Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Phát huy nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ DIỄM






PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở HẢI DƢƠNG HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ DIỄM





PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở HẢI DƢƠNG HIỆN NAY



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. TRẦN PHÚC THĂNG







HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƢỜI VÀ NGUỒN LỰC CON
NGƢỜI TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM 6
1.1. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về con người 6
1.1.2. Khái niệm về con người 6
1.1.2. Nguồn lực con người 11
1.1.3. Vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển xã hội 14
1.2. Nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta hiện nay 16
1.2.1. Đặc điểm của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam 16
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nươc ta hiện nay 19
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Ở HẢI DƢƠNG
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN 25
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát huy nguồn lực con
người ở Hải Dương trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn 25
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 25
2.1.2. Trình độ kinh tế 26
2.1.3. Các yếu tố truyền thống văn hóa 30
2.2. Thực trạng việc phát huy nguồn lực con người ở Hải Dương
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn 31
2.2.1. Những thành tựu, hạn chế của việc phát huy nguồn lực con
người ở Hải Dương trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn 31
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong việc phát huy
nguồn lực con người ở Hải Dương trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 50
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Ở HẢI DƢƠNG TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN 55
3.1. Những phương hướng 55
3.1.1. Phải tạo ra bước chuyển quan trọng trong việc phát huy toàn
diện nguồn lực con người trên địa bàn tỉnh Hải Dương 55
3.1.2. Tập trung mọi lực lượng, sử dụng mọi biện pháp để phát huy
nguồn lực con người trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở Hải Dương 62
3.2. Các giải pháp chủ yếu phát huy nguồn lực con người ở Hải
Dương trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn 65
3.2.1. Đào tạo nguồn lực con người cho CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn 65
3.2.2. Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người trên địa bàn nông thôn 70
3.2.3. Thu hút nguồn lực con người chất lượng cao ngoài tỉnh Hải
Dương 72

3.2.4. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng
xã hội vào việc bồi dưỡng nguồn lực con người hiện có chất
lượng ngày càng cao cho nông thôn 73
3.2.5. Đổi mới nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý về nguồn lực con người 74
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 86


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế và đóng góp của 3 khu vực kinh tế
và tốc độ tăng chung tỉnh Hải Dương 5 năm (2006 - 2010) 27
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế 28
Bảng 2.3. Dân số trung bình và dân số trong độ tuổi lao động 38
Bảng 2.4: Lao động phân theo nhóm tuổi 39
Bảng 2.5: Lao động đang việc làm trong các ngành kinh tế 40
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động theo khu vực sản xuất 42
Bảng 3.1. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 71

BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐH : Đại học
ĐHSP : Đại học sư phạm
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HDI : Chỉ số phát triển con người
KT - XH : Kinh tế - xã hội
LLSX : Lực lượng sản xuất

NNL : Nguồn nhân lực
QHSX : Quan hệ sản xuất
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
XHCN : Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang kinh tế tri thức và xu thế
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn lực con người ngày càng thể
hiện vai trò quyết định của nó. Một số lý thuyết tăng trưởng gần đây đã chỉ ra
rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít
nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện
đại, nguồn lực phát triển và bền vững. Trong đó động lực quan trọng nhất của
sự tăng trưởng kinh tế bền vững ở tất cả các quốc gia chính là những con
người phát triển toàn diện cả về thể lực và trí lực. Sự thành bại của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tùy thuộc vào những “bí quyết” về
đào tạo, sử dụng và phát huy nhân tố con người.
Hiện nay, dưới tác động của cách mạng khoa học, công nghệ và xu thế
quốc tế hóa, công nghiệp hóa là con đường tất yếu mà các nước đang phát
triển phải trải qua để có thể đi nhanh, đuổi kịp các nước phát triển. Nước ta là
một nước lao động nông nghiệp là chủ yếu, 80% dân cư sống ở nông thôn, lao
động nông nghiệp chiếm 70% lao động xã hội. CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn là một tất yếu khách quan, một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo những tiền đề cơ bản để giải
quyết hàng loạt vấn đề về chính trị - xã hội ở nông thôn.

Trong những năm gần đây, nhờ có đường lối đổi mới, CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn đã bắt đầu được thực hiện và đạt được một số thành
tựu đáng khích lệ. Tuy vậy, còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng còn lạc hậu.
Kỹ thuật sản xuất còn thô sơ. Năng suất lao động còn thấp. Đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc đẩy nhanh tiến độ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn là nhu cầu cấp thiết.
2

Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vì
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh, dân chủ”. Từ Đại hội
lần thứ VIII (6/1996), Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền
vững”, xem việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH”,
phải “đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”; Đại hội Đảng
lần thứ XI (2011) tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung những quan điểm đó, để phấn
đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại và thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà cương lĩnh 2011
đề ra.
Cùng với nhiều tỉnh khác trong cả nước, Hải Dương cũng đang trong quá
trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Là một tỉnh đông dân với hơn 1,7 triệu
người (năm 2011), nguồn lao động dồi dào, nhưng chưa phát huy được nguồn
lực hiện có, Hải Dương cần phải khai khác toàn bộ những tiềm năng, thế mạnh
về con người của địa bàn mình. Với lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Phát huy
nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
Hải Dương hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát huy nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, các hội thảo khoa học, các bài báo, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đề cập đến

dưới nhiều góc độ, phạm vi rộng hẹp khác nhau. Nhiều tác giả đã đề cập đến vai
trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội như:
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
đất nước” (1999), của Mai Quốc Chánh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- “Nâng cao tính tích cực xã hội của người lao động trong quá trình đổi
mới” (1996) của Nguyễn Văn Hạ, luận án PTS Khoa học Triết học, Hà Nội;
3

- “Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” (1993) của Đỗ Mười , Tạp
chí thông tin lý luận, số 3;
- “Phát huy nhân tố con người trong đổi mới quản lý kinh tế” (1993)
của Nguyễn Văn Sáu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- “Quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và ảnh hưởng
của nó đến sự hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí minh”, của PGS, TS Bùi
Đình Phong;
Một số tác giả tiếp cận theo hướng xem xét những động lực kích thích
tính tích cực của con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta:
- “Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH đất nước” của Nguyễn Trọng
Chuẩn, 3/1994;
- “Xây dựng nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH ở thành phố
Đà Nẵng” của Vương quốc Được, luận văn thạc sĩ, 1999;
- “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH”, “Về
phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH” của GS.TS Phạm Minh
Hạc, 1996;
- “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức ở
nước ta hiện nay” của GS Đặng Hữu, 2/2005;
- “Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam” của
tiến sỹ Đoàn văn Khái, 2005;
- “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo đối với

phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH” của Nguyễn Trọng
Thanh, Luận án tiến sĩ, 2001;
Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu tập trung ở vấn đề phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn, vai trò của nông nghiệp, nông thôn;
4

xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm Đáng chú ý là các công trình của
GS Nguyễn Điền "CNH nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt
Nam" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); PGS Nguyễn Văn Trung “Phát
triển nguồn lực trẻ ở nông thôn để CNH, HĐH nông thôn nông nghiệp nước
ta” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); PGS. PTS Nguyễn Đức Bách
"Những lợi ích kinh tế - xã hội tác động đến lòng tin của nông dân và con
đường XHCN" (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2-1992).
Các công trình trên về cơ bản đã trình bày vai trò, tác động, ưu thế,
cũng như mặt tích cực và hạn chế của nguồn lực con người trong quá trình
thực hiện CNH, HĐH đất nước nói chung, đồng thời cũng đưa ra được những
phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
cơ bản về vấn đề con người và việc phát huy nguồn lực con người trong thời kỳ
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Hải Dương dưới góc độ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cở sở lý luận về nguồn lực con người và thực trạng của việc phát
huy nguồn lực con người ở Hải Dương, luận văn đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người của tỉnh
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hải
Dương hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn lực con người

- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng việc phát huy nguồn lực con người
trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Hải Dương.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy
nguồn lực con người trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Hải Dương.
5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu nguồn lực con người và vấn đề phát huy
nguồn lực con người ở Hải Dương hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy nguồn lực con người
trong phạm vi tỉnh Hải Dương thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
trong thời kỳ từ 1986 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng nguyên tắc phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương
pháp khảo sát, điều tra xã hội học và tham khảo, kế thừa các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc phát huy nguồn lực con người ở
Hải Dương trong những năm qua.
- Luận giải một số giải pháp phát huy nguồn lực con người trong thời
kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Hải Dương hiện nay
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chƣơng 1: Lý luận chung về con người và nguồn lực con người trong
thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.

Chƣơng 2: Thực trạng nguồn lực con người ở Hải Dương trong thời kỳ
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Chƣơng 3: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn
lực con người ở Hải Dương trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn.
6

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƢỜI VÀ NGUỒN LỰC
CON NGƢỜI TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM

1.1. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về con ngƣời
1.1.1. Khái niệm về con người
Con người là chủ thể xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá
trình phát triển, vì vậy con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau. Các khoa học chuyên ngành nhận thức con người bằng
cách chia hệ thống thành yếu tố. Còn triết học nghiên cứu con người bằng
cách tổng hợp các yếu tố bằng hệ thống. Triết học về con người được hình
thành trên cơ sở tổng kết những thành tựu của các khoa học cụ thể trong lĩnh
vực nghiên cứu về con người.
Trong sự phát triển của triết học có nhiều quan niệm khác nhau về bản
chất con người. Thời cổ đại, Các nhà triết học coi con người là một vũ trụ
nhỏ, đường đời của mỗi con người được gọi là số phận và nó được quy định
bởi ý chí của tạo hóa. Thế gới quan tôn giáo coi con người như một thực thể
nhị nguyên, nó là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là cái
nhất thời, tinh thần là cái vĩnh cửu. Do hạn chế về điều kiện lịch sử, nên quan
niệm về con người thường mang tính chất duy tâm, thần bí, trừu tượng. Thời
kỳ Trung cổ ở phương tây cùng với sự thống trị của Thiên Chúa giáo, con
người được quan niệm là do thượng đế , đức Chúa trời sáng tạo ra, các vị thần

thánh quyết định thân phận. Thời kỳ Phục Hưng và cận đại, con người được
đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Chủ nghĩa nhân đạo tư sản đề cao con
người với những nhu cầu cá nhân. Thời kỳ cận đại quan niệm của các nhà
siêu hình coi con người là “một cỗ máy”. Phoi - ơ - bắc là một trong những
nhà duy vật lớn nhất của triết học trước Mác, mặc dù ông đấu tranh quyết liệt
7

chống chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông lại đồng nhất tính sinh học vào bản chất
con người, tách con người ra khỏi đời sống xã hội và hòa tan vào bản chất tôn
giáo, do đó ông không thấy được vai trò tích cực của sản xuất trong quá trình
nhận thức, cải tạo thế giới và hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy ông
không hiểu được bản chất xã hội của con người. Quan niệm của Phoi - ơ - bắc
về con người vẫn mang tính trừu tượng, phi lịch sử . Từ quan niệm đó, ông đã
trượt từ chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về giới tự nhiên sang chủ nghĩa
duy tâm trong quan niệm xã hội.
Những sai lầm thiếu sót trong nhận thức triết học về bản chất con người
của các trào lưu triết học trước Mác có nguyên nhân từ lập trường duy tâm
hay từ phương pháp siêu hình trong cách xem xét vấn đề con người. Chỉ đến
chủ nghĩa Mác, với chủ nghĩa duy vật triệt để và phương pháp biện chứng
khoa học, thì những vấn đề về con người mới được giải quyết một cách khoa
học và toàn vẹn.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội, về mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - xã hội.
Về con người với tư cách là chủ thể sáng tạo lịch sử. Triết học Mác-Lênin
quan niệm con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã
hội. Con người là bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm cao nhất của tự nhiên.
Đồng thời, con người là sản phẩm của xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã
hội. Vì vậy con người có hai mặt không thể tách rời: Tự nhiên - xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.

C.Mác thừa nhận con người là động vật cao cấp “Con người sống bằng giới tự
nhiên. Như thế là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó
con người phải duy trì một quá trình thường xuyên để tồn tại” [35, tr.135].
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên; là kết quả của quá trình phát
triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
8

Bản chất tự nhiên và bản chất xã hội không tồn tại tách rời nhau mà
chúng hòa quyện vào nhau trong sự phát triển của cá thể và trong bản chất của
nó. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là
đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu
xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Sự hình thành bản chất của con người không phải là kết quả của một
hành động trong một lúc nào đó, mà là một quá trình con người không ngừng
hoàn thiện khả năng tồn tại của mình trước sự tác động thường xuyên của tự
nhiên và xã hội.
Con người vượt lên loài vật trên cả ba phương diện: quan hệ với tự
nhiên; quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người
với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi
hoạt động của con người. Hoạt động thực tiễn, mà đầu tiên là lao động là nền
tảng có tính chất quyết định của sự thống nhất giữa thực thể sinh vật và thực
thể xã hội. “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế một mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói :
Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [35, tr.11]. Chính vì vậy Mác đã
nêu lên luận đề nổi tiếng “ Bản chất con người không phải là một cái gì trừu
tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [35, tr.11].
Luận đề trên chính là sự khẳng định rằng không có cá nhân con người

tồn tại trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Mà, con
người luôn cụ thể xác định, tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần bằng hoạt
động thực tiễn của mình, bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình thông qua
các quan hệ xã hội. Như vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến
9

hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng là con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử xã hội.
Thấm nhuần và vận dụng phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác-
Ăngghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến những quyền tối thượng của
con người ngay ở những dòng đầu tiên trong “Tuyên ngôn độc lập” của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” [45, tr.1].
Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng (nhất là đối với người già và trẻ
em), tin tưởng vào những khả năng của con người, nâng niu những tài năng,
nghiêm khắc với những thói hư tật xấu song cũng rất mực độ lượng bao dung,
luôn mong muốn và đấu tranh cho hòa bình, chống chiến tranh để con người
có một cuộc sống hạnh phúc. Người giải thích về chữ “Nhân” như sau: “Nhân
nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [47, tr.171].
Tin ở sức mạnh của con người. Hồ Chí Minh nhận định: Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sổi nổi, nố kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn , nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và mất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng: Làm cách mạng là để giải phóng con người một cách toàn
diện; Điều trăn trở lớn nhất trong suốt cuộc đời của Người là “Tôi chỉ có một

ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành…” [45, tr.161]. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ mong giải
phóng con người khỏi ách nô lệ mà còn hướng tới mục tiêu giải phóng con
10

người khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được
Người nhắc đến rất nhiều, nhưng Người không nói đến những điều cao xa mà
thường chủ yếu nhấn mạnh đến việc chăm lo đời sống của con người. “Nói
một cách tóm tắt một mặt, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được
ấm no và sống một đời hạnh phúc” [49, tr.17]. Song, cách mạng cũng là sự
nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Người không
ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vì đó chính là động lực cho cách
mạng, nguyên nhân của mọi thắng lợi. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Hồ
Chí Minh quán triệt rất rõ, là sự nối tiếp truyền thống “dân vi bản” trong lịch
sử Việt Nam, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt cả quá trình cách
mạng nước ta từ trước tới nay. Sự nghiệp giải phóng con người thực chất là
giải phóng nhân dân lao động, giải phóng dân tộc.
Đối với Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng xã hội cũng đồng nghĩa với
cách mạng con người, nên ngay sau khi tìm được chân lý cách mạng, Người
đặt tất cả tâm huyết của mình vào việc xây dựng con người mới. “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
[46, tr.310]. Muốn con người trở thành động lực chính của cách mạng, cần bồi
dưỡng tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện: phát huy mặt tốt đẹp, tích cực
tạo môi trường dân chủ, thực hiện công bằng xã hội để con người phát triển hết
những mặt năng lực tiềm ẩn của mình. Người nêu các tiêu chuẩn cho từng lớp
người thuộc từng lứa tuổi, từng nghề nghiệp: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên,
phụ nữ, giáo viên, học sinh, công an nhân dân, quân đội nhân dân,…
Cách mạng Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh chung của thế giới, phải

đối mặt với nhiều vấn đề mới, đòi hỏi việc xây dựng con người mới phải có
những biện pháp phù hợp.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định cần xây dựng con người
11

phát triển toàn diện cả đức và tài, nắm trong tay các tri thức mới, đặc biệt trên
lĩnh vực khoa học và công nghệ, năng lực phát huy nội lực, có lập trường tư
tưởng vững vàng không xa rời lý tưởng Xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình Đại hội Đảng lần thứ IX đặc
biệt nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người, trong văn
kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã chỉ
rõ: “Nguồn lực con người là quý báu nhất” [14, tr.9]. Trong các văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI Đảng ta luôn coi chiến lược xây dựng
con người mới và phát triển nguồn lực con người cho sự nghiệp đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó
nguồn lực con người là yếu tố quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác như
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, thành tựu khoa học và công nghệ.
1.1.2. Nguồn lực con người
Nói tới nguồn lực con người hay nguồn nhân lực, vốn người là khả
năng, tiềm năng mà con người được huy động vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia, một vùng lãnh thổ hay một địa phương. Khái niệm
nguồn lực con người đã được nhiều quốc gia, nhiều học giả nghiên cứu và
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau.
Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đã đề cập
đến khái niệm nguồn lực con người với các góc độ khác nhau. Dưới góc độ
kinh tế, ngân hàng thế giới (wB) coi nguồn lực con người là “vốn người” bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… là sở hữu của cá nhân mỗi người.
Liên Hợp Quốc lại cho rằng: nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ
năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước.

Nguồn lực được hiểu theo lý thuyết phát triển, đó là nguồn lực con
người của một quốc gia, là bộ phận của các nguồn lực tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực con người khác với nguồn lực khác
(vốn, đất đai, công nghệ,…) ở chỗ nguồn lực con người với hoạt động lao
12

động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi giới tự nhiên, là yếu tố
quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Trong mọi hình thái Kinh tế - xã hội,
nguồn lực con người là yếu tố trung tâm, giữ vai trò trung tâm, vai trò quyết
định đối với sự phát triển của sản xuất. Đồng thời là mục đích của nền sản
xuất xã hội.
Ở nước ta, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm
về nguồn lực con người. Theo quy định của Tổng cục Thống kê thì đó là
nguồn lực của một quốc gia, là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả
năng tham gia lao động (ở nước ta được hiểu là bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi
đến 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ trừ những người tàn tật, mất sức
lao động loại nặng và cả lao động trẻ em và lao động cao tuổi). Giáo sư Phạm
Minh Hạc quan niệm: “Nguồn lực con người là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị
(ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc nào đó” [20,
tr.269]. Để rõ hơn về kết cấu bên trong của nó, giáo sư khẳng định “Nguồn
lực con người là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [20, tr.328]. Giáo sư Hoàng
Chí Bảo giải thích cụ thể hơn về khái niệm nguồn lực con người như sau:
Ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh
nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người,
là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình,
của cộng đồng vào việc tìm tòi, cách tân các hoạt động, sáng tạo ra các giải
pháp mới đối với công việc như một sự sáng tạo văn hóa [2, tr.14-15].
Bộ Lao động Thương binh Xã hội xác định: “Nguồn lực con người là

tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng
ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây
là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội” [4, tr.3]. Như vậy,
với khái niệm này nguồn lực con người được xác định thông qua số lượng,
13

chất lượng dân số một quốc gia, một địa phương có thể tham gia vào hoạt
động kinh tế - xã hội, đây là nguồn lực quan trọng nhất trong các nghồn lực
để phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra còn nhiều định nghĩa về nguồn lực con người khác nhau:
Nguồn lực (Human Resources) là tổng thể các tiềm năng (lao động) con
người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị
ở mức độ nào đó có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể.
Nguồn lực con người (Human Resources) là đội ngũ những người đang
và sẽ được bổ sung vào lực lượng lao động xã hội với toàn bộ tình trạng sinh
thể, vốn văn hóa, trình độ chuyên môn… mà họ tích lũy được.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau, các nhà khoa học đã đưa
ra khái niệm về nguồn lực con người. Nhưng tựu trung lại, nguồn lực con
người của một quốc gia, một địa phương được xác định là nguồn cung cấp
sức lao động cho xã hội, bao gồm cả số lượng, chất lượng của dân số và
người lao động được chuẩn bị ở một mức độ nhất định sẵn sàng được huy
động vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Đó là sự kết hợp giữa thể lực, trí lực,
đạo đức và những năng lực, phẩm chất khác của con người như tình cảm, lý
tưởng, ý trí… giữa chúng có mối liên hệ qua lại, bổ sung và tác động lẫn
nhau, tạo ra sự phát triển toàn diện của nguồn lực con người.
Khi nói tới nguồn lực con người cần nhấn mạnh sự phát triển trí tuệ, thể
lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người bởi vì trí tuệ ngày càng
đóng vai trò quyết định sự phát triển nguồn nhân lực. Nó quyết định khả năng
sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như lựa chọn

phương pháp thích hợp để sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Tìm hiểu đúng đắn về nguồn nhân lực là cơ sở
quan trọng định hướng cho việc nuôi dưỡng, khơi dậy và phát huy tốt tiềm
14

năng con người, nhờ đó khai thác có hiệu quả các nguồn lực khác vì mục tiêu
phát triển.
1.1.3. Vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển xã hội
Lịch sử phát triển xã hội loài người là sự thay thế nhau của các hình
thái kinh tế xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con
người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội. Các Mác cho rằng, xu
hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi tiến trình phát
triển của lực lượng sản xuất bao gồm con người và những công cụ lao động
do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất tự nó đã nói lên
trình độ phát triển của xã hội. Suy đến cùng, người lao động là yếu tố quyết
định nhất trong lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất tự nó
đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh và sử
dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho
hoạt động sống của chính con người. Như chúng ta đã biết, sản xuất là quá
trình hoạt động thực tiễn cơ bản của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu
của mình. Sản xuất quyết định nhu cầu nhưng không có nhu cầu thì cũng
không có sản xuất. Nhu cầu của con người tăng lên không ngừng, do đó mà
con người luôn luôn phát triển sản xuất vì cùng với quá trình lao động sản
xuất, sức mạnh và kỹ năng của con người ngày càng được tăng lên, bộ óc và
bàn tay con người không ngừng được hoàn thiện. Sự hoàn thiện ấy là nguồn
vật chất vô tận cho những hoạt động ngày càng phức tạp, đa dạng của con
người, đưa đến sức mạnh to lớn về cơ sở vật chất và kỹ thuật của xã hội. Ở
đây, trí tuệ của con người cũng không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ lao
động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu. Cùng với người lao động,

công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai
trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo
ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của
15

con người trong quá trình lao động sản xuất. Qua thời gian công cụ lao động
không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện
không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình
độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các triều đại kinh tế lịch sử. Tất cả
đều chứng tỏ rằng con người với bàn tay và khối óc của mình là nhân tố thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh vai trò con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, con
người còn là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Con người sáng tạo ra lịch
sử, tạo ra xã hội. Khi giải thích sự vận động của lịch sử nhân loại, các ông
luôn nhấn mạnh rằng, đó là lịch sử của con người, do con người làm ra.
Theo Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là
phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của con người,
giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hóa để
con người sống với cuộc sống đích thực của mình. Đó là một cuộc cách mạng
phải giải quyết đồng bộ và triệt để những vấn đề phức tạp: vấn đề bảo đảm
việc làm và thu nhập cho người lao động, vấn đề công bằng xã hội, vấn đề
quyền lực của giới quan chức không trở thành một đặc quyền với quần chúng
nhân dân… Đây là sự nghiệp của toàn xã hội.
Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến
động, chỉ có con người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của
xã hội mới là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công
hay thất bại của sự phát triển xã hội, nhưng mọi định hướng phát triển vẫn
phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người. Công
cuộc đổi mới nước ta đều phải hướng tới con người mà cụ thể là CNH, HĐH

là do con người, phụ thuộc vào con người và vì con người.
16

1.2. Nguồn lực con ngƣời trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở nƣớc ta hiện nay
1.2.1. Đặc điểm của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
Trước yêu cầu rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH đất nước, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Tác động và đẩy mạnh sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn có ý
nghĩa góp phần quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt đất nước. Chính vì thế
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có vị trí hết sức quan trọng, là một bộ
phận hữu cơ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển
LLSX vừa củng cố hoàn thiện QHSX XHCN ở nông thôn phù hợp với mục
tiêu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nói chung của đất nước trong từng
thời kỳ. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng
của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong quá trình đổi mới,
Đảng ta xác định CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một trong những nội
dung cơ bản của CNH, HĐH đất nước. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX đã ra nghị quyết về “Đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010”. Các quan điểm của Đảng trong Nghị
quyết này là sự kế thừa, phát triển các quan điểm đã được xác định trong các
Nghị quyết Đại hội và các Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị từ
trước tới nay.
CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường,… đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất
nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nông sản hàng hóa trên thị trường.
CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành công
17

nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của lao động nông nghiệp; xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi
trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp,
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [22, tr.93-94].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (12/01/2011) đã nhấn mạnh nhiệm
vụ quan trọng của nước ta trong những năm tới là: “đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” Để đạt được mục tiêu
đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó: “Phát triển nhanh
nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai.
Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn lực con
người ở nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi
thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá đúng và trúng này đã và đang tập
trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn lực con người, để tồn tại và phát
triển trong thế giới năng động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế,
Đại hội XI cũng xác định rõ phải: “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn lực
con người với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội
dung quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền
vững của nước ta trong điều kiện hiện nay.
Như vậy nội dung tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam gồm 2 quá trình rất rõ ràng, đó
là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và quá trình CNH, HĐH nông thôn với
mục tiêu tổng quát và lâu dài là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao
trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu. Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, văn
minh, có cơ cấu kình tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, cơ cấu hạ tầng kinh

tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
18

Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước gắn liền với thị trường trong và ngoài
nước. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần chính là xây dựng một
hệ thống QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá
độ ở Việt Nam, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng
kinh tế, phát triển LLSX, có khả năng hội nhập vào thị trường quốc tế.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn bao gồm toàn bộ hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nói
chung ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp hiện đại và phương
thức tổ chức tiên tiến. Đó là quá trình phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta có những
thuận lợi và khó khăn nhất định. Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết, lòng tự tôn dân tộc với quyết tâm chống nghèo nàn, lạc hậu, có
tinh thần lao động cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo,… Đó là truyền
thống quý báu của dân tộc ta, là động lực tinh thần phát huy sức mạnh nội lực
góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước cũng như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố đảm bảo cho sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nói riêng. Công cuộc đổi mới do Đảng khới xướng và lãnh đạo lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu. Là một nước nông nghiệp với 80% dân
số sinh sống tại nông thôn và 70% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Đây
chính là nguồn nhân lực to lớn, đồng thời đây là một thị trường rộng lớn cho
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn chiếm đại đa số
tài nguyên thiên nhiên như đất đai, động thực vật… Sự đa dạng, phong phú

19

của tài nguyên thiên nhiên sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ
cấu nghành nghề, cây trồng, vật nuôi,…
Bên cạnh đó nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để lại hậu
quả nặng nề, những tàn dư của chế độ phong kiến còn thiều, các thế lực thù
địch luôn tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân
dân. Nền Kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu.
Bên cạnh đó ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo
dài trong nhiều năm, số người được đào tạo tay nghề chưa cao, mặt bằng dân
trí thấp. Hầu hết lao động nông thôn chưa được đào tạo về nghề nghiệp. Đây
là khó khăn lớn nhất cho việc tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại nhằm
đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Vấn đề thừa lao động là một sức ép lớn cho xã
hội. Đây là một trong những khó khăn lớn lớn hiện nay đối với việc phát huy
nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nươc ta hiện nay
Trải qua hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong đó
10 năm (2001 - 2010) thực hiện nghị quyết Tw (Khóa IX) về “Đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010” và 3 năm thực hiện
nghị quyết số 26 - NQ/Tw, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
(khóa X) “về nông nghiệp, nông dân và nông thôn”, sản xuất nông nghiệp
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn - một bộ phận gắn liền với CNH, HĐH đất nước - diễn ra
trong những điều kiện thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen, tác
động lẫn nhau. Để tận dụng những thuận lợi và thời cơ, khắc phục những khó
khăn và nguy cơ, để có thể “đi tắt, đón đầu”, thực hiện mục tiêu CNH, HĐH
tùy thuộc trước hết vào chất lượng nguồn lực con người.

×