Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Vai trò của ổn định xã hội đối với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.67 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TRẦN THỊ LAN





VAI TRÕ CỦA ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













HÀ NỘI - 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TRẦN THỊ LAN





VAI TRÕ CỦA ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐẶNG HỮU TOÀN







HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. VAI TRÕ CỦA ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 9
1.1. Khái niệm ổn định xã hội 9
1.1.1. Những nguyên tắc tiếp cận 9
1.1.2. Khái niệm ổn định xã hội 19
1.1.3. Về kết cấu của ổn định xã hội 21
1.1.4. Vai trò của ổn định xã hội 25
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa - quan hệ biện chứng giữa ổn
định xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa 28
1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 28
1.2.2. Quan hệ biện chứng giữa ổn định xã hội và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa 31
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 39
2.1. Thực trạng vai trò ổn định xã hội đối với công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
đến nay 39
2.1.1. Thực trạng vai trò ổn định xã hội đối với công nghiệp hóa hiện
đại hóa từ khi bắt đầu đổi mới đến ổn định tình hình mọi mặt
(1986 - 1996) 39
2.1.2. Thực trạng vai trò ổn định tình hình kinh tế - xã hội đến việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1996 đến nay 44
2.2. Thực trạng một số vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có
ảnh hưởng đến trạng thái của ổn định xã hội 51
2.2.1. Những thuận lợi và thách thức chủ yếu trong giai đoạn hiện nay
liên quan đến ổn định xã hội và đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa 51
2.2.2. Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ảnh hưởng đến ổn định xã hội 59
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 76
3.1. Một số phương hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò của ổn
định xã hội đối với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay 76
3.1.1. Phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 76
3.1.2. Xây dựng môi trường chính trị - xã hộ lành mạnh trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 82
3.1.3. Giải quyết triệt để các vấn đề xã hội nảy sinh trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 85
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của ổn định xã
hội đối với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay 88

3.2.1. Đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ, đặc biệt là dân chủ
cơ sở 88
3.2.2. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, hoàn thiện hệ thống
chính trị cơ sở 90
3.2.3. Tập trung xử lý và giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện, tố
cáo, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, kỷ cương xã hội, thực
thi pháp luật 96
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã vượt qua
giai đoạn thử thách gay go, phức tạp và đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử quan trọng trên nhiều lĩnh vực.Về cơ bản, chúng ta đã thực hiện
thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực; sức
mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường; độc lập, tự chủ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững; thế và lực của nước ta đẩy mạnh hơn nhiều; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan
trọng để dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Giờ đây, nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển
đất nước, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh
và bền vững, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Những nhận định trên đây của Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ khái quát những thành tựu chủ yếu và vạch ra phương
hướng vận động tiếp theo cho quá trình đổi mới, mà qua đó, còn chỉ rõ những

thuận lợi và khó khăn của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình trạng của
một nước kém phát triển để bước vào nhóm đang phát triển có thu nhập trung
bình, điều này mới chỉ có ý nghĩa là Việt Nam đã tái thiết lập được trạng thái
ổn định, song trạng thái ổn định đó chưa thực sự vững chắc, chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển xã hội ở trình độ cao.
Hiện nay nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức
nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
2
trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu
tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân
vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những
biểu hiện “xa rời” mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” có những diễn biến phức tạp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng,
miền ngày càng lớn. Với những biểu hiện như trên thì hiện nay, nước ta vẫn
còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, cản trở sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, vấn đề giữ vững
và phát huy vai trò của ổn định xã hội hiện nay được đặt ra một cách cấp thiết,
vừa nhằm củng cố, bảo vệ những thành quả của sự nghiệp đổi mới, vừa nhằm
tăng cường những điều kiện cơ bản, cần thiết cho quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về mặt thực tiễn chúng ta đều thấy rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
có tác động tích cực làm vững chắc thêm trạng thái ổn định xã hội, nhưng
đồng thời quá trình công nghiệp hóa cũng làm nảy sinh những vấn đề mới liên
quan trực tiếp đến trạng thái ổn định xã hội. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
hiện nay ở nước ta đòi hỏi vừa phải giữ vững ổn định xã hội, vừa tiến hành

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội lại càng củng cố, tăng cường ổn định xã
hội. Do vậy mà về mặt nhận thức, chúng ta có thể thống nhất rằng: Ổn định
xã hội là điều kiện cần thiết để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Do
vậy, tác giả luận văn đã chọn nội dung nghiên cứu “Vai trò của ổn định xã
hội đối với đẩy mạnh công nghệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”.
3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Từ đầu những năm 60 đến nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn được xác định là nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề ổn định xã hội được chính thức
đề cập từ những năm 80. Đại hội V của Đảng đã đề ra mục tiêu là về cơ bản
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Đặc biệt
đến đai hội VI, đại hội mở đầu sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, ổn định kinh tế
- xã hội được xác định: nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên. Tới Đại hội VII: chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã được thông qua. Trong nghị quyết
Đại hội lần thứ VIII của Đảng, ổn định xã hội được xác định là điều kiện, tiền
đề để đẩy mạnh một bước quá trình công nghiệp hóa, hiện đị hóa đất nước.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI tại Đại
hội IX của Đảng, Đảng ta đã xác định “chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Đảng đã xác định ổn định xã hội đã diễn ra cả trong
nước và quốc tế đối với chúng ta trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Vì vậy Đảng đã xác định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với

phát triển kinh tế tri thức”, quan điểm này được Đảng tiếp tục khẳng định tại
Đại hội XI: “Phát triển khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế tri thức, góp phần tăng nhanh
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển
nhanh, bền vững của đất nước”.
Trên lĩnh vực nghiên cứu, một số đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ hay các
chương trình khoa học - công nghệ được triển khai trong những năm qua đã
4
giành được sự chú ý cần thiết để phân tích, lý giải, ý nghĩa vai trò của ổn định
xã hội đối với sự nghiệp đổi mới cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa như:
Lê Mạnh Hùng: Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
nội 1998. Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu thương mại: Khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở Châu Á - Nguyên nhân và bài học, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1998. Nguyễn Kế Tuấn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn Việt Nam con đường và bước đi. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội 2006. Chu Thái Thành: Khu công nghiệp, khu chế
xuất với vấn đề bảo vệ môi trường các tác động về mặt xã hội. Hội thảo khoa
học quốc gia tại Long An tháng 7 - 2006. Lê Du Phong (chủ biên): Thu nhập
đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây các khu công nghiệp,
khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ
lợi ích quốc gia, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007. Nguyễn Văn
Đặng (chủ biên): Phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2010, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
2007. Hoàng Ngọc Hòa: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2008.Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần văn Đoàn,
Ubrich Dornberg (đồng chủ biên): Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 2008. Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp Bộ: Khảo sát

đánh giá chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Hà Nội 2008. Đặng Kim Sơn: Kinh nghiệm quốc tế về
nông nghiệp, nông thôn, vùng dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đề tài cấp Bộ: Một số vấn đề xã hội nảy sinh
trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng
5
điểm Miền Trung hiện nay, Hà Nội 2009. Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp Bộ: Giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở vùng trọng
điểm kinh tế Miền Trung, Hà Nội 2010. Tổng cục thống kê Việt Nam 2009,
nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2010. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn,
Nguyễn Đình Hòa (đồng chủ biên): Vấn đề dân sinh và xã hội hài hòa, nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 2010. Nguyễn Phú Trọng: Về các mối quan
hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011. Dương Xuân Ngọc
(chủ biên): Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2012…
Trên các tạp chí nghiên cứu vấn đề này cũng được nhiều tác giả đề cập
như: Lê Hữu Nghĩa, Vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản số 5/1996. Vũ Văn Hiền, Vấn đề an ninh vì
ổn định và phát triển xã hội trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Triết học số
2/1997. Vũ Đình Cư, Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với
kinh tế tri thức, Tạp chí Triết học số 3/2010. Phương Ngọc Thạch, Các chính
sách tác động không thuận lợi để phát triển các khu công nghiệp, Tạp chí phát
triển kinh tế, số 188, 2006. Đặng Hùng Võ - Đỗ Đức Đôi, Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong các khu công nghiệp ở Việt Nam, Tạp
chí Khu công nghiệp Việt Nam, số 70, tháng 7/2006. Trần Đình Thảo: Về mối
quan hệ giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế ở Việt Nam, Tạp chí Cộng

sản số 21/2007. Mai Thành: Về chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn sau khi
thu hồi đất, Tạp chí Cộng sản, số 8/2009. Nguyễn Văn Chiến: Quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới,
Tạp chí Triết học, số 3/2010.
Như vậy trong thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến các vấn đề ổn định xã hội, an sinh xã hội, ổn định kinh tế, ổn định
chính trị, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh
6
tế tri thức… đã được phân tích ở nhiều góc độ khác nhau. Song vấn đề nghiên
cứu vai trò của ổn định xã hội đối với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì vẫn chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. Do vậy, qua quá trình
nghiên cứu thực tiễn đất nước về ổn định xã hội, về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và các nhân tố làm ảnh hưởng đến ổn định xã hội và đẩy mạnh công
nghệp hóa hiện đại hóa đất nước.Vấn đề này tiếp tục được nghiên cứu trong
luận văn, qua đó, tác giả đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhất định để
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ vai trò của ổn định xã hội đối với đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam trong những năm vừa qua, đề xuất một số phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của ổn định xã hội
đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn phải giải quyết được những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm rõ vai trò của ổn định xã hội đối với việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt nam hiện nay.
Thứ hai, Làm rõ thực trạng của ổn định xã hội đối với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề dặt ra.

Thứ ba, Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của ổn
định xã hội đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các biểu hiện của trạng thái ổn định xã hội nói chung và ổn định trên
các lĩnh vực của đời sống trong sự tồn tại và phát triển xã hội.
7
- Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
- Thực trạng của những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến ổn định xã hội ở Việt Nam sau
hơn 25 năm đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những quan điểm, nội dung, nhận định của Đảng về ổn định xã hội và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay.
- Thực trạng một số vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chủ yếu ở nông thôn Việt Nam có liên quan
đến ổn định xã hội từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiên trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
mácxít, sử dụng tổng hợp các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích tình hình kinh tế - xã hội qua
những giai đoạn phát triển khác nhau.
Kết hợp các phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic, nghiên cứu lý
thuyết, nghiên cứu phi thực nghiệm để phân tích những thay đổi của các điều
kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động đến ổn
định xã hội.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình thực

hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa cần được giải quyết để đảm bảo ổn định xã
hội.
- Khẳng định ổn định xã hội là điều kiện cần thiết, là vấn đề có tính quy
luật trong sự nghiệp đổi mới, phát triển xã hội, từ đó góp phần làm rõ hơn vai
trò của ổn định xã hội đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng của ổn định xã hội và quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, luận văn đưa ra được một số
8
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của ổn định xã hội đối với
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luật văn
gồm 3 chương, 6 tiết
9
Chƣơng 1
VAI TRÒ CỦA ỔN ĐỊNH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Khái niệm ổn định xã hội
1.1.1. Những nguyên tắc tiếp cận
Thuật ngữ “ổn định” đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng thực sự vấn đề ổn định xã hội chỉ
được quan tâm đúng mức từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam phát động và lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngày nay, hầu như trên tất cả các lĩnh vực
hoạt động của xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong
các báo cáo nghiên cứu khoa học… thuật ngữ “ổn định” đều đã được quan
tâm nghiên cứu gắn liền với những vấn đề khác nhau như để khẳng định và
nhấn mạnh về trạng thái, tính chất, đặc điểm… của một loại hoạt động, một
quá trình hay một vấn đề nào đó. Việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ “ổn định”

trên thực tế cho thấy một điều rõ ràng là; càng ngày, giá trị của trạng thái ổn
định càng được thừa nhận như một nhân tố, một điều kiện không thể thiếu cho
mỗi lĩnh vực hoạt động của con người cũng như toàn bộ quá trình tồn tại, vận
động, phát triển của xã hội.
Trong thực tế về mặt khách quan cho thấy rằng, trong quá trình nghiên
cứu trạng thái ổn định xã hội thì việc tiếp cận, đánh giá thực chất, vai trò, ý
nghĩa của trạng thái ổn định xã hội đang còn tồn tại những quan niệm không
đồng nhất. Có quan niệm vì quá đề cao nên đã đi đến tuyệt đối hóa ổn định xã
hội, nhìn nhận nó như là một trạng thái cố định, tĩnh lặng, bất biến… từ đó
dẫn đến thái độ phủ nhận tất cả những gì khác lạ, kể cả những nhân tố mới
xuất hiện trong quá trình vận động, phát triển của xã hội. Ngược lại, có quan
niệm lại hạ thấp vai trò, ý nghĩa của ổn định xã hội, thậm chí đồng nhất ổn
định xã hội với bảo thủ, đánh giá ổn định xã hội như là một trạng thái tiêu
10
cực, cản trở sự phát triển của xã hội… từ đó dẫn đến phủ định “sạch trơn”
trạng thái ổn định trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyên nhân sâu xa
của những quan niệm đó bắt nguồn từ những sai lầm trong cách tiếp cận khi
nghiên cứu về ổn định xã hội. Do vậy, để nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa
của trạng thái này đối với quá trình vận động, phát triển của xã hội cần phải
dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận Mácxít. Dưới đây là một số
nguyên tắc cơ bản cần quán triệt:
Một là: Nghiên cứu ổn định xã hội trước hết phải dựa trên cơ sở phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là nguyên lý về sự phát
triển.
Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mọi sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong quá trình khách quan đó. Vì vậy,
khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, trạng thái xã hội phải đặt nó trong sự
vận động, phát triển. V.I Lênin viết: “Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật
trong sự phát triển, trong “sự tự vận động” (…) trong sự biến đổi của nó” .

Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận
thức xã hội hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt
đối hóa một nhận thức nào đó về một trạng thái của xã hội có được trong hoàn
cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với giai đoạn phát triển nhất định của xã
hội và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ xã hội trong quá trình
phát triển tiếp theo của chúng là sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác quan điểm
phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của
xã hội. Trong quá trình phát triển, xã hội đồng thời có những quá trình biến
đổi tiến lên, có sự ổn định tương đối, và có cả những biến đổi thụt lùi.
Lý thuyết phát triển phải được quán triệt khi tiếp cận, nghiên cứu về ổn
định xã hội. Nói cách khác, ổn định xã hội phải được xem xét trên cả hai
phương diện. Nó vừa là kết quả của sự vận động, phát triển kinh tế xã - hội
11
trước đó, nhưng lại vừa là điều kiện cho sự vận động, phát triển xã hội tiếp theo
và bản thân ổn định xã hội cũng biến đổi cùng quá trình phát triển đó. Đối với
vấn đề này khi nhận thức, đánh giá bằng tư duy siêu hình thì không thể phản
ánh được thực chất của mối quan hệ giữa ổn định và phủ định, giữa cái đang
tồn tại với tư cách là mặt nhất thời của trạng thái vận động với cái mới sẽ ra đời
với tư cách là kết quả tất yếu của sự vận động và phát triển. Vì vậy, xuất phát
điểm của việc nhận diện, tiếp cận với ổn định phải được bắt đầu từ việc xử lý,
giải quyết mối quan hệ giữa ổn định với vận động phát triển.
Hai là; Nghiên cứu về ổn định xã hội phải dựa trên cơ sở Học thuyết về
Hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nghiên cứu về ổn định xã hội nhưng bản thân của nó không ở trong
trạng thái đứng im, tĩnh tại mà là nghiên cứu về trạng thái ổn định của xã hội
trong quá trình vận động, phát triển không ngừng của nó. Đây là một vấn đề
phức tạp, do vậy, cần có “sợi dây” dẫn đường, “Học thuyết của C. Mác về
hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở phương pháp luận của sự phân tích khoa học
về xã hội, là hòn đá tảng của khoa học xã hội”. Vì vậy, học thuyết này cũng
phải được xem là phương pháp luận chủ yếu để tiếp cận, nghiên cứu vấn đề

ổn định xã hội. Khi nghiên cứu về một thực thể phức tạp là xã hội. C.Mác đã
xem xã hội như một cơ thể sống động được tạo thành bởi các yếu tố khác
nhau, trong đó cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở hạ
tầng, kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố này không tồn tại trong sự hỗn độn
hay được sắp xếp bên cạnh nhau, ngược lại giữa chúng có mối quan hệ thống
nhất biện chứng, tạo thành chỉnh thể hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác khẳng
định: “trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của các lực lượng sản xuất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng
12
lên một cơ sở kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. Học thuyết của C.
Mác không chỉ xác định các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội, mà
còn xem xét xã hội trong quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Chính
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố cơ bản của một hình thái kinh tế -
xã hội nhất định đã hình thành nên những quy luật chi phối quá trình chuyển
hóa từ một hình thái này sang một hình thái khác, từ một trật tự quan hệ xã
hội này sang một trật tự quan hệ xã hội khác. Trong số các quy luật đó, C.
Mác đặc biệt nhấn mạnh đến quy luật về phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong tác phẩm Sự
khốn cùng của triết học, C.Mác đã nêu một tư tưởng rất quan trọng về vai trò
của lực lượng sản xuất trong việc thay đổi các quan hệ xã hội, ông viết:
“Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất.
Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương
thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách thức kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái
cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Do vậy, khi phân tích về hình

thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Xã hội gắn với con người
và nói con người là nói đến xã hội, con người xã hội, ổn định xã hội chính là
ổn định các quan hệ xã hội của con người trên các lĩnh vực hoạt động và đời
sống của họ. Trạng thái ổn định của xã hội là kết quả tổng hợp của sự ổn định
các quan hệ có trong xã hội, do đó ổn định xã hội không thể nằm ở bên ngoài
hoạt động của con người. Chính hoạt động của con người trên các lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực lao động sản xuất, đã làm thay đổi các quan hệ của họ, và
do đó, làm thay đổi trạng thái ổn định xã hội.
13
Mặt khác “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các quan hệ xã hội”, con người tự giải phóng mình qua hoạt động thực tiễn.
Vì lợi ích của mình, con người đã tạo dựng nên xã hội với trạng thái ổn định
nhất định nào đó. Như vậy, ổn định xã hội rõ ràng là phụ thuộc vào hoạt động
thực tiễn của con người và nó không đồng nhất với tĩnh lặng và bất biến. Ổn
định xã hội có liên quan trực tiếp với mức độ phù hợp giữa hoạt động của
nhân tố chủ quan và sự vận động của quy luật khách quan. Với ý nghĩa đó mà
xét, nếu quá trình vận động, thay thế các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình
lịch sử - tự nhiên, thì quá trình biến đổi của trạng thái ổn định của các hình
thái đó cũng mang tính lịch sử tự nhiên như thế.
Ba là: Nghiên cứu về ổn định xã hội ở Việt Nam phải đặt trong mối
quan hệ với quá trình đổi mới, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ổn định xã hội và đổi mới xã hội cùng có mục tiêu chung là phát triển xã
hội, ổn định xã hội tạo điều kiện, địa bàn thuận lợi cho quá trình đổi mới, đảm
bảo cho quá trình đó diễn ra đúng hướng, không đổ vỡ. Ngược lại, khi xã hội
lâm vào tình trạng mất ổn định, khủng hoảng thì đổi mới trước hết phải hướng
trọng tâm vào việc giải quyết nhiệm vụ đưa xã hội ra khỏi trạng thái bất ổn đó,
tạo tiền đề, điều kiện để xã hội tiếp tục phát triển vững chắc. Giữa ổn định xã
hội và đổi mới xã hội có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau.
Đổi mới ở Việt Nam chính thức được đề ra từ Đại hội lần thứ VI Đảng

Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986). Từ đây đổi mới đã trở thành tư tưởng
chính thống của toàn xã hội, gắn liền với đường lối chính trị của Đảng cầm
quyền. “Thực chất của đổi mới là chuyển đổi mô hình phát triển… từ mô hình
chủ nghĩa xã hội Nhà nước, với chế độ tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển
đổi sang mô hình kinh tế mới - mô hình hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa”.
Nhìn lại lịch sử hơn 25 năm trước đây, chúng ta thấy sự nghiệp đổi ới ở
Việt Nam được phát động và triển khai trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn.
14
Khủng hoảng kinh tế - xã hội đã ở tình trạng trầm trọng nhất, sản xuất đình
đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước giảm
sút nghiêm trọng… Đó là tình thế hoàn toàn bất lợi cho sự phát triển xã hội.
Từ trạng thái nguy hiểm, bất ổn đó, một vấn đề tất yếu được đặt ra như một
lôgic khách quan là phải tìm kiếm, lựa chọn con đường giải pháp để nhanh
chóng thoát ra khỏi tình trạng đó. Đổi mới ở Việt Nam là nhằm giải quyết vấn
đề của Việt Nam, những giải pháp, biện pháp tiến hành được thiết kế, được
xây dựng và thực hiện từ thực tiễn Việt Nam, mang phong cách Việt Nam.
Điều này rất quan trọng, bởi lẽ lịch sử những năm sau này đã ghi nhận: nhiều
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô tiến hành cải cách, cải tổ song
cuối cùng đã sụp đổ. Còn Việt Nam, tiến hành đổi mới đã đứng vững trên đôi
chân của mình, từng bước cải thiện được tình hình, tạo thế vững chắc cho
những phát triển tiếp theo. Chân lý cụ thể là; cách mạng là sáng tạo, nguyên
lý mácxít đó một lần nữa được thực tiễn đổi mới ở Việt Nam làm sáng tỏ.
Đổi mới ở Việt Nam được xác định không phải là xét lại chủ nghĩa
Mác-Lênin trên phương diện lý luận, cũng không phải là thay đổi mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phương diện thực tiễn mà là nhận thức lại cho
đúng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là quan niệm đúng đắn hơn
về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi

và biện pháp phù hợp”. Đổi mới cũng không phải là đảo lộn, đào bới lại toàn
bộ lịch sử, phủ định sạch trơn tất cả những thành tựu đã đạt được trong quá
trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là đánh giá khách quan những
thành tựu và khuyết điểm, những ưu điểm và khuyết tật của mô hình kinh tế -
xã hội đã xây dựng để tìm phương hướng, giải pháp khắc phục. Đổi mới cũng
không phải là đốt cháy giai đoạn bằng những bước nhảy vọt theo ý muốn chủ
quan, mà là nhận thức rõ hơn thực tế Việt Nam, căn cứ vào thực tiễn Việt
15
Nam để đề ra những nhiệm vụ, những giải pháp phù hợp mang tính khả thi.
“Đổi mới bao trùm nhất là nhận thức được rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là ở một đất nước có nền kinh tế, khoa học và công nghệ còn kém
phát triển, mức sống còn nghèo, thì phải biết vận dụng một cách thiết thực
những thành quả còn có tác động tích cực của các chế độ xưa nay, nhất là của
chủ nghĩa tư bản, dưới dự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước của
dân, do dân, vì dân”. Xuất phát từ thực trạng tình hình Việt Nam, từ yêu cầu
đòi hỏi của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, đổi
mới ở Việt Nam phải giải quyết trước hết tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội đang ở mức trầm trọng nhất, lập lại trật tự kỷ cương trên các lĩnh vực đời
sống xã hội, từng bước thiết lập trở lại trạng thái ổn định, tạo môi trường lành
mạnh cho sự phát triển tiếp theo.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là ngay từ đầu, Việt Nam đã
xác định đúng mục tiêu của đổi mới là vì sự phát triển của xã hội, trước hết là
đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, củng cố
trạng thái ổn định vững chắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều
kiện cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Từ những thắng lợi của quá
trình đổi mới ở Việt Nam có thể rút ra “kinh nghiệm đầu tiên là: để đi đến
thành công, công cuộc đổi mới phải sớm đưa nền kinh tế vượt ra khỏi trạng
thái mất ổn định hay khủng hoảng, phát huy những năng lực hiện có chứ
không tàn phá những năng lực đó, để đưa nền kinh tế vào thế ổn định và tăng

trưởng. Bản thân sự thiết lập trở lại trạng thái ổn định kinh tế - xã hội là sản
phẩm, là kết quả của sự đổi mới, do vậy thắm đượm trong đó tinh thần đổi
mới. Đó tuyệt nhiên không phải là kết quả của sự khôi phục ổn định xã hội trở
lại nguyên xi như trước đây, mà là trên cơ sở, mức độ cao hơn. Điều đó đòi
hỏi phải đổi mới nhận thức về vai trò, ý nghĩa của ổn định xã hội đối với sự
16
phát triển, đổi mới cách thức khai thác, phát huy vai trò của ổn định xã hội
cũng như các biện pháp nhằm duy trì, bảo vệ trạng thái ổn định đó.
Đổi mới - ổn định - phát triển ở Việt Nam thống nhất biện chứng với
nhau và là những mắt khâu trong sự vận động của tiến bộ xã hội, phù hợp với
xu hướng thời đại ngày nay: hòa bình - hữu nghị - hợp tác và cùng phát triển.
Trong mối quan hệ này, ổn định xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
đổi mới và phát triển. “Đổi mới để ổn định và phát triển. Đó là cuộc đấu tranh
chống bảo thủ trì trệ, chống quan liêu và tham nhũng, thực hiện dân chủ, bình
đẳng và công bằng xã hội, đảm bảo những lợi ích chính đáng và thiết thân
hằng ngày của người lao động, các quyền và nghĩa vụ của công dân”. Ổn định
luôn luôn đi liền với đổi mới, phát triển. Ngược lại, đổi mới và phát triển phải
được tiến hành trong môi trường ổn định và không phá vỡ thế ổn định. Dù
xem xét vấn đề thuộc quá khứ, hiện tại hay tương lai, đổi mới và phát triển
luôn đặt ra yêu cầu phải đảm bảo ổn định và ổn định vững chắc thêm lên. Ổn
định xã hội để phát triển xã hội đã trở thành mục tiêu và động lực của quá
trình đổi mới. Nguyên nhân thắng lợi của quá trình đổi mới vừa qua là có sự
tham gia ổn định chính trị. Thành tựu cơ bản của quá trình đó cũng lại là ổn
định trên lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội, và trong giai đoạn mới, vai trò
ổn định đối với đổi mới càng cần được tăng cường: “…. Nhiện vụ đặt ra trong
chặng đường sắp tới cũng rất nặng nề, phải tăng cường ổn định chính trị - xã
hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo
đảm môi trường trong nước và quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công nghệp
hóa, xây dựng đất nước…”. Mối quan hệ giữa ổn định xã hội và đổi mới
mang tính biện chứng, chúng bổ sung, làm tiền đề, điều kiện cho nhau, vừa là

nhân quả của nhau, thống nhất với nhau. “Quá trình đổi mới và phát triển kinh
tế - xã hội không thể được thực hiện nếu Việt Nam không có sự ổn định về
chính trị. Ngược lại, sự ổn định về chính trị là kết quả của quá trình dân chủ
hóa được tiến hành từng mặt với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội”. Sự
17
thống nhất giữa ổn định và đổi mới cũng cần được hiểu theo nghĩa biện
chứng, nghĩa là không phải lúc nào và ở đâu chúng cũng phù hợp một cách
tuyệt đối. Thực sự, đây là sự thống nhất của những mặt đối lập. Hiện nay Việt
Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn dện, sâu sắc, triệt để. Quá trình
đó phải được tiến hành trong trật tự, ổn định theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nói ổn định ở đây nghĩa là vừa phải mạnh dạn đổi mới, vừa phải thận
trọng từng bước, vừa làm, vừa kịp thời rút kinh nghiệm. Cần tỉnh táo để khỏi
rơi vào nghịch lý; vì tiến hành đổi mới một cách vội vàng, phạm sai lầm dẫn
đến hỗn loạn, mất ổn định; hoặc vì sợ mất ổn định mà không giám đổi mới
khiến tình trạng trì trệ, ngưng đọng kéo dài.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu được vài năm đã dần
dần xuất hiện những cản trở, thách thức: “… Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới… nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa… Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu… nguy cơ “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết
với nhau, tác động lẫn nhau”. Bước sang thời kỳ mới của sự nghiệp đổi mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mặc dù chúng ta đã
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, thiết lập được trạng thái ổn
định xã hội mới, song những nguy cơ đối với đổi mới, với trạng thái ổn định
xã hội vẫn còn tồn tại. Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1/1991) nêu lên
cho đến nay vẫn là thách thức lớn. Các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác động lẫn
nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào”.
Đứng trên góc độ ổn định xã hội mà nhìn nhận thì việc giải quyết các
nguy cơ, thách thức trên là có liên quan trực tiếp đến kết quả thành, bại của sự

nghiệp đổi mới, đến trạng thái ổn định an toàn cho cả chế độ xã hội. Để cho
nền kinh tế nước ta bị tụt hậu, hoặc đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến
hình thành mất ổn định, các nguy cơ dồn tụ lại, dồn lực lượng thù địch gây
18
những biến động chưa lường hết được, là một sai lầm nguy hiểm. Chúng ta
phải quyết tâm hơn, sáng suốt hơn, có biện pháp đồng bộ hơn và có chỉ đạo
thống nhất để từng bước, từng phần thanh toán các nguy cơ và thách thức…
ổn định tình hình và vững bước đi lên. Đổi mới xã hội bao gồm cả hai mặt
bảo vệ, giữ lại và phủ định, thay thế. Giải quyết tốt mối quan hệ này dẫn đến
kết quả đổi mới thành công, trạng thái ổn định của xã hội được giữ vững, tăng
cường. Giải quyết không tốt, mà trong trường hợp này thường biểu hiện ở
việc quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt khác, sẽ dẫn đến kết quả
“hữu khuynh” hoặc “tả khuynh”, trạng thái ổn định xã hội hoặc được duy trì,
tĩnh lặng như trước, hoặc bị phủ định, rối loạn. Vì thế, tiến trình đổi mới toàn
diện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay luôn luôn cần đến trạng thái ổn định
của xã hội như là một môi trường, điều kiện không thể thiếu được, đảm bảo
thành công cho đổi mới. Đó cũng là biện chứng của quá trình phát triển xã
hội. Tính biện chứng khách quan này cũng cần phải được phản ánh vào trong
nhận thức của chúng ta, qua đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận, đánh giá về
trạng thái ổn định xã hội với tư duy đổi mới, cụ thể là:
- Ổn định xã hội phải là trạng thái ổn định của xã hội trong quá trình
phát triển và đang phát triển. Ổn định xã hội là kết quả tổng hợp của trạng thái
ổn định trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội; chính trị, kinh tế, văn
hóa. Mỗi lĩnh vực tồn tại theo những quy luật khách quan vốn có và trong
quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
- Ổn định xã hội phải được đảm bảo bằng môt cơ chế giữ gìn, củng cố
nó về mặt cơ cấu hoặc chế độ. Ổn định xã hội không những là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp đổi mới mà còn là nguyên vọng chính đáng của toàn
Đảng, toàn dân. Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào tất yếu khách quan hoặc nguyện
vọng chủ quan là chưa đủ cơ sở đảm bảo giữ gìn, củng cố trạng thái ổn định.

Cần có sự tham gia từ phương diện luật pháp, chế độ, quy tắc… trong quá
19
trình xây dựng xã hội có kỷ cương, phép nước. Đây là những cơ sở khách
quan vững chắc, bền lâu, đặt nền móng cho trạng thái ổn định xã hội.
- Ổn định xã hội phải được xem xét trong mối quan hệ với “Phát triển
bền vững” và xây dựng một “xã hội bền vững”. Việt Nam đang tiến hành đổi
mới, tiếp tục thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
có thể thực hiện “phát triển bền vững” cần có sự định hướng nhất quán về
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, cần đến sự cân bằng, cân đối
trong tăng trưởng, quản lý kinh tế và cần có thái độ văn hóa trong đối xử với
thiên nhiên. Điều đó cũng có nghĩa để phát triển bền vững cần có trạng thái
ổn định xã hội. Một xã hội không có kỷ cương, phát triển trong thế hỗn loạn,
chỉ nhằm vào lợi ích trước mắt… nhất định sẽ gây hậu quả rất xấu cho môi
trường thiên nhiên thông qua hành động khai thác bừa bãi có tính hủy diệt,
phát triển không tính đến bảo vệ môi trường thì sự phát triển đó ngày càng
giảm đi về tốc độ và quy mô. Nếu cứ can thiệp vào thế giới đã bị thay đổi,
điều hành, ô nhiễm một cách sâu sắc, chúng ta có thể đi đến những kết quả
không thể đảo ngược, đi đến suy thoái và mất ổn định. Ngược lại, sự “phát
triển bền vững” là tạo điều kiện cho củng cố trạng thái ổn định xã hội, đảm
bảo cho xã hội vận động phát triển trong thế cân bằng, duy trì nhịp độ, tốc độ
tăng trường kinh tế lâu dài.
1.1.2. Khái niệm ổn định xã hội
Ổn định xã hội tuy đã được sử dụng một cách phổ biến trong quá trình
nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội, song việc hiểu phạm trù này một
cách hoàn chỉnh làm cơ sở cho sự thống nhất nhận thức về nó thì lại thiếu
vắng. Theo tư duy triết học và tổng kết từ thực tiễn thì ổn định được coi như
là trạng thái tồn tại hài hòa giữa các yếu tố phát triển; nó mang tính tương đối
và tính động. Lâu nay chúng ta thường quan niệm ổn định là phạm trù phản

20
ánh sự ổn định về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của
đất nước. Ổn định là điều kiện để sự phát triển diễn ra tốt, trong luận văn này
không chỉ nghiên cứu đến “ổn định” mà sự ổn định đó là ổn định xã hội, do
vậy mà phạm trù “xã hội” cũng được xem xét đến trong quá trình nghiên cứu.
Trong tiếng Việt, từ “xã hội” được hiểu và sử dụng với hai nghĩa rộng và hẹp
tùy theo ngữ cảnh và phạm vi vấn đề cần đề cập. Chẳng hạn khi bàn đến tính
chất xã hội Việt Nam hiện nay thì từ “xã hội” được sử dụng theo nghĩa rộng,
bao hàm toàn bộ các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa cộng đồng,
nhưng khi nói về chính sách xã hội, các vấn đề xã hội nói chung thì từ “xã
hội” lại được hiểu theo nghĩa hẹp. Trong luận văn này nghiên cứu về vai trò
của ổn định xã hội đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
vì vậy mà từ “xã hội” được sử dụng theo nghĩa rộng. Do tính phức tạp và rộng
rãi đó nà việc hiểu và đưa ra một khái niệm về ổn định xã hội có thể được tiến
hành trên các góc độ, các phương diện khác nhau, dẫn đến hình thành nhiều
khái niệm, định nghĩa không giống nhau. Đây là điều hiển nhiên và cần thiết
trong công tác nghiên cứu về ổn định xã hội. Xuất phát từ những nguyên tắc
tiếp cận về ổn định xã hội đã được xây dựng, mà khái niệm về ổn định xã hội
được hiểu như sau:
Ổn định xã hội là trạng thái ổn định trên các lĩnh vực chủ yếu thuộc
đời sống xã hội trong quá trình vận động, biến đổi theo những quy luật khách
quan vốn có của chúng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và tiến
bộ xã hội.
Nghiên cứu về ổn định, trước hết cần gắn liền với sự vật, hiện tượng,
quá trình… xác định nào đó. Chỉ riêng thuật ngữ “ổn định” nếu đứng tách ra,
độc lập một mình thì vô nghĩa và chưa nói lên được điều gì. Ổn định chỉ có
nghĩa khi gắn liền với một đối tượng nào đó. Cái gì ổn định hay ổn định của
cái gì. Ổn định do đó cần được nhận thức là trạng thái ổn định của xã hội. Ổn
định, suy đến cùng, chỉ là một trạng thái trong quá trình vận động, phát triển
21

của sự vật. Nếu không có sự vận động nào không gắn liền với sự vật thì cũng
không thể có một trạng thái ổn định nào nằm bên ngoài quá trình đó. Ổn định
xã hội không thể là một trạng thái ổn định được đưa từ bên ngoài vào, áp đặt
cho xã hội theo ý muốn chủ quan. Ổn định xã hội là kết quả tổng hợp của
trạng thái ổn định trên các lĩnh vực chủ yếu chính trị, kinh tế, tư tưởng… của
chính xã hội. Mỗi một lĩnh vực đó đều vận động, biến đổi theo những quy luật
khách quan của mình. Vì vậy, trạng thái ổn định của chúng là không cố định,
bất biến. Điều đó cũng có nghĩa ổn định xã hội tuyệt nhiên không phải là
trạng thái tĩnh lặng hay là một trật tự cứng nhắc, xa lạ với vận động, phát triển
xã hội…. Nội hàm của khái niệm ổn định xã hội do đó cần được nhấn mạnh
vào những dấu hiệu đặc trưng chủ yếu sau:
- Là kết quả của trạng thái ổn định trên các lĩnh vực chủ yếu thuộc đời
sống xã hội.
- Là trạng thái đối lập với trì trệ, rối loạn, khủng hoảng, mất ổn định.
- Là trạng thái gắn liền với quá trình vận động, biến đổi trên các lĩnh
vực thuộc đời sống xã hội.
- Là điều kiện thuận lợi cho phát triển, tiến bộ xã hội.
1.1.3. Về kết cấu của ổn định xã hội
Ổn định xã hội có kết cấu bao gồm: Ổn định chính trị ; ổn định kinh tế;
ổn định tư tưởng; văn hóa ; ổn định trật tự xã hội… Mỗi loại ổn định trên lại
có nội dung và kết cấu riêng biệt. Đứng trên phương diện lý thuyết hệ thống,
có thể xem ổn định xã hội là hệ thống mẹ, trong đó chứa đựng những hệ
thống con. Mỗi hệ thống con, vừa có tính độc lập tương đối, đặc thù, vừa
thống nhất trong chỉnh thể mà nó là một thành tố. Ổn định xã hội là một kết
quả tổng hợp của các trạng thái ổn định trên từng lĩnh vực. Trạng thái ổn định
trên từng lĩnh vực lại có tác động biện chứng với nhau, ổn định của lĩnh vực
này là điều kiện. là tiền đề cho ổn định của lĩnh vực khác và khi một lĩnh vực
nào đó mất ổn định, rơi vào trạng thái khủng hoảng, rối loạn sẽ gây ảnh

×