viết về vấn đề này được cơng bố trên nhiều tạp chí chun ngành. Nó trở
thành một trọng điểm trong chương trình khoa học cơng nghệ cấp nhà nước,
chương trình KX-07 mà sản phẩm tổng hợp của nó đã được cơng bố trong cuốn
sách “ Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá” do GSVS Phạm Minh Hạc làm chủ biên ( NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996). Gần
đây, chương trình KX- 05 giai đoạn 2000 – 2005 tiếp tục nghiên cứu về văn hoá,

3


con người và nguồn nhân lực. Các chương trình nghiên cứu này đã thu được một
số kết quả, đồng thời cũng gợi mở những vấn đề mới cần được triển khai, nghiên
cứu, đặc biệt là phải gắn nghiên cứu con người với nghiên cứu văn hố nhằm
mục đích thực tiễn là xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng và phát
triển nhân tài đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hố, hiện đại hố .
Một số cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến phương hướng phát triển nguồn
nhân lực. Chẳng hạn, với đề tài “ Nghiên cứu nguồn nhân lực với phương pháp
tiếp cận trong điều kiện mới”, Nghiên cứu con người: đối tượng và phương
hướng chủ yếu, Niên giám nghiên cứu số 1, GS. Nguyễn Minh Đường cho rằng
vấn đề phát triển nguồn nhân lực cần được nghiên cứu trên quan điểm hệ thống,
cần được tiến hành trên cả ba mặt: phát triển nhân cách, phát triển sinh thể, đồng
thời cần tạo ra môi trường thuận lợi cho nguồn nhân lực phát triển. Trong chuyên

đề “Để có nguồn nhân lực cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong
thế kỷ XXI”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Hà Nội, 2003, GS.TS. Nguyễn Trọng
Chuẩn đã phân tích đặc điểm bước chuyển của thế giới từ kinh tế công nghiệp
sang kinh tế tri thức, tác giả nhấn mạnh

“ cơng cuộc phát triển đất nước

đang địi hỏi chúng ta có một tư duy mới, một cách làm mới và trước hết cần
phải chuẩn bị tốt một nguồn nhân lực mới. Nguồn nhân lực đó vừa phải đáp ứng
các nhu cầu của công cuộc chuyển đất nước sang nước công nghiệp hiện đại, lại
vừa phải từng bước đi dần vào kinh tế tri thức…”. Cũng trong kỷ yếu hội thảo
quốc tế, Hà Nội, 2003, với chuyên đề “ Nghiên cứu nguồn nhân lực ở Việt Nam:
khía cạnh kinh tế và văn hoá”, TS. Phạm Văn Đức cho rằng để tìm ra những
giải pháp khai thác và sử dụng nó một cách có hiệu quả, cần tiến hành nghiên
cứu nguồn nhân lực trong tính chiûnh thể trên các lĩnh vực kinh tế – kỹ thuật lẫn
khía cạnh văn hố – xã hội.

4


Trên nền chung của những nghiên cứu về con người và nguồn nhân lực, đã
có những tác giả đi sâu nghiên cứu về thanh niên. Trong những năm gần đây, đã
có các cơng trình như : “ Chính sách đối với thanh niên – lý luận và thực tiễn”. –
Nguyễn Văn Trung (chủ biên ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “ Tìm
hiểu định hướng giá trị của thanh niên trong điều kiện nền kinh tế thị trường” –
Thái Duy ( chủ biên) – chương trình KHCN cấp nhà nước – KX- 07; “ Nhiệm vụ
cơ bản của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước”- Th.Sỹ. Đồn Văn Thái, Nxb Thanh niên, Hà Nội ….
Một số cơng trình đề cập trực tiếp hoặc gợi mở những vấn đề nghiên cứu về
nguồn nhân lực thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất

nước như : “ Phát huy và phát triển nguồn nhân lực trẻ của đất nước phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Trần Thị Tâm Đan, tạp chí cộng sản, số
21- 1996 ; đề tài KTN, 95-01 : “ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với
việc tạo nguồn nhân lực trẻ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố” do
TS. Phạm Đình Nghiệp làm chủ nhiệm…, các tác giả nói tới vai trị của nguồn
nhân lực trẻ , tính thiết yếu của việc tạo ra và khai thác, sử dụng nguồn nhân lực
ấy.
Ngồi ra, cịn có các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ đã bảo vệ thành công
gần đây về đề tài nguồn nhân lực như các luận án của Nguyễn Ngọc Sơn
(2000); Đoàn Văn Khái ( 2000); Nguyễn Thanh ( 2001)… Trong các luận án đó
các tác giả đã luận chứng một cách có hệ thống vai trị của nguồn lực con người
với tư cách nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá ; đồng thời, làm rõ một số hướng cơ bản nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực con người ở nước ta. Đáng
chú ý nhất là luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Tú Oanh với đề tài “ Phát huy
nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở Việt Nam

5


hiện nay” ( 1999). Cơng trình nghiên cứu này đã phân tích vai trị, nhiệm vụ của
thanh niên đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta; lý giải
khả năng, triển vọng, phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển
nguồn lực thanh niên đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước…
Bên cạnh đó, cũng có những luận văn thạc sỹ đã đề cập đến sự phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta nói chung cũng như ở một số địa phương nói riêng như: “ Xu
hướng và giải pháp phát triển nguồn lực con người ở nước ta trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố” – Luận văn thạc sỹ triết học của Nguyễn Thị
Hồng Văn ( 1998); “ Phát triển nguồn lực con người trong công nghiệp hố,
hiện đại hố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”- Luận văn thạc sỹ triết học của

Nguyễn Phước Trọng ( 1998)….
Tuy nhiên các cơng trình trên cũng cịn ít, hơn nữa những khuyến nghị về
giải pháp và chính sách phát huy vai trò nguồn lực con người cần phải được
nghiên cứu sâu hơn, nhất là những cơng trình nghiên cứu trực tiếp về nguồn
nhân lực và nguồn nhân lực trẻ ở Bình Dương. Do đó, bằng sự cố gắng bước
đầu, qua phân tích thực trạng của việc bồi dưỡng, phát huy nguồn nhân lực trẻ ở
tỉnh, tác giả luận văn này đề xuất những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở tỉnh Bình Dương trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố .
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 - Mục tiêu :
Trên cơ sở làm sáng tỏ quan niệm về nguồn nhân lực trẻ, những yếu tố tác
động và ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực trẻ, luận văn tập trung đánh
giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương hiện nay và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình
Dương trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu:

6


Để đạt mục tiêu đề ra, luận văn hướng vào giải quyết nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về chất lượng nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực trẻ.
- Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trẻ trong những năm gần đây ở tỉnh Bình
Dương.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương hiện nay
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 . Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong

độ tuổi lao động từ 15 đến dưới 30
4.2. Phạm vi nghiên cứu :
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chất lượng nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh
Bình Dương trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối ,
quan điểm của Đảng ta về con người, về vị trí, vai trị nguồn nhân lực.
Luận văn tham khảo và kế thừa những thành tựu của một số nhà khoa học
về những vấn đề có liên quan đến luận văn, nhất là những cơng trình nghiên cứu
lý luận và tổng kết thực tiễn về thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp hệ thống hố,
khái qt hố; lơgic- lịch sử; phân tích và tổng hợp gắn với so sánh; kế thừa

7


những điều tra khảo sát xã hội học v.v…để xử lý các tài liệu lý luận và tài liệu
thực tiễn có liên quan nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hố các thành quả nghiên cứu lý luận của những người
đi trước về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực trẻ.
- Góp phần xác định những giải pháp, đặc biệt là giải pháp về giáo dục –
đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nguồn nhân lực trẻ ở tỉnh Bình Dương trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Những kết quả nghiên cứu đạt được của luận văn cung cấp một tài liệu
tham khảo cho việc giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học ở các trường cao

đẳng, đại học và dạy nghề…
- Luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý các
cơ quan ban ngành ở tỉnh Bình Dương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình. Đồng thời có thể tham khảo cho việc nghiên cứu đề xuất chiến lược về bồi
dưỡng, phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố ở tỉnh nhà.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.

8


Chƣơng 1

NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ
1.1. Nguồn nhân lực trẻ và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực trẻ.
1.1.1. Nguồn nhân lực trong hệ thống các nguồn lực của phát triển.
Trong nhiều năm trở lại đây vấn đề nguồn lực phát triển của một quốc gia,
dân tộc đang được đặc biệt chú ý nghiên cứu. Dưới dạng tổng quát, nguồn lực
được hiểu là toàn bộ những yếu tố đã, đang và sẽ có khả năng góp phần thúc đẩy
quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Người ta dựa vào những tiêu
chí khác nhau để phân loại nguồn lực: vật chất và tinh thần; kinh tế và xã hội,
v.v… Ở nước ta hiện nay đang tồn tại ít nhất năm nguồn lực thúc đẩy q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đó là : nguồn lực con người; tài nguyên thiên
nhiên ; cơ sở vật chất và khoa học – kỹ thuật; vị trí địa lý và nguồn lực nước
ngồi. Có thể xem xét các nguồn lực của sự phát triển này trong một hệ thống,
mỗi nhân tố trong hệ thống đó đều có đặc điểm vai trị riêng và có mối quan hệ
hữu cơ với các nhân tố khác. Nguồn lực con người nằm ở trung tâm của hệ thống

này, nó giữ vai trị quyết định đối với tồn bộ sự phát triển xã hội.
Nguồn lực con người còn được gọi là nguồn nhân lực, đó là vốn người, tài
nguyên con người. Hiện nay có nhiều quan niệm về nguồn lực con người. Ngân
hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là tồn bộ “ vốn người” ( thể lực, trí lực,
kỹ năng nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực con người được coi
như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên… Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại
đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

9


Liên hiệp quốc đưa ra khái niệm nguồn lực con người là tất cả những kiến
thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển đất nước.
Quan niệm này xem xét nguồn lực con người chủ yếu ở phương diện chất lượng
con người và vai trị sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội. Đây là yếu tố
quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội.
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học – cơng
nghệ cấp nhà nước “ Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế – xã hội” mang mã số KX – 07 (do GS. VS. Phạm Minh Hạc làm
chủ nhiệm), cho rằng, nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc…[37,tr.328]. Có ý kiến khác nêu ra
rằng, nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động,
mà là một tập hợp các yếu tố ( thể lực, trí lực, tâm lực…) của mỗi cá nhân và của
cả cộng đồng tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội. Theo đó, “ nguồn
lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con
người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội .[ 51.
tr.33]
Từ những quan niệm nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người không

chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn là một phức hợp
gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc của con người. Ngồi ra
cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn lực con người thơng qua tìm hiểu khái
niệm “ phát triển nguồn nhân lực”. Nếu dịch từ cụm từ tiếng Anh thì phát triển
nguồn nhân lực hay phát triển
Devolopment ( HRD),

nguồn lực con người là Human Resouce

còn phát triển con người nói chung là Human

Devolopment( HD). Trong khái niệm về phát triển con người ( HD), nguồn lực
con người được đề cập đến như một mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội,

10


như là chỉ tiêu về thành tựu kinh tế của dân tộc. Ngược lại, phát triển nguồn lực
con người ( HRD) có xu hướng tập trung vào các hoạt động, nhằm nâng cao khả
năng thực hiện các vai trò sản xuất của con người như trí tuệ, kỹ năng làm việc,
khả năng tổ chức lãnh đạo và quản lý…
Các quan niệm về nguồn lực con người như đã nêu trên tuy khác nhau về
ngôn từ và cách thể hiện, nhưng nhìn chung đều đề cập đến yếu tố tinh thần của
con người, phản ánh thể lực, trí lực và những phẩm chất tinh thần khác

( tâm

lực) ở con người, nhờ đó tạo ra sức mạnh với tư cách là một nguồn lực của sự
phát triển xã hội. Như vậy, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu “ Nguồn
lực con người” là tổng hợp toàn bộ các yếu tố thể chất và tinh thần của con

người, các hoạt động vật chất và tinh thần của họ đã đang và sẽ tạo ra năng lực,
sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Cần hiểu đúng nội hàm khái niệm “nguồn lực con người” để trên cơ sở đó
có định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng, phát triển, khai thác và sử dụng
nguồn lực con người, phát huy tốt tiềm năng con người, qua đó khai thác có hiệu
quả các nguồn lực khác vì mục tiêu phát triển. Như vậy, cần hiểu khái niệm “
Nguồn lực con người” với nội hàm rộng. Nó bao hàm số lượng dân cư và lao
động; tốc độ tăng dân số và lao động; cơ cấu dân cư và lao động; chất lượng dân
số và lao động, phản ánh qua trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức- tinh
thần, nghĩa là những năng lực và phẩm chất sinh lý – tâm lý – xã hội của con
người.
Xét trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế – xã hội nói
chung cũng như q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nguồn lực con người
ln đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trị quyết định khơng những đối với việc
phát huy mà cịn đối với tồn bộ sự phát triển xã hội. Điều này được thể hiện ở
các điểm sau :

11


Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật
chất – kỹ thuật, vị trí địa lý…là những khách thể, chịu sự khai thác, cải tạo của
con người và phục vụ cho nhu cầu , lợi ích của con người. Các nguồn lực này chỉ
tồn tại dưới dạng tiềm năng, muốn phát huy tác dụng và có ý nghĩa trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì các nguồn lực này phải được kết hợp với
nguồn lực con người, thơng qua hoạt động có ý thức của con người. Các nguồn
lực khác tự nó không thể trở thành nguồn lực. Trong các nguồn lực, chỉ có con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý thức để sử dụng các
nguồn lực khác và gắn các nguồn lực khác lại với nhau, tạo thành nguồn sức
mạnh tổng hợp, cùng tác động vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố .

Thứ hai, so với các nguồn lực khác, chỉ có nguồn lực con người mà cốt lõi
là trí tuệ mới là nguồn lực có tiềm năng vơ hạn, cịn các nguồn lực khác đều hữu
hạn. Tính vơ hạn của trí tuệ con người được biểu hiện ở chỗ nó có khả năng
không chỉ tự sản sinh về mặt sinh học, mà cịn tự đổi mới khơng ngừng, phát
triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo nuôi dưỡng và khai thác
nguồn lực con người một cách hợp lý, trong khi đó các nguồn lực khác có thể bị
khai thác cạn kiệt. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler đã nhận định “ tri
thức có tính chất lấy khơng bao giờ hết” [79, tr.41].
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh áp đảo so với các nguồn lực khác
một khi nó được vật thể hố, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển
như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh
tế thế giới vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Ở những nước cơng nghiệp phát
triển, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỷ lệ cao, yếu tố tri thức chiếm tới 65%
giá thành sản xuất và 35% giá trị sản phẩm. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt
đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo những máy móc “bắt chước” hay
“phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Sức mạnh to lớn của trí

12


tuệ con người đã làm thay đổi thang giá trị của các loại tài nguyên, các loại
nguồn lực, và ngày nay đối tượng khai thác đang được chuyển vào chính bản
thân con người. Nói cách khác, trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ
vai trị quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài
nguyên.
Thứ tư, con người với tất cả năng lực và phẩm chất tích cực của mình, bao
gồm trí tuệ, kinh nghiệm, kỹ năng, tính năng động sáng tạo, niềm tin và ý chí…,
thì tự mình có thể trở thành động lực của sự phát triển xã hội nói chung. Đối với
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, sự thành cơng của q trình này phụ
thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực

hiện của chủ thể lãnh đạo và quản lý, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn
của chính nước ta cho thấy, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố sẽ khơng
đạt được kết quả tốt, thậm chí thất bại, nếu khơng lựa chọn được mơ hình đúng,
các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể
của đất nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực khác. Điều này, một
lần nữa lại nói lên vai trị quyết định của nguồn lực con người – chủ thể trực tiếp,
hiện thực của toàn bộ q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Để làm rõ hơn quan niệm về nguồn nhân lực và việc nâng cao chất lượng
nguồn lực con người, có thể và cần phải phân tích và làm rõ hai phương diện cá
thể và xã hội của nguồn nhân lực.
1.1.2. Hai phương diện cá thể và xã hội của nguồn nhân lực
Nhìn từ góc độ tồn cầu cũng như mỗi quốc gia, quá trình phát triển của xã
hội đang được sắp xếp lại dựa trên những lợi thế của nguồn lực con người với
hàm lượng trí tuệ ngày càng tăng. Nhờ tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ
hiện đại mà tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm ngày một giảm đáng kể.

13


Những năm đầu của thế kỷ XX, nếu tỷ lệ này là 9/ 10, thì bước vào những năm
90 phần tỷ lệ đó đã giảm xuống chỉ cịn 1/5, nhưng khối lượng sản phẩm đạt
được đã tăng gấp 50 lần so với 80 năm về trước. Theo dự báo đến năm 2010,
phần tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn 1/10 [70, tr.148 ]. Điều này
chứng tỏ rằng đã và đang diễn ra quá trình chuyển từ dùng nhiều sức lao động
giản đơn sang lao động dùng nhiều trí tuệ hơn đểû sản xuất ra sản phẩm. Với xu
thế này, nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trở thành vũ khí cạnh
tranh chủ yếu của mỗi quốc gia.
Theo cách tiếp cận như vậy, quan niệm về nguồn nhân lực không đồng nhất
với nguồn lực. Dưới dạng tổng quát, nguồn lực được hiểu là một hệ thống các

nhân tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ có khả năng góp phần thúc đẩy
quá trình cải biến xã hội của một quốc gia dân tộc. Cịn nguồn nhân lực được
xem xét trên hai bình diện : “ số lượng ( số dân) và chất lượng con người, bao
gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất”
[36,tr.4], “ là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức
mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội”
[30,tr. 9]. Nói cách khác, “ đó là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng
sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng phát triển mới của con
người” [2, tr.14]. Phương diện cá thể của nguồn nhân lực được hiểu là những yếu
tố tạo thành cơ sở của hoạt động và cơ sở để phát triển của một con người với tư
cách là một cá nhân và trong tính chỉnh thể của đời sống xã hội khi những nhu
cầu sống của nó bộc lộ ra và được thực hiện. Đó là sự lành mạnh về thể lực, thể
chất, tức là sức khoẻ đảm bảo cho con người phát triển , trưởng thành một cách
bình thường hoặc có thể đáp ứng được những địi hỏi về sự hao phí các sức lực
thần kinh, bắp thịt trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp khác nhau, ở
những con người khác nhau. Những chỉ số này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mức

14


sống, điều kiện ăn , ở, làm việc, nghỉ ngơi, chữa bệnh mà xã hội đáp ứng cho
người lao động.
Nói thể lực là nói đến sức khoẻ, đây được coi là nguồn gốc của hạnh phúc,
tài sản của mỗi con người, mỗi quốc gia, là mục tiêu động lực chính để phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, là sức mạnh để cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Trí lực là yếu tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên tiềm lực học vấn, văn hố
tinh thần của con người. Nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con
người. Bởi vì, “ tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất yếu phải
thông qua đầu óc của họ” [60,tr. 409]. Trí lực là thành phần có vai trị ngày càng
to lớn, nổi bật trong sự phát triển nguồn lực con người. Đặc biệt trong kỷ nguyên

văn minh tin học ngày nay, nguồn nhân lực chỉ thực sự mạnh khi khai thác và sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn tiềm năng trí tuệ của nó. Do đó, nói đến nguồn
lực con người cần phải đặc biệt nhấn mạnh đến năng lực trí tuệ và trình độ tay
nghề.
Thể lực và trí lực của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thể lực
không khoẻ mạnh sẽ hạn chế lớn đến sự phát triển trí lực, trí tuệ của cá nhân và
của cộng đồng xã hội nói chung. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và
phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực
tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
“ Ngồi thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người còn là kinh
nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu
cầu và thói quen tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng”
[2,tr.15] vào việc tìm tịi, vào sự sáng tạo vì lợi ích của cá nhân, của cộng đồng
và của toàn xã hội. Như vậy, cấu thành nguồn lực con người xét từ phương diện
cá thể cũng như xã hội, đó là một tổng hợp các năng lực và giá trị về sức khoẻ (
thể lực), trí lực ( trí tuệ) và đạo đức, nhân cách ( tâm lực).

15


Nói đến nguồn lực con người khơng chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khoẻ,
mà cần phải nói đến nhiều yếu tố khác cấu thành nguồn nhân lực, trong đó có
những giá trị xã hội được kết tinh thơng qua bản thân từng con người, thông qua
thực tiễn cách mạng và cải tạo toàn xã hội. Một cách hiểu đúng đắn, tồn diện về
nguồn lực con người- địi hỏi phải quan tâm thích đáng cả mặt bằng lẫn đỉnh cao
dân trí, nhưng cần phải đặc biệt coi trọng mặt đạo đức, nhân cách, lý tưởng của
con người… làm nên giá trị của nguồn lực con người. Phát triển dân trí, nhân tài,
nhân lực phải dựa trên nền tảng chung là nhân cách. Trình độ phát triển của nhân
cách bảo đảm cho con người thực hiện tốt chức năng xã hội của nó; phản ánh
khả năng sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn xã hội của nó. Do đó,

giáo dục – đào tạo phải theo hướng cân đối giữa dạy chữ, dạy nghề và dạy
người, trong đó dạy người là mục tiêu cao nhất.
Theo ý nghĩa đó, nguồn lực con người bao chứa trong đó tồn bộ sự phong
phú, sự sâu sắc, sự đổi mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực
hành, tổ chức và quản lý, năng lực chun mơn và tính tháo vát trong cơng việc.
Nói cách khác, nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển con
người. Đó là tất cả những gì thuộc về hành trang mà nó có được nhờ sự hỗ trợ
của cộng đồng xã hội và sự chuẩn bị chủ động, tích cực của bản thân nó để bước
vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự tiến bộ và phát triển. Điều đó cũng được
xác định đối với nguồn lực con người trong phạm vi và trên qui mơ tồn xã hội.
1.1.3. Chất lượng nguồn nhân lực. Quan niệm về nguồn nhân lực trẻ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.
Chất lượng nguồn nhân lực
Nói chất lượng nguồn nhân lực, trước hết phải nói đến chất lượng phát triển
con người.

16


Con người tồn tại trong xã hội, nhưng nhân tố người, vai trị trung tâm và
quyết định của nó lại khơng tự nhiên có mà phải tạo nên, phải được phát triển.
Con người luôn luôn là nhân tố hàng đầu trong các nhân tố tham dự vào phát
triển, bằng hoạt động và giao lưu của mình, thơng qua giáo dục, con người được
phát triển . Sự phát triển người là sự phát triển về thể xác và tinh thần, tích tụ
tiềm năng, phát triển năng lực, kỹ xảo,…, là sự phát triển ở các cấp độ. Nó bao
hàm tất cả mọi sự lựa chọn của con người trong xã hội ở mọi giai đoạn phát triển
. Nó quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế, đến việc phân phối thu nhập, đến
những nhu cầu căn bản cũng như đến những khát vọng chung. Sự phát triển con
người có cơ sở hiện thực khách quan từ xã hội, từ mục tiêu lâu dài của sự phát

triển xã hội. Nó tạo ra sự phát triển xoay quanh con người, chứ không phải con
người xoay quanh sự phát triển. Theo cách tiếp cận này, khái niệm “ phát triển
con người” có thể trình bày theo quan điểm hai loại vốn mà ngân hàng thế giới
đưa ra: vốn người và vốn vật chất, trong đó sự phát triển vốn người quyết định sự
phát triển của mọi vốn khác.
Báo cáo về sự phát triển con người của UNDP 1994 định nghĩa: “ phát triển
con người là sự phát triển của con người, vì con người và do con người. Sự phát
triển của con người có nghĩa là đầu tư vào các khả năng của con người, hoặc vào
giáo dục, sức khoẻ, hoặc là kỹ năng nghề nghiệp, để họ làm việc một cách có
hiệu quả và sáng tạo. Sự phát triển vì con người có nghĩa là đảm bảo chắc chắn
rằng sự tăng trưởng kinh tế mà họ tạo ra được phân phối rộng rãi và cơng bằng”.
Theo cách tiếp cận này thì khái niệm phát triển con người bao hàm một nội dung
rộng rãi: “ phát triển con người là đưa toàn bộ cấu trúc con người chuyển dịch đi
lên, chuyển dịch về chất lượng theo thời gian và không gian, tạo nên sự phát
triển cả về số lẫn về chất của bộ phận quyết định trong lực lượng sản xuất, đưa
toàn bộ xã hội, tồn bộ nền kinh tế ln ln chuyển động không ngừng theo

17


hướng phát triển ngày càng tốt đẹp hơn. Đan kết vào sự chuyển động đó, yếu tố
con người ngày càng có thêm cơ hội, có thêm điều kiện để phát triển, luôn luôn
mở ra các triển vọng mới” [81, tr.156]. Sự phát triển con người và sự tăng trưởng
kinh tế có mối liên hệ mật thiết. Con người đóng góp cho tăng trưởng kinh tế,
ngược lại, sự tăng trưởng kinh tế làm cho cuộc sống của con người được cải
thiện tốt hơn. Ông Federico Mayor, tổng giám đốc tổ chức khoa học, văn hoá của
Liên hiệp quốc (UNESCO) khái quát rất cơ đọng( trên tạp chí người đưa tin
UNESCO số 9/1994) rằng: “ Một sự phát triển nhân bản bền vững, đó là định
nghĩa duy nhất có thể chấp nhận được đối với mục tiêu chung của chúng ta. Nó
phải trước hết cho phép làm thức dậy toàn bộ tiềm năng của kẻ vừa là vai diễn

đầu tiên, vừa là kẻ hưởng thụ cuối cùng của nó: đó là con người”. Mục tiêu của
sự phát triển con người có nghĩa là tạo cho con người một cuộc sống lâu dài,
khoẻ mạnh và có tính sáng tạo. Do vậy, có thể nói, nội dung, mục tiêu của sự
phát triển con người chính là chất lượng phát triển con người, cụ thể hơn đó là
nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Về chất lượng cuộc sống của con người, GS. Phạm Minh Hạc đã nêu ra các
tiêu chí:
1. Thu nhập cao
2. Giáo dục tốt
3. Chuẩn cao về sức khoẻ và dinh dưỡng
4. Ít nghèo khổ
5. Mơi trường trong sạch
6. Bình đẳng hơn về cơ hội
7. Cá nhân tự do hơn
8. Cuộc sống văn hoá phong phú hơn [35, tr. 60]

18


Chất lượng phát triển con người, đó là “ phát triển con người toàn diện
trong sự phát huy cá nhân con người, trên bình diện tinh thần đạo đức, vật chất.
Quá trình phát triển người phải quán triệt bản chất và ý nghĩa của những giá trị
nhân văn, nhân đạo. Nguyên tắc nhân văn, nhân đạo chỉ đạo con đường phát
triển. Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh
thần, giá trị đạo đức, giá trị thể chất, vật chất” [66,tr. 25-26 ]. Phát triển người
chính là phát triển đạo đức và phát triển trí tuệ, tay nghề. Đây là những yếu tố
khơng thể tách rời nhau.
Như vậy, “ Phát triển người là phát triển toàn bộ nhân cách và từng bộ phận
trong cấu trúc nhân cách, phát triển cả năng lực vật chất và năng lực tinh thần,
tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả đạo đức và tay nghề, cả tâm hồn

và hành vi, từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng khác…” [62, tr.
156 ].
Quan niệm về nguồn nhân lực trẻ
Nguồn nhân lực trẻ hay cịn gọi là nguồn nhân lực thanh niên, muốn tìm
hiểu nguồn nhân lực này trước hết phải xem xét khái niệm thanh niên .
Thanh niên là thời kỳ kế tiếp của lứa tuổi thiếu niên, là một giai đoạn phát
triển điển hình về thể chất và tâm lý của con người. Chính vì vậy, thanh niên là
một thành phần đặc biệt của cơ cấu xã hội. Muốn tìm hiểu và xác định phạm trù
này cần có sự thống nhất về khoảng tuổi, về đặc điểm chung và riêng của họ, về
tính chất xã hội, về các quan hệ cơ bản giữa họ với cộng đồng, đồng thời phải
tính đến những quy luật bên trong của sự phát triển về thể chất và tinh thần của
họ.
Dựa vào nội dung và giác độ nghiên cứu mà có nhiều cách tiếp cận khác
nhau về thanh niên. Tập trung lại có thể rút ra một số nội dung tổng quát về
quan niệm thanh niên như sau:

19


Thứ nhất, thanh niên với tư cách là con người cá thể từ 15 đến 30 tuổi, đang
trưởng thành, có khả năng phát triển về trí tuệ và nhân cách mạnh mẽ cùng với
sự phát triển nhanh chóng về thể chất. Thanh niên là thời kỳ đầu của người lớn.
Đó là những năm tháng sung sức, đẹp đẽ nhất của đời người, có thể phân biệt rõ
rệt nhất với thiếu niên, nhi đồng ở lứa tuổi ấu thơ, với những người đứng tuổi (
trung niên ) và những người đã bước vào tuổi già. Đứng ở góc độ sinh học, lứa
tuổi thanh niên đã phát triển hoàn thiện về mặt thể chất. Trong những giai đoạn
của một đời người thì tuổi thanh niên là biểu tượng về sự trẻ trung, mạnh mẽ,
hoạt động, hy vọng và ước mơ. Đây chính là giai đoạn thanh niên tự khẳng định
vai trò, vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội. Tuy vậy, thanh niên cịn có
những hạn chế nhất định, bên cạnh sự mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, là tính

bồng bột, thiếu kinh nghiệm, thậm chí hay liều lĩnh… có sự tiềm ẩn những khả
năng to lớn, những yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen trong mỗi thanh niên.
Nhìn từ góc độ này, có thể thấy một mâu thuẫn trong sự phát triển của thanh niên
là con người sinh lý phát triển và hoàn chỉnh nhanh hơn con người xã hội. Đó là
mâu thuẫn của q trình tự phát triển trong bản thân họ với những phẩm chất xã
hội chưa chín muồi. Để giải quyết tốt mối quan hệ này thì giáo dục và hướng dẫn
có vai trị đặc biệt quan trọng. Quan điểm chỉ đạo giáo dục và hướng dẫn ở đây
là phải chú ý đáp ứng những nhu cầu hợp lý về tồn tại và các hoạt động mang
tính đặc thù về lứa tuổi, giới tính, ăn, mặc, tình yêu, tình bạn… [ 64, tr.34].
Thứ hai, thanh niên như một thế hệ có quan hệ mật thiết với các thế hệ trong
cộng đồng xã hội, thừa hưởng những di sản của quá khứ và hiện tại. Các tiêu chí
xác định sự phát triển của thanh niên là: thể lực, học vấn, lối sống, hành vi và
hoạt động. Căn cứ vào đó, người ta có thể xác định và đánh giá thanh niên trong
hiện tại và tương lai.

20


Thế hệ trẻ cũng mang những đặc trưng riêng: khao khát lý tưởng, hướng tới
các giá trị xã hội nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm và sự từng trải để có cách suy
xét, đánh giá các giá trị, lựa chọn giá trị theo tinh thần duy lý. Những con người
đang trưởng thành này sống nặng về tình cảm hơn lý trí. Họ là nhóm dân cư có
trình độ học vấn tương đối cao, năng động, nhạy cảm nên dễ dàng tiếp nhận và
hội nhập vào cái mới. Thanh niên có đặc điểm hay di chuyển sự chú ý, thay đổi
hứng thú, sở thích, dễ dàng tiếp thu hệ tư tưởng này hoặc hệ tư tưởng khác, kể cả
tích cực và tiêu cực. Sự nhạy cảm, xúc cảm trực tiếp mạnh hơn và đi trước năng
lực phân tích bằng lý trí, khoa học về mọi vấn đề của cuộc sống và bản chất của
con người xã hội.Vì vậy, có thể dẫn họ đến những mâu thuẫn, xung đột thế hệ về
tâm lý và tính cách xã hội. Do bị chi phối bởi các quan niệm khác nhau về trình
độ học vấn và kinh nghiệm sống… nên với quá khứ, thanh niên dễ có cách nhìn

và đánh giá xuất phát từ cảm hứng phê phán, thậm chí có thể phiến diện và cực
đoan. Với tương lai, thanh niên thường lý tưởng hoá, hy vọng, say mê và hay
tưởng tượng, nhưng đồng thời cũng dễ chán nản, thất vọng và hoài nghi. Để khắc
phục tình trạng này, cần phải áp dụng hàng loạt các biện pháp giáo dục đạo đức
và quản lý xã hội, đặc biệt trong giáo dục truyền thống và đối thoại với thanh
niên cần phải theo nguyên tắc dân chủ, tôn trọng suy nghĩ độc lập và tự do tư
tưởng của thanh niên, tin cậy họ, mặt khác cần lôi cuốn và thuyết phục, giúp họ
tự diều chỉnh. Đồng thời, cần chú ý mối quan hệ giữa thanh niên với lớp người đi
trước, nhằm động viên, phát huy thế mạnh và tiềm lực của thanh niên, giúp họ
biết kế thừa, phát huy truyền thống của dân tộc. Tránh cho thế hệ thanh niên có
thái độ kiêu ngạo, tự mãn, tự ngộ nhận và huyễn hoặc bản thân cũng như trạng
thái mặc cảm tự ti, an phận và thụ động. Đó là tất cả nghệ thuật và thành công
của giáo dục và quản lý xã hội đối với thanh niên [ 64, tr. 35].

21


Thứ ba, Thanh niên với tư cách là một nhóm xã hội – nhân khẩu đặc thù,
một tầng lớp xã hội đặc thù. Theo số liệu thống kê của nhiều nước trên thế giới,
thì số người ở độ tuổi thanh niên thường chiếm từ 25%-30% dân số quốc gia. Ở
nước ta, số người ở độ tuổi thanh niên ( 15-30) chiếm trên 29% dân số cả nước
[82, tr. 9].
Xét theo cấu trúc xã hội, thanh niên là một đối tượng rất đa dạng, bao gồm
các nhóm, các đối tượng khác nhau: thanh niên công nhân, thanh niên nông dân,
thanh niên học sinh, sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên các dân tộc, thanh
niên các tôn giáo, thanh niên công an, thanh niên bộ đội… Mỗi nhóm xã hội đặc
thù này của thanh niên đều có những nét đặc trưng riêng biệt, tuỳ theo đặc diểm
nghề nghiệp và môi trường hoạt động khác nhau. Vì vậy họ cũng có những nhu
cầu, nguyện vọng khác nhau. Số lượng của mỗi nhóm xã hội thanh niên trong cơ
cấu dân số và lao động xã hội cũng như trong bản thân cơ cấu lực lượng thanh

niên cũng rất khác nhau. Điều đó phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia
và xã hội, bởi cơ cấu đó phần nào do ảnh hưởng và tác động của sự phát triển
của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Ở nước ta hiện nay trong q
trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, số lượng thanh niên cơng nhân có
tăng lên đáng kể, song số lượng thanh niên nông thôn vẫn cịn chiếm tỉ lệ cao. Vì
vậy trong chính sách hoạch định về thanh niên, xây dựng các chương trình, dự án
phát triển thanh niên, phát triển nguồn lực thanh niên, cần chú ý hướng về nông
thôn và xuất phát từ sự nhận thức đầy đủ những đặc diểm của thanh niên như đã
nói trên.
Nguồn lực thanh niên trong sự phát triển xã hội
Nếu con người là nguồn lực lớn nhất của sự phát triển xã hội, thì thanh niên
là bộ phận ưu tú, khởi sắc nhất cấu thành nguồn lực ấy. Với tư cách là lớp người
trẻ tuổi trong mỗi cộng đồng, một lực lượng chiếm số đông trong dân cư, thanh

22


niên trở thành vấn đề lớn của mỗi quốc gia dân tộc, là vấn đề mang tính thời đại
của nhân loại.
Kết quả phân tích số liệu thống kê cho thấy thanh niên là lực lượng lao động
chủ yếu trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt tập trung ở
những ngành lao động phức tạp, nặng nhọc, nơi khó khăn gian khổ, địi hỏi sức
trẻ như khai thác hầm mỏ, xây dựng, trên các cơng trình trọng điểm của nhà
nước, các cơng trình thuỷ lợi, lao động ở các nông, lâm trường v.v… Dù ở đâu,
trên địa bàn nào, thanh niên đều là lực lượng tích cực, đi đầu trong việc phát huy
sáng kiến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đóng góp tích
cực cho sự thành cơng của nhiều cơng trình lớn có u cầu kỹ thuật cao như
trong các ngành quốc phịng, bưu chính viễn thơng, điện lực, xây dựng, giao
thông vận tải, nông nghiệp. Bộ phận ưu tú của thanh niên có tiềm năng trí tuệ
cao, có tầm nhìn rộng, lao động giỏi, dám đương đầu với mọi thử thách, nhiều

nhà doanh nghiệp trẻ, có tài đã tự vươn lên, khẳng định mình và làm ăn thành
đạt. Khoảng 30% trong số những người mới giàu lên hiện nay ở dưới tuổi 30, đó
là lực lượng quý báu quyết định chiến thắng của thanh niên Việt Nam, nó bắt
nguồn sâu xa từ truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc và truyền
thống cách mạng. Thanh niên khơng chỉ thể hiện sức mạnh của mình trên mặt
trận chiến đấu anh dũng chống quân thù, mà tài năng sáng tạo của họ còn thể
hiện trên mọi lĩnh vực của cuộc sống lao động, học tập, thể dục thể thao, văn hố
văn nghệ…
Tiến trình phát triển của xã hội ta và kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên
thế giới đều chỉ ra rằng, thanh niên ln ln đóng vai trị xung kích và là nguồn
lực rất quan trọng để phát triển xã hội. Dân tộc muốn tồn tại và phát triển, phải
quan tâm đầu tư cho thanh niên. Cần phải xem đây là nguồn lực có ý nghĩa quyết

23


định trong q trình phát huy nguồn tiềm năng vơ giá – con người- nhằm đưa đất
nước tiếp tục phát triển vững chắc.
Chất lượng của nguồn lực thanh niên thể hiện ở lớp thanh niên mới “ vừa
hồng vừa chuyên”. Họ có trình độ học vấn, có kiến thức chun môn, được đào
tạo về nghề nghiệp và đặc biệt là có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, có thể lực tốt
và lối sống lành mạnh.
Nguồn lực thanh niên không được chỉ nhìn nhận ở số lượng thanh niên
chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân cư và lực lượng chủ yếu trên các lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội, mà cịn được nhìn nhận là một lực lượng xã hội giàu
tiềm năng phát triển. Mác đã từng khẳng định rằng : “ Tương lai của giai cấp
công nhân, và do đó, của cả lồi người, hồn tồn tuỳ thuộc vào việc giáo dục
thế hệ công nhân đang lớn lên” [59, tr. 262 ]. Như vậy, nguồn lực thanh niên là
một bộ phận quan trọng của nguồn lực con người nói chung. Đó là nguồn tài sản
vơ giá của đất nước hôm nay và mai sau.

Bước vào thế kỷ XXI, chất xám đã dần trở thành một nguồn lực quan trọng
của xã hội. Thanh niên với ưu thế về sức khoẻ( thể lực), phẩm chất tâm lý( tư
duy, trí nhớ, khí chất…) và trình độ chun mơn kỹ thuật- văn hố,v.v… sẽ là
nguồn lực tốt nhất có thể đáp ứng được sự biến đổi của nội dung và tính chất của
lao động dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ ( thay đổi nghề, hoặc tiếp
cận với công nghệ mới, kỹ thuật cao). Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước ngày càng đi vào chiều sâu và phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa càng cần đến lớp thanh niên với tư cách là nguồn nhân lực hết sức quan
trọng cho hiện tại và tương lai của đất nước.
1.2. Đặc điểm và những yếu tố tác động, ảnh hƣởng tới chất lƣợng
nguồn nhân lực trẻ ở nƣớc ta hiện nay.
1.2.1. Đặc điểm nguồn nhân lực trẻ.

24


×