Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Xây dựng phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 103 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÙI THỊ LỢI


XÂY DỰNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC MỚI CỦA NGƯỜI
PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÙI THỊ LỢI

XÂY DỰNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC MỚI
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ LAN



HÀ NỘI - 2013


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


BCHTƯ : Ban Chấp hành Trung ương
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNH : Công nghiệp hóa
ĐHQG : Đại học Quốc gia
HĐH : Hiện đại hóa
KTTT : Kinh tế thị trường
Nxb : Nhà xuất bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHTB : Xã hội tư bản








MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM 10
1.1. Đạo đức và phẩm chất đạo đức 10
1.1.1. Đạo đức 10
1.1.2. Phẩm chất đạo đức và phẩm chất đạo đức mới 14
1.2. Phẩm chất đạo đức truyền thống và phẩm chất đạo đức mới nảy
sinh của người phụ nữ Việt Nam 17
1.2.1. Phẩm chất đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam 17
1.2.2. Phẩm chất đạo đức mới nảy sinh của người phụ nữ Việt Nam 27
1.3. Sự cần thiết phải xây dựng phẩm chất đạo đức mới của phụ nữ Việt
Nam hiện nay 35
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHẨM CHẤT ĐẠO
ĐỨC MỚI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 41
2.1. Thực trạng phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam hiện
nay 41
2.1.1. Mặt tích cực 41
2.1.2. Mặt hạn chế, xuống cấp 47
2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt
Nam hiện nay 66
2.2. Giải pháp xây dựng phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ
Việt Nam hiện nay 72
2.2.1. Nhóm giải pháp nhận thức 72
2.2.2. Nhóm giải pháp thực tiễn 81
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 98


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phụ nữ là nhân tố và nguồn lực phát triển cơ bản của xã hội. Họ không chỉ là
người công dân, người lao động mà còn là “người thầy đầu tiên” của mỗi con
người. Dù ở hoàn cảnh nào, ở thời kỳ nào, phụ nữ cũng là người vợ - giữ lửa cho
gia đình, là người mẹ - người nâng giấc, đưa nôi, dạy cho con ngôn ngữ, nhận thức,
những bài học làm người đầu tiên. Sự dịu dàng, chịu thương, chịu khó của người
phụ nữ tựa như sợi dây yêu thương, mềm mại mà bền chặt níu giữ, gắn kết mọi
thành viên trong gia đình, mọi nhân tố trong xã hội. Với thiên chức đó, phụ nữ có
vai trò, ảnh hưởng đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá, giá trị đạo đức trong mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội.
“Một người thợ tồi làm hỏng những đôi giày, một người phụ nữ tồi thì làm
hỏng cả một gia đình, một người thầy tồi làm hỏng một thế hệ ”. (Ngạn ngữ Đức).
Giáo dục một người phụ nữ sẽ được một gia đình. Người mẹ có phẩm chất đạo đức
tốt thì sẽ có những người con tốt, thế hệ tương lai tốt. Người vợ có phẩm chất đạo đức
tốt thì sẽ có mái ấm gia đình hạnh phúc, sẽ có xã hội ổn định và phát triển bền vững.
Trong những năm gần đây, cùng với những bước phát triển lớn lao về mọi
mặt kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, trong bối cảnh toàn cầu hoá, giao lưu và
hội nhập toàn diện, thì đời sống đạo đức của người phụ nữ Việt Nam cũng có
những thay đổi to lớn. Một mặt, rất nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp hiện đại đã
hình thành và phát triển khiến cho người phụ nữ ngày càng trở thành nguồn lực
quan trọng đáp ứng sự phát triển xã hội. Những tấm gương phụ nữ hiện đại giỏi
việc nước, đảm việc nhà, những phụ nữ thành đạt trên mọi lĩnh vực xuất hiện ngày
càng nhiều và trở thành những cánh chim đầu đàn minh chứng cho vai trò và vị thế
ngày càng cao và quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong đời sống hiện đại. Mặt
khác, phẩm chất đạo đức của một bộ phận phụ nữ Việt Nam xuống cấp, giá trị đạo
đức bị xói mòn gây nhức nhối dư luận và ảnh hưởng tiêu cực, cản trở tới phát triển


2

xã hội. Hằng ngày trên các phương tiện thông tin luôn luôn dày đặc những tin tức
phản ánh lối sống chạy theo đồng tiền, đua đòi, buông thả, cách ứng xử thiếu văn
hóa, ăn mặc phản cảm, tệ nạn mại dâm, bạo hành, tội phạm nữ gia tăng đã và đang
từng ngày, từng giờ làm băng hoại phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam,
phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa dân tộc.
Hơn nữa, cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa một mặt có tác
động tích cực, nhưng mặt khác đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội liên
quan trực tiếp tới phụ nữ. Phụ nữ gặp nhiều khó khăn, thách thức khi thực hiện vai
trò người mẹ, người thầy đầu tiên của trẻ em trong điều kiện xã hội và gia đình
Việt Nam có nhiều thay đổi.
Truyền thống có thể là quả núi có nguy cơ đè bẹp hiện tại và che khuất
tương lai; cũng có thể là suối nguồn nuôi dưỡng sức sống mãnh liệt của thực tiễn
cuộc sống không ngừng đâm chồi nảy lộc. Làm thế nào để kế thừa, phát triển
những tinh hoa của giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, gạn bỏ những mặt tiêu cực
của nó đã và đang ăn sâu, bám rễ vào tiềm thức xã hội, thậm chí không cho phép
người Việt Nam thoát khỏi lối mòn trong nhận thức, tư duy và hành động để xây
dựng phẩm chất đạo đức người phụ nữ Việt Nam hiện đại? Làm thế nào để kết hợp
giá trị đạo đức truyền thống và yếu tố hiện đại trong xây dựng phẩm chất đạo đức
của người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đảm bảo xây dựng và phát triển nguồn lực
này đúng với vị thế và khả năng của họ trong xã hội hiện đại là vấn đề còn nhiều
trăn trở.
Từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra như vậy nên tác giả quyết
định lựa chọn đề tài: "Xây dựng phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ Việt
Nam hiện nay" làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đạo đức phụ nữ và xây dựng phẩm chất đạo đức mới cho người phụ nữ Việt
Nam đã, đang nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của dư luận cả nước. Có rất


3

nhiều đề án, chương trình khoa học, hội thảo, sách, báo, tạp chí, công trình nghiên
cứu khoa học tập trung nghiên cứu về thực trạng đạo đức người phụ nữ và tìm ra
các giải pháp nhằm điều chỉnh, định hướng những giá trị đạo đức chuẩn mực cho
nữ giới, tiêu biểu như:
- Đề án, chương trình khoa học cấp Nhà nước
Hội nghị khoa học "Về việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức trong thời kỳ
quá độ" do Ban Đạo đức học - Viện Triết học và Ủy ban Khoa học xã hội nhân văn
tổ chức năm 1983, với các chủ đề: Phụ nữ và vấn đề hình thành đạo đức mới. Hội
nghị đã làm nổi bật được vị thế, vai trò người phụ nữ trong xã hội; sự cần thiết cũng
như các yêu cầu, đòi hỏi, định hướng xây dựng đạo đức cho phái nữ trong thời kỳ quá
độ ở nước ta.
Đề tài nghiên cứu KHXH_04.03: "Xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực
giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" do Huỳnh Khái Vinh làm chủ nhiệm
(thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KHXH-04, Hà Nội, 2000)
là đề tài nghiên cứu khá toàn diện có tính hệ thống những vấn đề lý luận về lối
sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, phân tích sự tác động của các nhân tố chính
trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội;
từ đó nêu phương hướng, quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng lối sống, đạo
đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế hoạch hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010, Uỷ ban quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam - Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (năm
2000), đã chỉ ra những thuận lợi cũng như các trở ngại, khó khăn để người phụ nữ
thực hiện thiên chức của mình đồng thời làm rõ được sự biến đổi của thang giá trị
đạo đức nữ giới trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;


4

vạch ra những định hướng và biện pháp để nâng cao nhận thức, tạo điều kiện thuận
lợi làm cho phụ nữ phát huy được vai trò, vị thế của mình.
Đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Giai đoạn 2010- 2015)” của
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 343 /QĐ-TTg
Ngày 12 tháng 3 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ) đã chỉ ra vai trò, tầm quan
trọng của người phụ nữ đối với gia đình, đất nước trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc,
trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng XHCN; luận giải những phẩm
chất đạo đức cần có của phụ nữ trong thời đại ngày nay cũng như các hình thức,
biện pháp để tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Giai đoạn 2010- 2015).
Tiểu đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2011- 2015”,
Bộ Văn hóa thông tin du lịch đã ban hành Quyết định số 2126/QĐ-BVHTTDL. Để
triển khai thực hiện đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Giai đoạn 2010-
2015)” của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bộ Văn hóa thông tin du lịch vạch rõ
các mục đích, yêu cầu, cụ thể hoá các nhiệm vụ, biện pháp tuyên truyền, giáo dục
phẩm chất đạo đức nữ giới trong ngành của mình.
- Công trình dưới dạng sách chuyên khảo
Lê Thị Nhâm Tuyết (1972), “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại”, Nxb Khoa
học xã hội. Cuốn sách được xem là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam ghi
dấu ấn quan trọng khởi đầu lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ, nghiên cứu giới. Tác giả
đã sử dụng phong phú tư liệu của cuộc sống để phân tích khoa học những phẩm
chất tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ thời đại
nguyên thuỷ cho đến năm 1968, những vấn đề được đề cập trong Phụ nữ Việt Nam
qua các thời đại rất gần với đời sống xã hội hôm nay.


5

Vũ Khiêu (1974), “Đạo đức mới”, Nxb Khoa học Xã hội, bàn về yêu cầu
cấp thiết phải xóa bỏ những tư tưởng đạo đức cũ đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù
hợp với tình hình thời đại mới. Từ đó đặt ra yêu cầu xây dựng đạo đức mới với
những nội dung và nguyên tắc rất cụ thể.
Tương Lai (1983), “Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới”, Nxb Sự
thật, Hà Nội. Tác phẩm này cũng bàn về vấn đề yêu cầu của việc xây dựng đạo đức
mới, trong đó nhấn mạnh đến việc phải chủ động và luôn tích cực của mỗi cá nhân
để đáp ứng được yêu cầu thời đại mới.
Trần Quốc Vượng (2001), "Truyền thống phụ nữ Việt Nam" , Nxb Văn hóa -
dân tộc. Xuất phát từ những tư liệu lịch sử và văn hoá, quan niệm có “nguyên lí
mẹ” trong văn hoá Việt Nam, tác giả đã sưu tầm và hệ thống hóa các tài liệu lịch
sử, truyền thuyết và văn học dân gian có liên quan đến hoạt động và truyền thống
của phụ nữ trong lịch sử. Cuốn sách đem lại nhiều tư liệu quý giá trong quá trình
tìm hiểu truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam từ thời đại Hùng Vương dựng
nước cho đến trước thời kỳ thành lập Đảng.
Lê Thi (2001), “Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt
Nam”, Nxb Khoa học Xã hội. Tác giả đã chỉ rõ: Phụ nữ là nhân tố và nguồn lực
phát triển của xã hội Việt Nam, các quan điểm tiếp cận vấn đề bình đẳng giới hiện
nay, phân tích được vấn đề việc làm, đời sống của lao động nữ trong sự nghiệp
phát triển kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, cùng một số suy nghĩ về hướng phát huy nguồn nhân lực phụ nữ
phục vụ cho sự nghiệp kiến thiết đất nước.
Nguyễn Linh Khiếu (2001), “Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa - xã
hội nông thôn”, Nxb Khoa học Xã hội. Tác phẩm đã trình bày khá rõ những biến
đổi văn hóa - xã hội nông thôn tác động đến gia đình và phụ nữ; cung cấp những
thông tin khoa học đáng tin cậy, đưa đến một cái nhìn phức hợp, đa dạng và thực tế

6


sinh động về đời sống văn hóa- xã hội và gia đình nông thôn trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặng Thị Vân Chi (2008), "Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước năm
1945", Nxb Khoa học Xã hội. Tác giả đã làm rõ quá trình hình thành, cũng như
thực chất của vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của thực
dân Pháp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; những thay đổi của xã hội Việt
Nam trong đời sống gia đình, sinh hoạt văn hóa ngoài đời dưới ảnh hưởng của
chính sách cai trị của Pháp và của tiếp xúc văn hóa Đông -Tây; vạch được quá
trình nhận thức của phụ nữ nói riêng và của xã hội nói chung về vai trò, địa vị của
phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
- Luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
Đặng Thị Linh (1996), “Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay -
thực trạng và giải pháp”, luận án phó tiến sĩ khoa học triết học, Hà Nội 1996. Luận
án này đã phân tích vai trò của phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những thực trạng cũng như những bất cập, khó khăn để thực hiện vai trò của người
phụ nữ trong gia đình ở giai đoạn hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp
để nâng cao vai trò của người phụ nữ trong xây dựng mái ấm gia đình.
Lê Thị Minh Hiệp (2000), “Kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ
Việt Nam trong tình hình hiện nay” luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài phân tích những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của người phụ nữ Việt Nam, tính tất yếu kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của
phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế
thừa hiệu quả những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Lan (2001), “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay qua thực tế
ở tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Luận văn phân tích các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phát huy;

7


những yêu cầu, nội dung của các chuẩn mực đạo đức mới của người phụ nữ trong
giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Từ đó, tác giả đề xuất một số phương
hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Nguyễn Trúc Hạnh (2005), “Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của
phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay”, luận văn thạc sỹ triết học. Tác giả đã phân tích
những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam, những giá trị đạo đức
truyền thống đáng tự hào của phụ nữ Bến Tre. Đề tài cũng luận chứng sự cần thiết
và đề ra các giải pháp để kế thừa hiệu quả giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ
tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
- Bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí chuyên ngành
Trương Mỹ Hoa "Phụ nữ Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, số 20, 1996; PGS Nguyễn Văn Huyên "Giá trị
truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc",
Tạp chí Triết học, số 4, 1998; PGS Nguyễn Chí Mỳ và Nguyễn Thế Kiệt "Sự biến
đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất
đạo đức của cán bộ", Tạp chí Cộng sản, số 15, 1998; GS Lê Thi "Phụ nữ Việt Nam
bước vào thế kỷ XXI", Tạp chí Cộng sản, số 20, 2000; Trịnh Thị Kim Ngọc
“Những vấn đề của phụ nữ và giới trong nguồn nhân lực trí thức hiện nay”, Tạp
chí Phụ nữ, số 3, 2003 v.v.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả chủ yếu xem xét, làm rõ
các vấn đề về: vị trí, vai trò, địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội; tập
trung vào các giá trị đạo đức truyền thống, kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền
thống của phụ nữ Việt Nam qua thực tế của một số tỉnh cụ thể (Vĩnh Phúc, Bến Tre),
chưa đi sâu phân tích những phẩm chất đạo đức mới cần có của người phụ nữ Việt
Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Nội dung các đề tài quan
tâm đến tình hình đạo đức của phụ nữ Việt Nam hiện nay, định hướng giá trị, quan

8


niệm sống của phụ nữ, công tác tuyên truyền đạo đức cho phụ nữ. Tuy nhiên, chưa
có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ chuẩn phẩm chất đạo đức mới
của phụ nữ Việt Nam hiện nay và hệ giải pháp để thực hiện. Đây là hướng mà đề
tài luận văn chú trọng tìm hiểu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phẩm chất đạo đức truyền thống, phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ Việt
Nam, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cho việc xây dựng phẩm chất đạo đức
của họ trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích phẩm chất đạo đức truyền thống và những phẩm chất đạo đức
mới cần có của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
- Phân tích thực trạng phẩm chất đạo đức của phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp để xây dựng phẩm chất đạo đức cho phụ nữ đáp
ứng yêu cầu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phẩm chất đạo đức của người phụ nữ
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: những biểu hiện tích cực và tiêu cực của đạo đức phụ
nữ Việt Nam trong quá khứ và hiện tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, về phụ nữ.
Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn là phương pháp mô tả,
thống kê, phân tích, đánh giá, logic, lịch sử, phương pháp so sánh, khái quát hoá
các quan điểm phản ánh nội dung của vấn đề dưới các dạng thông tin khác nhau.

9


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm mặt tích cực và hạn chế của phẩm chất đạo
đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, những yêu cầu về phẩm chất đạo
đức mới của phụ nữ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phân tích, đánh giá thực trạng phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam hiện
nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng phẩm chất đạo đức mới
của người phụ nữ Việt hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết:
Chương 1: Phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng phẩm chất đạo đức mới của
người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

10

Chương 1
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM

1.1. Đạo đức và phẩm chất đạo đức
1.1.1. Đạo đức
Mỗi ngành khoa học nghiên cứu đạo đức ở những khía cạnh khác nhau, như
triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo dục
học… và có nhiều cách hiểu khác nhau về phạm trù đạo đức.
Theo xã hội học, đạo đức là những chuẩn mực hành vi xã hội hướng con
người theo cái thiện, chống cái ác. Đạo đức là nền tảng của cuộc sống xã hội.
Với các nhà xã hội học, đạo đức được điều tiết bằng hai yếu tố: yếu tố khách quan
(dư luận xã hội) và yếu tố chủ quan (lương tâm con người). Mỗi hành vi vô đạo
đức có thể không bị luật pháp trừng trị, nhưng bị dư luận xã hội và lương tâm lên

án [30, tr.3].
Theo tâm lý học, “Đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của cá nhân hay nhóm, biểu
hiện ở hành vi phù hợp với các quy chuẩn, chuẩn mực xã hội” [9, tr.2].
Trong các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến nay, vấn đề đạo đức luôn
được đề cập đến. Bởi vậy, trong triết học cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về
phạm trù đạo đức.
Ở phương Đông, trong các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều
lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và đề xuất các quy tắc, các chuẩn
mực, những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Tư tưởng đạo đức
Nho giáo chủ yếu thể hiện trong quan điểm về “tu thân” và những nguyên tắc đạo
đức cơ bản như: “tam cương” “ngũ thường”, “tam tòng”, “tứ đức”. Đó là những
quy tắc ứng xử với nhau trong quan hệ xã hội giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,
anh - em, bạn bè. Tư tưởng đạo đức của Đạo giáo nêu những chuẩn mực đạo đức
của cá nhân như “vô kỷ”, “vô công”, “vô danh”, “bất tranh” Những chuẩn mực

11

này đòi hỏi con người gạt bỏ dục vọng của bản thân mình, lấy lòng nhân đức để
đối xử với người đã gây ra oán thù với mình. Trong đạo đức Phật giáo, nội dung cơ
bản là những yêu cầu đạo đức đối với hai loại người là người đời và người tu hành.
Đối với người đời, những chuẩn mực được nêu rất cụ thể cho từng mối quan hệ
nhưng nhìn chung khuyên con người trong bất cứ mối quan hệ nào cũng phải thể
hiện lòng từ bi, hỉ xả, vô ngã, yêu thương, chăm sóc giúp đỡ nhau. Đối với người
tu hành, ngoài việc thực hiện những đức hạnh của người đời, họ còn phải thực hiện
Ngũ giới; Thập thiện nghiệp, Bát chính đạo, tu phẩm hạnh Balamật Những chuẩn
mực này thể hiện lòng từ bi hỷ xả, thương xót đồng loại và cả chúng sinh. Mỗi
trường phái đạo đức này có những hạn chế nhất định và chỉ nhìn đạo đức theo một
phương diện nào đó, nhưng nhìn chung đều là những tư tưởng có giá trị, có ảnh
hưởng xã hội to lớn trong xây dựng đời sống đạo đức xã hội.
Tư tưởng đạo đức phương Tây thể hiện trong tư tưởng của các nhà triết học,

đạo đức học từ thời cổ đại đến hiện đại với nhiều quan điểm khác nhau mang hơi
thở cuộc sống giúp con người ngày càng hiểu rõ hơn nguồn gốc, bản chất và những
yêu cầu của đạo đức. Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng đạo đức nổi bật nhất là quan
điểm của Socrate và Aristote. Theo Socrate, cái thiện phổ biến (cái chung) là cơ sở
của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh. Muốn tuân theo cái thiện phổ biến thì
phải nắm bắt được nó, hiểu nó. Ông tuyệt đối hóa vai trò tri thức đối với đạo đức
khi khẳng định: mọi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát, kém hiểu
biết, con người biết thế nào là tốt thì anh ta không bao giờ làm điều xấu. Aristote là
người đầu tiên tiếp cận tới bản chất của đạo đức. Ông quan niệm đức tính của con
người là hoạt động thực tiễn có ích cho xã hội của chính bản thân con người do rèn
luyện mà có chứ không phải là bẩm sinh. Ông cũng đề cập đến vấn đề động cơ của
hành động đạo đức, hành động đạo đức phải là hành động tự nguyện và được lựa
chọn một cách tự do.

12

Tư tưởng Tây Âu trung cổ chủ yếu là đạo đức Thiên Chúa giáo. Tư tưởng
này tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng và bác ái là nguyên tắc chủ yếu của
đạo đức. Tuy nhiên, sự bình đẳng đó chỉ là sự bình đẳng trước Chúa không phải là
trong hiện thực. Để chống đạo đức khổ hạnh của Thiên Chúa giáo Tây Âu trung
cổ, khôi phục và phát triển những tư tưởng đạo đức nhân đạo và tiến bộ trong thời
cổ đại, tư tưởng đạo đức học Tây Âu thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII với
những nhà tư tưởng như Rabelais, Spinoza, Helvétius, Hegel, Feuerbach,… đã bàn
về đạo đức trần thế chống lại đạo đức thần học. Họ cho rằng con người không phải
sinh ra là đã có đạo đức mà đạo đức nảy sinh từ tác động của môi trường xã hội,
trước hết là chính trị và pháp luật. Tuy nhiên, những tư tưởng này vẫn chứa đựng
những sai lầm, mâu thuẫn do quan điểm duy tâm về xã hội của các nhà tư tưởng
thời kỳ này.
Kế thừa một cách khoa học và có chọn lọc cũng như khắc phục những sai
lầm của những tư tưởng trước đây về đạo đức, lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết đạo đức học mang tính khoa học và cách
mạng. Tính khoa học đó được biểu hiện trước hết ở chỗ các ông đã nghiên cứu vấn
đề đạo đức xuất phát từ chính hiện thực cuộc sống và gắn các quan hệ đạo đức với
phương thức sản xuất xã hội lúc bấy giờ. Từ đó hai ông đi đến kết luận rằng đạo
đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội, nó nảy sinh do nhu
cầu đời sống xã hội “Chúng ta khẳng định rằng xét cho đến cùng mọi học thuyết
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc
bấy giờ” [40, tr.137]. Như vậy, đạo đức là sản phẩm và là biểu hiện của nền sản
xuất vật chất. Trên cơ sở phát triển của nền sản xuất vật chất mà đạo đức nảy sinh
và hoàn thiện, trong đó lao động sản xuất vật chất là nguồn gốc xét đến cùng của
đạo đức. Cũng xuất phát từ chỗ gắn các quan hệ đạo đức với thực tiễn, C.Mác và
Ph.Ăngghen còn cho rằng những quan niệm về đạo đức, lẽ sống, thiện ác không
phải cứ tồn tại bất biến mà chúng sẽ thay đổi cùng với sự phát triển của lịch sử xã

13

hội loài người, rõ nhất là khi phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo
đức sớm hay muộn cũng sẽ thay đổi theo.
Tư tưởng đạo đức Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng đạo
đức phương Đông và phương Tây. Nhưng nói tới tư tưởng đạo đức Việt Nam hiện
đại, không thể không nhắc đến tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân
loại, trên cơ sở truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng
định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như
ngọn nguồn của sông suối. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình.
Những phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của
Bác là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người cũng rất chú trọng những
phẩm chất khác như trung với nước, hiếu với dân, tinh thần quốc tế trong sáng,

đoàn kết với nhân dân lao động. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh hết sức cụ
thể, gần gũi với mỗi người qua những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ
thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội,
cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Hơn nữa, bản thân Hồ Chí
Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức, suốt đời không mệt mỏi tự rèn
mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Từ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, có thể khái quát rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận
xã hội. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, luôn phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh những điều kiện hiện thực của đời sống xã hội. Đạo đức là một

14

phương thức điều chỉnh hành vi, lối ứng xử của con người với con người thông qua
một hệ thống các giá trị và việc điều chỉnh này được thực hiện bằng những nguyên
tắc, khuôn phép, chuẩn mực đạo đức phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, từng đối
tượng cụ thể. Lịch sử loài người đã sáng tạo nhiều phương thức điều chỉnh hành vi
con người: phong tục, tập quán, pháp luật, đạo đức, tôn giáo…, nhưng đạo đức có
điểm khác biệt nhất định trong việc điều chỉnh hành vi con người đó là đạo đức
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của chủ thể đạo đức, được đảm bảo bằng sự
kiểm soát của lương tâm con người, bằng dư luận xã hội và sức mạnh của truyền
thống. Và xét đến cùng, thực chất đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
Như vậy, sự ra đời, phát triển của đạo đức không phải là ý muốn chủ quan
hay do một lực lượng thần thánh, siêu nhiên nào mà nó nảy sinh từ chính đời sống
và nó gắn liền với sự tồn tại, phát triển của con người. Là một phương thức đặc
biệt để nhận thức cuộc sống và điều chỉnh hành vi con người, nên đạo đức có vai
trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Vì vậy, cho dù ở thời đại nào, cho dù

là quốc gia văn minh hay lạc hậu thì đạo đức luôn được xem là một mục tiêu của
văn hoá, phát triển, là cội nguồn của hạnh phúc.
1.1.2. Phẩm chất đạo đức và phẩm chất đạo đức mới
1.1.2.1. Phẩm chất đạo đức
Xét theo nghĩa chung, phẩm chất đạo đức là những giá trị, chuẩn mực của
hành vi làm nên nhân cách một con người, được xã hội thừa nhận. Dựa vào khung
chuẩn mực ấy, người ta có thể đánh giá các hành vi tốt hay xấu, lợi hay hại, về
những điều được khuyến khích, cấm kị, hoặc về nghĩa vụ của mỗi người. Phẩm
chất đạo đức bao gồm các chuẩn mực về phẩm chất, các quy tắc ứng xử đạo đức
được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích cực của những quan
niệm, chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và đời sống xã hội.
Xét phẩm chất đạo đức của một con người là xét cả hai phương diện: mối
quan hệ giữa phẩm chất đạo đức với phẩm chất năng lực, bao gồm đức và tài, hồng

15

và chuyên, hay như Bác Hồ đã từng khẳng định: có tài mà không có đức thì vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Theo đó, có những phẩm
chất, tự thân nó không phải là đạo đức, nhưng khi trở thành một trong những thang
giá trị để đánh giá con người, được xem là chuẩn mực mà xã hội, cộng đồng chấp
nhận, được điều chỉnh bằng dư luận xã hội chứ không phải bằng pháp luật, thì sẽ là
phẩm chất đạo đức. Ví dụ như phẩm chất tự tin không thuộc về đạo đức, nhưng
trong thực tế cuộc sống, nếu con người thiếu tự tin, không dám quyết định việc nào
nên làm, việc nào không nên làm, dẫn tới a dua, hành động theo sự sai khiến của
người khác, thì lúc ấy, thiếu tự tin lại là nguyên nhân dẫn tới vi phạm đạo đức, vi
phạm pháp luật. Như vậy, tự tin là một giá trị thuộc nội hàm phẩm chất đạo đức.
Phẩm chất đạo đức là biểu hiện cụ thể của đạo đức. Có phẩm chất đạo đức
của từng giới, từng tầng lớp, ngành nghề xã hội tạo nên giá trị đạo đức của giới,
của tầng lớp, ngành nghề xã hội đó. Phẩm chất đạo đức của phụ nữ Việt Nam tạo
nên nét đẹp và góp phần khẳng định vị thế của người phụ nữ Việt Nam trong gia

đình và xã hội.
1.1.2.2. Phẩm chất đạo đức mới
Phẩm chất đạo đức mới là phẩm chất đạo đức của xã hội hiện đại. Nó bắt
nguồn từ phẩm chất đạo đức truyền thống, được hình thành trong quá trình hiện đại
hoá và phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại. Phẩm chất đạo đức của giai cấp vô
sản là phẩm chất đạo đức tiên tiến trong lịch sử đạo đức xã hội. Đây là phẩm chất
đạo đức đáp ứng cho sự tiến bộ của xã hội và hạnh phúc của con người. Nó đối lập
và khác biệt với những phẩm chất đạo đức cũ của giai cấp bóc lột.
Trong khi nhận thức yêu cầu xây dựng phẩm chất đạo đức mới của xã hội
hiện đại, cần phải tích cực đấu tranh với những phẩm chất đạo đức lạc hậu, phản
động đang ngăn cản quá trình phát triển lịch sử. Đồng thời, khi xây dựng phẩm chất
đạo đức mới chúng ta không được xem nhẹ những nhân tố tiến bộ của đạo đức nhân
loại. Bởi phẩm chất đạo đức của bất cứ xã hội nào cũng không thể hình thành từ hư

16

vô mà nó phải kế thừa những thành tựu đạo đức của xã hội trước đó. Phẩm chất đạo
đức mới bao giờ cũng khắc phục những gì là lạc hậu, bất tương thích và kế thừa,
phát triển những nét đặc sắc, giá trị đã được sáng tạo trong lịch sử nhân loại.
Phẩm chất đạo đức mới là sản phẩm của quá trình xây dựng xã hội mới, mang
tính nhân văn sâu sắc với tư tưởng cốt lõi: Tất cả vì con người, tôn trọng con người,
thương yêu con người, giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con người được
phát triển tự do và toàn diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể, cộng
đồng và xã hội. Phẩm chất đạo đức cộng sản gắn với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới
của giai cấp vô sản đó là đấu tranh xóa bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp,
tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây chính là một nguồn
động lực thúc đẩy sự phát triển của tiến bộ xã hội. Do vậy, phẩm chất đạo đức mới
là những phẩm chất trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm chất cao quý
của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình.
So với tất cả các phẩm chất đạo đức đã có trước đây thì phẩm chất đạo đức

mới có bước phát triển về chất. Điều này được biểu hiện ở tính cách mạng và khoa
học của nó. Tính cách mạng và khoa học của phẩm chất đạo đức mới được thể hiện
ở sự kế thừa có chọn lọc, phê phán những giá trị đạo đức trong các thời đại trước; ở
chỗ nó luôn được bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong
từng giai đoạn. Phẩm chất đạo đức mới tạo nên nền tảng nhân cách của con người
mới. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, phẩm chất đạo đức mới chính là phẩm chất đạo đức trong giai
đoạn xây dựng và phát triển xã hội mới hiện nay. Phẩm chất đạo đức đó được thể
hiện trong toàn bộ quá trình sống, lao động, sáng tạo xây dựng xã hội mới của toàn
thể nhân dân, với một nửa là phụ nữ.

17

1.2. Phẩm chất đạo đức truyền thống và phẩm chất đạo đức mới nảy
sinh của người phụ nữ Việt Nam
1.2.1. Phẩm chất đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
1.2.1.1. Cơ sở cho phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam
Trước khi tìm hiểu những phẩm chất đạo đức truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam, không thể không bàn đến những cơ sở nền tảng đã vun đắp cho sự hình
thành và phát triển các phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, các
phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam nói riêng. Đó là hoàn cảnh
xã hội Việt Nam với những điều kiện kinh tế và xã hội, văn hóa và tư tưởng đặc
thù, qua lịch sử phát triển của dân tộc.
Thứ nhất, đó là cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc,
giữ gìn bờ cõi quê hương của nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lúa nước ở nước ta,
với sự phát triển của kinh tế hộ gia đình và vai trò, địa vị đặc biệt của phụ nữ trong
kinh tế hộ gia đình.
Thứ ba, là ảnh hưởng của các tôn giáo Nho, Phật, Lão, tín ngưỡng thờ phụng

tổ tiên, các phong tục tập quán lâu đời về hôn nhân và gia đình, việc giáo dục đạo
đức đối với phụ nữ Việt Nam.
Chính trong điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội ấy, con người Việt
Nam đã hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Theo GS Trần Văn Giàu,
những phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước,
cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [7, tr.2]. GS Vũ Khiêu
lại cho rằng: những phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là lòng
yêu nước; truyền thống đoàn kết; lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo
lòng yêu thương và quý trọng con người. Kết quả nghiên cứu của Chương trình
Khoa học công nghệ cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam - và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội" (KX-07) cũng khẳng định: phẩm chất đạo đức truyền thống

18

con người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người [15,
tr.6]. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền
thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng
sâu sắc. Đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng
tạo trong lao động" [3, tr.4]. Từ cách tiếp cận về đạo đức truyền thống của Đảng ta
cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các phẩm chất đạo đức truyền
thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước; lòng thương người; tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc; cần cù, tiết kiệm.
Tất cả những phẩm chất đạo đức trên thể hiện sự gắn kết cá nhân - gia đình -
làng xã - Tổ quốc, là tinh thần anh dũng, kiên cường, tạo nên sức mạnh cộng đồng
để tồn tại, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

Các giá trị
đạo đức truyền thống đã thấm sâu vào đời sống tinh thần của cả dân tộc qua các thế
hệ và chính chúng đã làm nên sức mạnh Việt Nam suốt nhiều thế kỷ, tạo nên dáng
vóc Việt Nam với bản sắc riêng.

Phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam là một bộ phận hữu
cơ của truyền thống đạo đức dân tộc. Lịch sử hàng nghìn năm hình thành và phát
triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình đấu tranh bền bỉ, dẻo dai, “sáng
chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa” để dựng nước và dũng cảm, kiên cường
chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Trong quá trình đó, với thiên chức làm vợ, làm
mẹ, vai trò làm “nội tướng” trong gia đình và là người công dân của xã hội, người
phụ nữ vừa góp phần to lớn hình thành nên các phẩm chất đạo đức của dân tộc,
vừa ra sức bảo tồn, trao truyền, phát huy phẩm chất đạo đức đó qua các thế hệ.
Cũng từ đó, kết tinh nên những phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp của phụ nữ
Việt Nam.
1.2.1.2. Những phẩm chất đạo đức truyền thống cao đẹp của phụ nữ Việt Nam
Nói đến vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống là nói tới những
phẩm chất đạo đức “Công, dung, ngôn, hạnh”. Trong lễ giáo xưa, xã hội lấy tam

19

tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử); tứ đức (công, dung,
ngôn, hạnh) làm chuẩn mực để đối chiếu, đánh giá phẩm chất đạo đức của người
phụ nữ. Tứ đức ấy đã làm nên nét đẹp mang bản sắc riêng của người phụ nữ. Tuy
nhiên, ở từng hoàn cảnh cụ thể nét đẹp đó được thể hiện ở những phương diện
khác nhau. Có thể khái quát những phẩm chất đạo đức truyền thống tiêu biểu ở phụ
nữ Việt Nam là: Yêu nước, anh hùng, bất khuất; đảm đang; trung hậu; thủy chung,
đức hy sinh cao cả.
Trước hết phải nói đến tinh thần yêu nước, quyết tâm hy sinh vì nền độc lập
dân tộc của phụ nữ Việt Nam. Truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất được
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên vị trí hàng đầu những phẩm chất đạo đức cao cả của
người phụ nữ Việt Nam. Trong thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm
ngày phụ nữ Quốc tế, Bác Hồ viết: "Phụ nữ Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu
tranh anh dũng và lao động cần cù". Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ
VIII năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng chỉ rõ: Truyền thống và phẩm giá của

phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước,
tình nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh, tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam.
Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc; biểu
hiện ở khát vọng và hành động tích cực để bảo vệ, phục vụ và đem lại lợi ích cho
Tổ quốc và nhân dân. Nó trở thành một giá trị, một động lực tinh thần vô cùng
mạnh mẽ thúc đẩy phụ nữ Việt Nam kiên cường, anh dũng hy sinh để giành lại và
giữ gìn nền độc lập Tổ quốc. Là những người hết mực yêu hòa bình, yêu tự do nên
khi bờ cõi bị xâm chiếm, nhân dân bị nô lệ, người phụ nữ Việt Nam thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hình ảnh
nổi bật về người phụ nữ Việt Nam cổ truyền là người chiến sĩ đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Như một nhà thơ đã viết:
“Trên đất nước nghìn năm chảy máu,
Nghìn năm người con gái vẫn cầm gươm”

20

Những tấm gương phụ nữ yêu nước vĩ đại trong lịch sử dân tộc như Hai Bà
Trưng những năm 40, 43 ở đất Mê Linh, Triệu Trinh Nương năm 248, ở Thanh
Hoá đã đặt nền tảng cho truyền thống yêu nước của phụ nữ và cả dân tộc Việt
Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ, phát huy truyền thống yêu nước, phụ nữ Việt
Nam đã kiên cường, anh dũng đấu tranh với kẻ thù trên các mặt trận sản xuất,
chiến đấu. Ở miền Bắc, chị em hăng hái tham gia các phong trào “ba đảm đang” thi
đua yêu nước, đóng góp cao nhất sức người, sức của để xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương vững chắc của miền Nam. Hàng chục nghìn phụ
nữ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận theo lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tất cả vì miền Nam ruột thịt". Ở miền Nam, chị em phụ
nữ đã đoàn kết cùng nhau đánh địch dưới mọi hình thức: đấu tranh vũ trang, đấu
tranh chính trị, binh vận, biểu tình, "Đội quân tóc dài" - một biểu tượng cách
mạng độc đáo đã dũng cảm, mưu trí, linh hoạt trong đấu tranh cách mạng của phụ

nữ Việt Nam. Có thể nói, phụ nữ ở hậu phương cũng như tiền tuyến đã đóng góp to
lớn vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Truyền thống yêu nước của người phụ nữ Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ
với lòng thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động. Lòng thương
người của phụ nữ Việt Nam thấm đượm trong các mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, làng xóm và trong cả cộng đồng dân tộc.
Đảm đang là phẩm chất đạo đức truyền thống nổi bật của phụ nữ Việt Nam.
Chính vai trò của người phụ nữ trong gia đình, xã hội khiến người phụ nữ đảm
đang gánh vác công việc gia đình và công việc xã hội với đầy đủ lòng tự trọng và ý
thức trách nhiệm.
Giá trị nổi bật của truyền thống đảm đang của phụ nữ Việt Nam là chu toàn
công việc gia đình và công việc xã hội. Có quan niệm cho rằng: trong xã hội truyền
thống, địa vị xã hội của người phụ nữ không được đề cao nên họ chỉ lo công việc

21

gia đình, họ tộc mà thôi. Điều đó hoàn toàn không đúng với thực tiễn của lịch sử
Việt Nam. Bởi từ xã hội cổ truyền cho đến ngày nay, ở mức độ khác nhau, phụ nữ
Việt Nam đều tham gia vào hầu hết các công việc của gia đình và xã hội. Ở vai trò
nào, công việc nào người phụ nữ Việt Nam cũng hoàn thành xuất sắc trọng trách
của mình. Vì vậy, ở họ ta hình dung ra ba con người khác nhau, nhưng thống nhất
với nhau: Người lao động, Người nội trợ và Người chiến sĩ. Bên cạnh đó, tuy
không đậm nét, nhưng ở người phụ nữ Việt Nam còn ẩn chứa những hình ảnh khác
- Người nghệ sĩ, Nhà chính trị… Tất cả đó chính là sự phản chiếu vai trò cao cả,
không thể thiếu của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, thể hiện rõ nét sự
đảm đang của họ.
Trong gia đình, người phụ nữ thực hiện thiên chức làm vợ; làm mẹ; làm con
dâu; làm nội tướng chợ búa, bếp núc; thu chi trong kinh tế gia đình; lao động sản
xuất đóng góp vào nguồn thu của gia đình. Sự đảm đang trong gia đình là sự thể
hiện rõ nét vẻ đẹp của người phụ nữ ở phương diện “công” trong quan niệm về Tứ

đức của cha ông ta. “Công” ở đây là sự khéo léo của người phụ nữ trong việc chăm
lo cho hạnh phúc gia đình, nữ công gia chánh và thực hiện thiên chức làm vợ, làm
mẹ cao cả.
Với thiên chức làm vợ, khi nam giới thường xuyên phải vắng nhà vì bị huy
động đi phu, đi lính thì phụ nữ đã thay chồng gánh vác, chu toàn mọi việc trong
nhà và cộng đồng. Làm đẹp, làm sang cho chồng cũng là thái độ ứng xử văn hóa của
người phụ nữ đối với người chồng. Để giữ gìn quan hệ xã hội của chồng, người phụ
nữ không chỉ ân cần, niềm nở mà còn chu đáo trong việc tiếp đãi khách. Tục ngữ
Việt Nam xưa có câu “giàu vì bạn, sang vì vợ”, lối hành xử ấy của người vợ không
chỉ nết na mà còn rất thông minh, tinh tế, đối ngoại “đẹp” là để đối nội “tốt” trong
quan hệ vợ chồng. Phụ nữ Việt Nam có truyền thống đứng đằng sau hậu thuẫn, hỗ
trợ cho chồng.

×