Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.74 KB, 124 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NINH THỊ LIÊN






VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN,
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG
TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NINH THỊ LIÊN





VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN,
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG
TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN CƯ







HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN
TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN
TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 7
1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan, văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân
tộc 7
1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan 7
1.1.2. Văn hóa dân tộc 16
1.1.3. Bản sắc văn hóa dân tộc 26
1.2. Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc 29
1.2.1. Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc phối hợp lãnh, chỉ đạo

vấn đề xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc 29
1.2.2. Vai trò nhân tố chủ quan thể hiện trong tính chủ động, sáng tạo
của quần chúng nhân dân giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc 33
Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC
GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG Ở
NINH BÌNH HIỆN NAY 37
2.1.
Vài nét về văn hoá dân tộc Mường
37
2.1.1. Lịch sử tộc người, đặc điểm cư trú, dân số 37
2.1.2. Về đặc điểm kinh tế 40
2.1.3. Về đặc điểm văn hóa, xã hội 41
2.2. Đặc điểm văn hoá dân tộc Mường ở Ninh Bình 47
2.2.1. Đặc điểm kinh tế và đời sống vật chất 47
2.2.2. Đặc điểm xã hội và lịch sử 49
2.2.3. Nét đặc thù trong văn hóa dân gian của người Mường ở Ninh Bình 54
2.3. Thực trạng vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc Mường ở Ninh Bình và những vấn đề đặt ra 77


2.3.1. Thực trạng 77
2.3.2. Những vấn đề đặt ra 85
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY 90
3.1. Quan điểm 90
3.1.1. Nâng cao vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân
dân trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở

Ninh Bình hiện nay 90
3.1.2. Tổ chức việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bằng hoạt động cụ thể, thiết thực 93
3.2. Giải pháp 96
3.2.1. Phát triển kinh tế, nâng cao dân trí phù hợp với đặc điểm đồng
bào dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình 96
3.2.2. Gắn tuyên truyền, vận động với những hoạt động thích hợp
nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa độc
đáo của dân tộc Mường ở Ninh Bình giai đoạn hiện nay 104
3.2.3. Bảo tồn, khôi phục, phát huy các giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần phải trở thành hoạt động thường nhật của cả cộng đồng dân tộc
Mường trong tỉnh 107
3.2.4. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là người Mường
phải đáp ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mường 108
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
ĐKKQ : Điều kiện khách quan
HĐND : Hội đồng nhân dân
NTCQ : Nhân tố chủ quan
UBND : Uỷ ban nhân dân
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên

Hợp Quốc
VH - TT - DL: Văn hoá - thể thao - du lịch


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa
tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các
vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và
nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác
nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính
đặc thù. Cùng với dòng chảy của thời gian và những biến động của lịch sử, văn
hóa của mỗi dân tộc cùng vận động, biến đổi theo những quy luật nhất định, vừa
liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa có sự đan xen những yếu tố
mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi dân tộc và góp phần
tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội,
đã tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh
tế, nâng cao mức sống và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị
văn hóa mới làm giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên
cạnh những thời cơ, vận hội của sự phát triển là nguy cơ phân hóa giàu nghèo và
sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa. Hơn nữa các thế lực thù địch vẫn tiến
hành âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt là trên mặt trận văn hóa - tư tưởng,
chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy khẳng định hệ giá trị
văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự vừa lâu dài đối với
đất nước ta. Đây là vấn đề không mới, rất nhiều văn kiện của Đảng, chính sách
của Nhà nước đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa của các dân tộc đặc biệt là vùng văn hóa các dân tộc thiểu số. Tổng

kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng chủ trương:
Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết
để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam.


2
Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ dân số đông thứ
4 sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, họ cư trú trên vùng địa bàn đồi núi thấp thuộc
các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tây (cũ) Đặc biệt với kiểu địa hình phân
chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng
đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam như tỉnh Ninh Bình, phù
hợp với phong tục tập quán canh tác, phát triển nghề thủ công của người Mường.
Sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của
người Mường ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú như
lễ hội, trang phục, thơ, ca, tín ngưỡng đậm tính triết lý nhân sinh. Trước sự tác
động và biến đổi của thế giới, đã có không ít những giá trị văn hóa truyền thống
của người Mường chỉ còn tồn tại trong ký ức của những người già. Trong rất
nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mai một, đứt gãy, những giá trị văn hóa của các
dân tộc thiểu số, có nguyên nhân sâu xa nằm trong chính bản thân những con
người, những tầng lớp kế thừa văn hóa của dân tộc ấy. Cho nên, việc giáo dục
ý thức, thái độ tự vươn lên giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa của mỗi tộc
người là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Vai trò nhân tố chủ quan
trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình
hiện nay" cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta không phải
là vấn đề mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu với tầm cỡ,
quy mô và khác cạnh khác nhau.

- Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học như: Vũ Thị Kim Dung,
Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí Triết học,
số 1/1998; Vũ Đức Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề
xác định bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Nguyễn Huy
Hoàng, Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử của Các Mác, Nxb Văn hóa


3
Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết học văn hóa, Nxb Văn hóa Thông
tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002.
- Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển như:
Chương trình nghiên cứu cấp nhà nước KX.06, "Văn hóa, văn minh vì sự phát
triển và tiến bộ xã hội"; Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ góc nhìn
Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993; Nguyễn Hồng Sơn, "Quan hệ
biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển xã hội trong quá trình định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ, 1995; Phạm Văn Đồng, "Văn
hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Phạm Xuân Nam, "Văn
hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Các công trình bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị
trường như: Đặng Hữu Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999; Hồ Sĩ
Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999.
- Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số Việt Nam như: Trần Ngọc Thêm, "Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Đỗ Huy - Trường Lưu, "Bản sắc dân
tộc của văn hóa", Viện Văn hóa, 1990; Huy Cận, "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa
dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Ngô Văn Lệ, "Văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Nguyễn Từ Chi, "Góp
phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa

nghệ thuật, Hà Nội, 2003; Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa các dân tộc Tây
Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
Phan Hữu Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu thì trong các văn kiện của Đảng
cũng nêu rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn


4
đề: "Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường, những
yêu cầu cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người
nói chung và dân tộc Mường nói riêng, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Chỉ ra vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
Hai là: Trình bày những điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hóa Mường;
chỉ rõ nét đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình.
Ba là: Tìm hiểu thực trạng và những vấn đề đặt ra của nhân tố chủ quan
trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
Bốn là: Nêu một số quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở

Ninh Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác
định đối tượng nghiên cứu là vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.


5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, bao hàm cả văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần; luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hoá
của dân tộc mà chủ yếu tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của nhân tố chủ
quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh
Bình trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các
công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố, có nội
dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết
hợp nhuần nhuyền các phương pháp: Lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp;
quy nạp và diễn dịch; điều tra - so sánh nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đã
đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần điều tra, nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa
dân tộc Mường ở Ninh Bình, từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ

bản nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho công tác văn hóa tư tưởng
của tỉnh Ninh Bình và làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên
ngành: Triết học,, CNXHKH, Văn hóa ở các trường chính trị tỉnh hoặc các
trường đại học, cao đẳng.


6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan trong việc
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay.
















7
Chương 1
NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN
TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan, văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa
dân tộc
1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan
Cùng với quá trình hoạt động thực tiễn của con người, khái niệm nhân tố
chủ quan (NTCQ) và điều kiện khách quan (ĐKKQ) từng bước được hình thành
và phát triển. Để hiểu được nội dung của khái niệm này thì nhất thiết phải tìm
hiểu đến những khái niệm có liên quan như khái niệm "chủ thể", "khách thể", chỉ
khi nào hiểu được các khái niệm này thì mới hiểu được khái niệm NTCQ và
ĐKKQ. "Chủ thể", "khách thể" là những khái niệm rất quan trọng, trong mối
quan hệ với khái niệm "NTCQ" và "ĐKKQ", nếu không hiểu được các khái
niệm này thì cũng không thể hiểu được khái niệm "NTCQ" và "ĐKKQ" hoặc
hiểu không đúng, dễ bị nhầm lẫn đồng nhất giữa các khái niệm.
* Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”:
Trong quá trình hoạt động của mình, con người đã tác động vào thế giới
khách quan, cải tạo thế giới khách quan nhằm phục vụ lợi ích con người. Vì vậy,
con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời vừa là chủ thể của hoạt
động cải tạo hoàn cảnh, từ đó đã hình thành nên khái niệm chủ thể. Khái niệm
chủ thể đã được rất nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu và đã đưa ra nhiều
định nghĩa và cách hiểu khác nhau. Có quan niệm cho rằng "Chủ thể là con
người (cá nhân hoặc nhóm.) tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
thực tiễn" [49, tr.92]. Quan điểm khác thì lại hiểu "Chủ thể là con người có ý

thức và ý chí, và đối lập với khách thể bên ngoài" [50, tr.192].
Từ những khái niệm trên cho thấy: Tùy từng đối tượng được xem xét mà
xác định chủ thể tương ứng, chủ thể có thể là cả loài người, một nhóm người,


8
một giai cấp, một đảng phái hay một tổ chức chính trị - xã hội nào đó, bằng
những hoạt động của mình nhằm cải tạo đối tượng khách thể, làm cho đối tượng
ấy (khách thể) biến đổi cho phù hợp với lợi ích của mình.
Như vậy, có thể hiểu: chủ thể là con người có ý chí, có ý thức, mang tính
sáng tạo với những cấp độ tồn tại khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) bằng
hoạt động thực tiễn của mình đã và đang tác động đến khách thể.
Con người ở đây với tư cách là chủ thể có ý thức và ý chí, bằng hoạt động
mang tính sáng tạo của mình tác động vào đối tượng (khách thể) nhằm cải tạo
đối tượng (tự nhiên và xã hội) cho phù hợp với mục đích của chủ thể và phục vụ
chủ thể. Năng lực sáng tạo của chủ thể được thể hiện bằng phương pháp, cách
thức tác động vào đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra. V.I.Lênin nói: "Khái
niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình, tự cho mình,
qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới quan và tự hoàn thiện (tự
thực hiện) mình" [20, tr.228].
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể” như vậy thì có thể quan niệm:
Khách thể là tất cả những đối tượng mà chủ thể bằng ý thức và hoạt động
thực tiễn của mình tác động vào chúng nhằm nhận thức và cải tạo chúng cho
phù hợp với mục đích con người.
Khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan mà chỉ là một bộ
phận của hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan vô cùng phong phú nên
khách thể (với tư cách là bộ phận của thế giới khách quan) cũng vô cùng phong
phú, khách thể có thể là những sự vật, hiện tượng hay quá trình trong tự nhiên
cũng như trong đời sống xã hội, những quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị
- xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể của những chủ

thể tương ứng.
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ khăng khít với nhau, tồn tại song
song với nhau, khách thể là khách thể của chủ thể xác định và ngược lại, chủ thể
là chủ thể của khách thể tương ứng, không có khách thể và chủ thể chung chung
trừu tượng tồn tại một cách độc lập tách rời bất biến.


9
Như vậy, có thể nói khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với
nhau, quy định lẫn nhau, mặt này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người
chỉ trở thành chủ thể khi hoạt động tác động vào thế giới khách quan, biến thế
giới khách quan ấy thành khách thể của quá trình hoạt động thực tiễn của mình.
Chủ thể nhận thức và cải tạo một cách chủ động sáng tạo khách thể theo mục
đích của mình; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ thể. Bởi lẽ,
khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy luật vốn có
của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận động
của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
* Khái niệm "Nhân tố chủ quan" và "Điều kiện khách quan"
Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên cứu các
khái niệm “chủ thể” và “khách thể”; mà còn quan tâm tới khái niệm "nhân tố chủ
quan "và" điều kiện khách quan. Bởi vì các khái niệm điều kiện và nhân tố chủ
quan được dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có ý thức của con người và
hoàn cảnh mà trong đó con người hoạt động.
- Khái niệm "Nhân tố chủ quan"
Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm
chủ thể. Hiện nay trên sách, báo tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều những quan
niệm khác nhau về khái niệm nhân tố chủ quan.
Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có tác giả
đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người nói chung.
"Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức của những

con người, những giai cấp, những chính đảng sáng tạo ra lịch sử" 31, tr.18.
Cũng có tác giả lại giới hạn và đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác
của con người. Như vậy, nhóm quan niệm nêu trên thường nhấn mạnh đặc trưng
sáng tạo của ý thức, tư tưởng, vai trò của ý thức trong việc phản ánh điều kiện
khách quan. Những quan niệm trên đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ
ra vai trò của ý thức, tính tự giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu
đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn


10
nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa
thật đầy đủ và như vậy dễ dẫn đến tình trạng "chủ quan hoá" hoạt động của con
người. Bởi vì, hoạt động của con người không chỉ thuần tuý thuộc về nhân tố
chủ quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện khách quan.
Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần đề cập
tới đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ thể hoạt
động. Bởi lẽ, các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của mọi quá trình diễn ra trong lịch sử - xã hội loài người.
Do đó, khi đặt con người với tư cách là chủ thể (Tuỳ ở cấp độ xem xét là nhóm,
giai cấp ) trong trạng thái đang tích cực hoạt động trước một đối tượng cần
nhận thức và cải tạo nó theo một mục đích nhất định, với đầy đủ các mặt yếu tố,
động lực, phẩm chất và năng lực tạo thành. Tính tích cực của chủ thể - Các
nhân tố tạo thành nguyên nhân và điều kiện của mọi hoạt động tích cực của chủ
thể, chúng ta có khách niệm nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện
khách quan 35, tr.18-19.
Từ những nội dung phân tích trên đây, theo chúng tôi, giữa nhân tố chủ
quan và chủ thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự thống
nhất giữa khái niệm "chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở chỗ : nhân
tố chủ quan về tất yếu luôn thuộc về chủ thể. Còn giữa các khái niệm này có sự
khác nhau và tính độc lập tương đối. Vì nhân tố chủ quan, là khái niệm để chỉ

những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể, được chủ thể huy
động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực của chủ thể nhằm để biến
đổi khách thể cụ thể. Do đó:
Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào
một hoạt động cụ thể của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó.
Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng tôi xét
về cấu trúc nhân tố chủ quan, bao gồm.
Thứ nhất: ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái niệm
nhân tố chủ quan. Song điều đáng lưu ý đó là, không phải là ý thức nói chung


11
của chủ thể là nhân tố chủ quan, mà là những bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ
đạo, sự kích thích và là phương châm của hoạt động, nói cách khác là ý thức đã
biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể 40, tr.19.
Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức của con
người (con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng ) để sáng tạo ra lịch sử; là
nói tới tính tổ chức, ý chí và nghị lực của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch
sử nhất định. Do đó, nhân tố chủ quan không chỉ thuần tuý là ý thưc của chủ thể
mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt động đó. Vì ý thức của chủ thể cùng
lắm mới chỉ dừng lại ở "giải thích thế giới". Điều đó, như trước đây Mác cũng đã
từng khẳng định: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực
hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" 21,
tr.12. Từ những nội dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố chủ
quan còn bao gồm cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể đối với
một khách thể xác định.
- Khái niệm "Điều kiện khách quan"
Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan các nhà
nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã đưa ra những
quan niệm khác nhau về khái niệm đó, chẳng hạn:

+ Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh
hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ
thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động 3, tr.19.
+ Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một hoàn
cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt động
của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó 35, tr.12.
Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho dù ở
các vị trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với
một điều kiện khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi hoạt động của chủ
thể, các yếu tố hợp thành điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng, bao
gồm nhiều mặt. Như, các yếu tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn


12
trong tự nhiên; các yếu tố vật chất tồn tại dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính
vật chất, cùng với các yếu tố tinh thần như tư tưởng, tâm lý, tập quán đang tồn
tại hiện thực trong xã hội hợp thành một hoàn cảnh để chủ thể tồn tại và hoạt
động - Đó là điều kiện khách quan.
Do vậy, theo chúng tôi điều kiện khách quan đó là:
Tổng thể những mặt, những nhân tố, những mối quan hệ tồn tại ở bên
ngoài và độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh, một điều kiện hiện thực,
thường xuyên tác động và quy định hoạt động của chủ thể trong những hoạt
động xác định.
Như vậy, ĐKKQ là hoàn cảnh mà trong đó chủ thể tồn tại và hoạt động,
nó quy định hoạt động của chủ thể. Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng
có thể được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó
đóng vai những tiền đề của hoạt động [53, tr.71-72].
Với quan niệm và những nội dung phân tích như trên, khi nói đến ĐKKQ
thỡ trước hết phải nói đến những điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện
thực và độc lập với chủ thể xác định và quy định hoạt động của chủ thể đó. Nếu

các điều kiện vật chất luôn là ĐKKQ (xét trong mối quan hệ với ý thức), song
ĐKKQ được xác định cụ thể lại không đơn thuần là điều kiện vật chất mà cũn
bao gồm cả những yếu tố thuộc ý thức, tư tưởng, những ý thức, tư tưởng này tồn
tại khách quan với chủ thể xác định và ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể, đó
cũng là ĐKKQ.
Như vậy, có thể nói ĐKKQ là những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng
tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào chủ thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh
và tác động đến hoạt động của chủ thể.
* Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trò của NTCQ.
Hoạt động của chủ thể là nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.
Mục đích, mục tiêu mà chủ thể đặt ra đều xuất phát từ điều kiện và khả năng của
hiện thực, nếu chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan mà không xuất phát từ hiện thực


13
khách quan thì hoạt động của con người sẽ không thể thành công được. Điều đó
được Lênin khẳng định: "Thật ra, mục đích của con người là do thế giới khách
quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề" [20, tr.201].
ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối,
quy định phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt
động của chủ thể phải phù hợp với thực tiễn khách quan.
Thứ hai, NTCQ có vai trò tác động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ.
NTCQ là những gì thuộc về chủ thể, cho nên NTCQ tuy bị ĐKKQ quy
định nhưng nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính độc
lập tương đối so với ĐKKQ. Vai trò tích cực sáng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ:
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của mình để
tìm hiểu, nhận thức quy luật vận động của cái khách quan, khi cả hai tương thích
sẽ tạo nên sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực.
Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn

những khả năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mình vừa không
đi ngược lại tiến trình phát triển của lịch sử. Các quy luật khách quan vận động
đan xen nhau, nhưng chủ thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở những nhận
thức đúng, phù hợp của mình để điều chỉnh hình thức, trật tự tác động của quy
luật khách quan, có thể tạo ra những yếu tố làm xuất hiện những quy luật khách
quan mới.
Trong quá trình tác động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng
thời tự nâng cao khả năng nhận thức của mình trong quá trình biến đổi thế giới
khách quan. Tuy nhiên, NTCQ có vai trò to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế
nào thì trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế
khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ
thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế giới khách quan, có nguồn gốc từ thế
giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao động, và phát triển của chủ
thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới khách quan - Mọi sự cố
gắng của chủ thể trong quá trình phản ánh, nhận thức và cải tạo thế giới cũng là


14
để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của chính mình
(cả vật chất lẫn tinh thần).
Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thì
ĐKKQ là tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ
chức hoạt động thực tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh khách
quan mà luôn lấy ĐKKQ là điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo ra những tiền đề
biến khả năng khách quan thành hiện thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất
yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mình. Tính biện
chứng trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ còn thể hiện ở chỗ: để đảm bảo
tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thì bắt buộc NTCQ phải vận động, phát
triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng, tổ

chức hoạt động thực tiễn của mình cho phù hợp với những quy luật vốn có của thế
giới khách quan. Bất cứ một sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí nào cũng sẽ dẫn tới
những hành động vi phạm quy luật khách quan, kìm hãm sự phát triển của tự
nhiên, xã hội, con người và của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động
ấy.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm
nên lịch sử đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự
nhiên để đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu tồn tại của mình. Từ hoạt động lao
động cải tạo thế giới tự nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với xã hội loài người được thiết lập, các quan hệ xã hội của loài
người được hình thành (tự nhiên và khách quan). Cùng với tự nhiên, giống như
tự nhiên, xã hội loài người cũng không ngừng vận động và phát triển theo những
quy luật nhất định. Trong quá trình đó, cái khách quan và cái chủ quan, những
ĐKKQ và NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện
chứng; trong đó ĐKKQ bao giờ cũng có vai trò quy định đối với NTCQ. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, trong quá trình hoạt động lao động của con người, chỉ khi
nào những quan hệ vật chất cần thiết đã phát triển chín muồi, hoặc ít ra cũng


15
đang trong quá trình hình thành, thì khi đó NTCQ mới có cơ sở khách quan để
biến những khả năng thành hiện thực, công cuộc cải biến xã hội mới thành công.
Khi phân tích tình thế cách mạng ở Nga năm 1917, so sánh tình hình cách
mạng ở Nga khi đó với những tình thế cách mạng trước đó cả ở Nga, ở Đức, và tất
cả các thời kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đã khẳng định: Cũng là
những ĐKKQ giống như thế, cũng là sự khủng hoảng chính trị của tầng lớp trên
cùng, quần chúng nhân dân bị áp bức nặng nề, cũng là ý thức muốn vùng lên làm
một cuộc cải biến xã hội… Nhưng các cuộc cách mạng trước đó không thể nổ ra
là vì thiếu đi sự chín muồi của NTCQ, của giai cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả
năng phát động, tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của

các giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh cách mạng ấy [19, tr.268]. Như vậy, theo
V.I.Lênin, nếu không xuất hiện các tình thế cách mạng (ĐKKQ), hoặc nếu không
có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng thì tình thế cách mạng (ĐKKQ)
chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là hiện thực.
Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phát (tự nó) hình
thành, mà có lúc các ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các
hoạt động tích cực của con người. Sự năng động chủ quan của con người phải
được đo bằng hiệu quả vật chất chứ không chỉ là trong lý luận hay tư duy.
Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa
NTCQ và ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trò NTCQ không thể tách rời những
ĐKKQ đang có, không thể hoạt động một cách tùy tiện trước quy luật của tự
nhiên, của xã hội. Đó phải là sự biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ
năng lực, phẩm chất, đạo đức… đến khả năng thiết kế, tổ chức hoạt động thực
tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy được kinh tế - xã hội phát triển, mới cải tạo thế giới
khách quan thành công, mới ngày một nâng cao hơn chất lượng cuộc sống cho
con người cả về vật chất lẫn tinh thần, con người (chủ thể hành động) ngày càng
hoàn thiện bản thân mình, trang bị cho mình đầy đủ các điều kiện để vươn tới
cuộc sống đậm chất người hơn.


16
1.1.2. Văn hóa dân tộc
Văn hóa - Cho đến nay, không phải tất cả mọi người đã đồng ý với nhau
về định nghĩa. Từ cổ chí kim, trong lịch sử loài người, xuất phát từ cách tiếp cận
và nhận thức khác nhau mà hình thành các định nghĩa về văn hóa. Năm 1952,
các nhà dân tộc học người Mỹ đã thống kê được hơn 300 định nghĩa mà các tác
giả thuộc nhiều nước khác nhau đã phát biểu về văn hóa, các định nghĩa ấy đã
khai thác vấn đề văn hóa dưới từng góc độ, từng mặt khác nhau, nhưng ở khía
cạnh nào đó cũng có sự thống nhất hoặc bổ sung cho nhau trong sự nhận thức về
văn hóa.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn nhận văn hóa như là một sản phẩm của
lịch sử, là sản phẩm của quá trình lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ người.
Do vậy, trình độ phát triển của văn hóa phụ thuộc vào trình độ nhận thức và sức
sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn
hóa ra khỏi đời sống của con người và xã hội loài người thì văn hóa chẳng còn ý
nghĩa gì cả. C.Mác cho rằng: “con người sản xuất” là một “thực thể song trùng”
thống nhất giữa “cái tự nhiên và cái xã hội”. Trong đó, yếu tố tự nhiên được cấu
tạo như một sinh vật và nó vận động theo quy luật sinh học [25, tr.9]. Nhưng
điểm khác biệt giữa con người với động vật là ở chỗ con người mang bản chất xã
hội. Bản chất của con người thể hiện ra trong mối quan hệ giữa mỗi người với
người khác, giữa mỗi người với cộng đồng xã hội và thể hiện trong kết cấu xã
hội hiện thực, ở một không gian, thời gian xác định. Trong luận cương về
Phơbách, C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội” [27, tr.11].
Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Nhưng con người
không bị hòa tan hay lệ thuộc vào giới tự nhiên mà ngày càng tách mình ra khỏi
giới tự nhiên và rồi quay lại giới tự nhiên, cải tạo nó, làm cho nó trở thành giới
tự nhiên thứ hai, giới tự nhiên của chính mình, đồng thời qua đó cải biến chính
bản thân mình - Đó chính là văn hóa. C.Mác viết:


17
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất… Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong
khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối
bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu
cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thì con người mới
sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó; Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó,
còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên [28, tr.137].
Con người là một thực thể có ý thức, sống, hoạt động trên cơ sở hiểu rõ

bản thân, hiểu rõ đối tượng định tác động, từ đó tự chịu trách nhiệm về mục tiêu,
thái độ, hành vi, phương hướng tác động đến đối tượng. Sự tự ý thức của con
người được thể hiện rõ nét trong đời sống tinh thần, trong sáng tạo nghệ thuật,
họ sản xuất và xây dựng “theo các quy luật cái đẹp” [29, tr.137], điều đó thể hiện
rõ đầu óc chiến lược, năng lực phân tích, tổng kết, dự báo, gắn với tầm nhìn và
nhãn quan văn hóa của chủ thể hành động.
Trong thế giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với
tư cách là chủ thể của bản thân mình, làm chủ giới tự nhiên, hòa vào giới tự
nhiên nguyên sơ, để tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa mãn những
nhu cầu, ham muốn chinh phục tự nhiên, xã hội… của bản thân con người - Đó
là văn hóa. C.Mác cho rằng, xét đến cùng, văn hóa có nguồn gốc từ lao động.
Bởi lẽ, mọi hoạt động sáng tạo của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
đều bắt đầu từ lao động. Chính lao động đã sáng tạo ra con người và xã hội loài
người, làm cho con người ngày càng thoát ra khỏi bản năng động vật, tiến dần
đến trình độ trưởng thành về nhân cách, trình độ trưởng thành về văn hóa của
mỗi cá nhân.
Trong quá trình lao động, con người đã in dấu mình vào trong từng khâu,
từng yếu tố, từng mặt, từng bộ phận… của thành quả lao động, làm cho tự nhiên
tự hiện hình trong hoạt động của con người.
C.Mác viết: “…Bằng thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm cho
“tồn tại” của mình phù hợp với bản chất của mình” [29, tr.507].


18
Như vậy, theo C.Mác, văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở sự
hình thành và phát triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này
chính là mức độ hình thành và phát triển bản chất người trong quá trình con
người chinh phục và biến đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa con người với
cộng đồng, mà bao trùm là quan hệ giữa đời sống tinh thần và không gian sống
vật chất của con người và của xã hội loài người. Nếu môi trường đầu tiên cho

con người sự hình thành và phát triển, quyết định sự tồn tại của con người là sản
xuất vật chất, thì môi trường thứ hai cho con người bộc lộ, phát huy những năng
lực và bản chất người trong các hoạt động sống, đó chính là sản xuất văn hóa.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát. Từ cách tiếp
cận hình thái kinh tế - xã hội, V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn hóa gắn
liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, mỗi một hình thái kinh tế
- xã hội có một nền văn hóa tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi
hình thái kinh tế - xã hội thay đổi, thì nền văn hóa tương ứng với nó cũng có sự
thay đổi nhất định. Đây không có nghĩa là sự đứt đoạn hay đoạn tuyệt với các giá
trị văn hóa truyền thống, mà trong quá trình chuyển hóa, nền văn hóa mới luôn
kế thừa những di sản, thành tựu của nền văn hóa trước đó, đồng thời bổ sung
những yếu tố mới phù hợp với những đặc điểm và quan hệ của hình thái kinh tế -
xã hội mới. V.I.Lênin khẳng định: Ở đâu có hoạt động của con người thì ở đó có
văn hóa và văn hóa không chỉ dừng lại ở văn hóa tinh thần mà còn bao hàm cả
văn hóa vật chất. Người coi văn hóa là phương tiện quan trọng nhất trong tất cả
các loại hình hoạt động của con người và là kết quả của quá trình hoạt động đó.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, V.I.Lênin nhấn mạnh nguyên
tắc tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hóa, cách
mạng văn hóa, trước hết là cách mạng trong trí tuệ, trong ý thức của quần chúng.
Người khẳng định: hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa phải là “của” nhân
dân, chứ không phải “cho” nhân dân. Người viết: “Chủ nghĩa xã hội được xây
dựng không phải bằng mệnh lệnh từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà


19
nước quan liêu; Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo, tức là sáng tạo của chính
quần chúng” [18, tr.464].
Sáng kiến của Người đã khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của
quần chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản -
cách mạng văn hóa. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và xã

hội loài người khỏi những áp bức bất công cả trong lao động cũng như trong mọi
hoạt động sáng tạo của họ.
Theo V.I.Lênin, muốn xây dựng một nền văn hóa mới, nền văn hóa vô sản
có khả năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế thừa có
phê phán các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát triển nó lên
một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hóa và bản chất người. Người nói rằng:
Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là do
những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản bịa đặt ra… văn hóa vô
sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra
dưới ách áp bức của xã hội Tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu [18, tr.402].
Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công CNXH, CNCS thì
con người mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trình độ làm chủ
của mình trước tự nhiên, xã hội và ngay cả trước bản thân mình. Từ đó, con
người và xã hội loài người mới có điều kiện xây dựng và phát triển sự công
bằng, bình đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu chí: chân, thiện, mỹ… mới được
xác lập và hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của con người mới có đầy đủ điều kiện
đạt tới trình độ nhân văn đích thực.
Cũng như các bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác, quan niệm về văn hóa của
nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh cũng rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ
truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhìn bao quát,
Người đưa ra khái niệm về văn hóa như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các


20
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi

hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].
Quan điểm trên của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của
phạm trù văn hóa. Chỉ ra văn hóa không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của
con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng
chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn hóa đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người,
với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất
của yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức
sáng tạo của con người. Nghĩa văn hóa mà nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh đề cập
được trải rộng trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, nhưng
việc phân định hai lĩnh vực văn hóa như trên chỉ có tính chất tương đối, vì trên
thực tế mỗi kết quả của hoạt động lao động của con người đều bao hàm trong đó
cả hai giá trị vật chất và tinh thần.
Là người anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hóa thế giới.
Trong hoạt động văn hóa Hồ Chí Minh rất chú ý đến con người. Trong hành
động cách mạng cũng như trong đối nhân xử thế Người luôn hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân,
Người biến tình cảm đó thành phương châm sống của chính mình một cách rất
tự nhiên, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi còn hoạt động ở Pháp người đã kịch liệt lên án
chính sách ngu dân của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa;
để thực hiện mong muốn của mình, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập,
Người đã chủ trương và thực hiện đồng thời chiến dịch chống giặc đói và chiến
dịch chống giặc dốt. Người cho rằng: văn hóa là tinh hoa của dân tộc, văn hóa
phải góp phần khẳng định vị thế của dân tộc và một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu. Cho nên: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
của văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn
hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng

×