Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 126 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
***



ĐẬU VĂN DŨNG



ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số : 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Văn Hiền





HÀ NỘI - 2007








1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
***



ĐẬU VĂN DŨNG



ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số : 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Văn Hiền






HÀ NỘI - 2007







MỤC LỤC


Trang
Mở đầu:………………………………………………………………
1
Chƣơng 1. Công ty xuyên quốc gia (TNCs) và việc đầu tƣ trực tiếp
vào các nƣớc đang phát triển
6
1.1. Nhận dạng các công ty xuyên quốc gia ( TNCs).
6
1.2. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) và vai trò
của nó ở các nước đang phát triển.
13
1.3. Bài học kinh nghiệm thu hút FDI của TNCs ở các nước trong khu vực
24
Chƣơng 2. Thực trạng đầu tƣ trực tiếp của các công ty xuyên quốc
gia (TNCs) vào Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
33

2.1.Thực trạng FDI của TNCs vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt
Nam.
33
2.2. Các hình thức FDI của TNCs ở Việt Nam.
51
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với FDI của các TNCs.
64
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp thu hút đầu tƣ trực tiếp của
các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam.
78
3.1. Một số nhận xét khái quát về xu hướng vận động của FDI của TNCs
tại Việt Nam.
78
3.2.Phương hướng phát triểncác hình thức FDI của TNCs ở Việt Nam
84
3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa FDI của
TNCs tại Việt Nam.
90
Kết luận
118
Danh mục tài liệu tham khảo
120



1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA
:

Khu vực mậu dịch tự do của Hiệp hội các nước Đông Nam á
APEC
:
Diễn đàn hợp tác kinh tế các nước Châu á Thái Bình Dương
ASEAN
:
Hiệp hội các nước Đông Nam á
ASEM
:
Hội nghị thượng đỉnh á - âu
BOT
:
Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao
BT
:
Xây dựng - Chuyển giao
BTA
:
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
BTO
:
Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh
CN
:
Công nghiệp
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐTNN
:

Đầu tư nước ngoài
EU
:
Liên minh Châu âu
FDI
:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
HĐHTKD
:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
HTĐT
:
Hình thức đầu tư
ICOR
:
Tỷ số ICOR-Tỷ số giữa đầu tư và phần tăng thêm của GDP
IKD
:
Cụm linh kiện dạng rời
JETRO
:
Tổ chức ngoại thương Nhật Bản
KCN-KCX
:
Khu công nghiệp, khu chế xuất
M & A
:

Mua lại và sát nhập
NIEs
:
Các nền công nghiệp mới
Nxb
:
Nhà xuất bản
ODA
:
Viện trợ phát triển chính thức
OECF
:
Quỹ hợp tác và phát triển kinh tế
TBNN
:
Tư bản nhà nước
TNCs
:
Các công ty xuyên quốc gia
USD
:
Đồng đô la Mỹ
VAT
:
Thuế giá trị gia tăng
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới



2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Sự vận động của hàng
hoá, dịch vụ, của các dòng vốn đầu tư đã vượt khỏi biên giới các quốc gia,
được thực hiện trên phạm vi toàn cầu. Sự hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia (Transnational Coporations-TNCs) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
trên phạm vi quốc tế. Với tiềm lực kinh tế to lớn, hệ thống chi nhánh trải
rộng khắp thế giới, các công ty này đã gắn kết các bộ phận cấu thành của
nền kinh tế thế giới, thực hiện quốc tế hoá sản xuất và lưu thông một cách
sâu rộng, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh dưới những hình thức mới, phong phú, đa dạng.
Đặc điểm đó vừa tạo ra những cơ hội vừa tạo ra những thách thức với
tất cả các nước, đặc biệt là với các nước kém phát triển. Những năm vừa
qua, Đảng ta xác định một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy nền
kinh tế nước ta phát triển là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
trong đó các công ty xuyên quốc gia chiếm giữ một vai trò quan trọng. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Các công ty xuyên quốc gia tiếp
tục được cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều
lĩnh vực kinh tế”. Sự lớn mạnh của các tập đoàn kinh tế, đặc biệt là sự lớn
mạnh của TNCs là một trong những đặc trưng cơ bản của quá trình quốc tế
hoá nền sản xuất xã hội trong giai đoạn hiện nay. Từ năm 1988 đến hết năm
2005, Việt Nam đã thu hút được một lượng FDI đáng kể, tổng số vốn đăng
ký là 65,7 tỷ USD, trong đó tổng số vốn thực hiện đạt 33 tỷ USD. Đến nay,
đã có trên 200 TNCs và 18 quốc gia đầu tư và hoạt động tại Việt Nam trên
nhiều lĩnh vực như: chế tạo thiết bị viễn thông, công nghệ máy tính, khai
thác dầu khí, sản xuất ôtô và xe gắn máy, nước giải khát, xây dựng kết cấu
hạ tầng, chế tạo điện tử dân dụng, thương mại và dịch vụ Hoạt động của



3
TNCs đã đem lại những tác động to lớn đối với nền kinh tế như: cung cấp
vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý Tuy nhiên, so với tiềm năng
và yêu cầu đặt ra đối với nước ta, đầu tư của TNCs vào Việt Nam vẫn chưa
thật mạnh. Hơn thế nữa, hoạt động của một số công ty còn gây ra các tác
động tiêu cực: làm phá sản xí nghiệp vừa và nhỏ, gây ô nhiễm môi trường
sinh thái, chuyển vào nước ta những công nghệ cũ lạc hậu, làm băng hoại
truyền thống văn hoá…
Từ thực trạng tình hình đó, tác giả chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp của
các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam”. Để góp phần vào việc nâng cao
khả năng thu hút nhiều hơn với chất lượng tốt hơn của lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học
cũng như các nhà quản lý kinh tế trong và ngoài nước nghiên cứu, như:
* Ở ngoài nước: Có nhiều công trình sách báo đề cập đến hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của TNCs. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu riêng về Việt Nam.
* Ở trong nước:
- Mai Đức Lộc: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh
tế Việt Nam, luận án phó tiến sĩ kinh tế chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 1994.
- Đề tài KHXH- 06- 05, Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty
xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới - Chính sách của ta.
- Nguyễn Xuân Thiện: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: vấn
đề và giải pháp, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, số1/2001.
- Hoàng Thị Bích Loan: Về hoạt động của các công ty xuyên quốc gia,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004.

Trong các nghiên cứu trên, các tác giả đều đã đề cập đến đặc điểm, vai
trò của FDI nói chung và TNCs nói riêng cũng như các chính sách nhằm thu


4
hút và sử dụng nguồn vốn bên ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên
cứu nói trên chưa thật sự tổng kết đầy đủ về hoạt động đầu tư của TNCs tại
Việt Nam như về số lượng, lĩnh vực hoạt động, xu hướng vận động của các
TNCs
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu của Luận văn: từ sự phân tích đúng thực trạng
FDI của TNCs vào Việt Nam, luận văn đưa ra những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn FDI của TNCs, khắc phục được
mặt trái trong đầu tư trực tiếp của TNCs, góp phần đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn:
- Phân tích vai trò FDI của TNCs đối với sự phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình FDI tại Viêt Nam thời kỳ
1988 đến nay và tác động của nó tới nền kinh tế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm nâng cao khả
năng thu hút vốn FDI của TNCs vào Việt Nam để thực hiện đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH nhằm thực hiện hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TNCs đã đầu tư vào Việt Nam.
Luận văn tập trung vào nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động
của TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Từ đó đưa ra phương hướng
và khuyến nghị một số giải pháp thích hợp nhằm nâng cao khả năng thu hút
vốn FDI của các TNCs vào Việt Nam trong những năm sắp tới.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp thống kê tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, phân tích.


5
- Phương pháp chuyên gia và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp của Luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm và vai trò
của TNCs đối với phát triển kinh tế của các nước được đầu tư.
- Đánh giá thực trạng và kết quả của việc đầu tư của các TNCs 1988
đến nay; đồng thời nêu lên những tồn tại và hạn chế.
- Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử
dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp của TNCs trong những năm tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của Luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Vấn đề đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) vào các nước đang phát triển.
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) vào Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao khả năng thu hút đầu tư
trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) vào Việt Nam.










6
Chƣơng 1
VẤN ĐỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA (TNCS) VÀO CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

1.1. Các công ty xuyên quốc gia.
1.1.1. Khái niệm
Công ty xuyên quốc gia là hình thức tổ chức doanh nghiệp quốc tế
trong nền kinh tế thị trường có tầm hoạt động vượt quá khuôn khổ biên giới
của một quốc gia.
Theo định nghĩa của UNCTAD, tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) là hệ
thống bao gồm công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở
chính quốc. Công ty con là các công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản
lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài. Có
ba loại hình công ty con của TNC là:
+ Chi nhánh là công ty con hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản
thuộc sở hữu của công ty mẹ.
+ Công ty con phụ thuộc: công ty mẹ sở hữu hơn 50% tổng tài sản
công ty này và họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy
tổ chức và quản lý điều hành của công ty con này.
+ Công ty con liên kết: công ty mẹ tuy chiếm trên 10% tài sản của
công ty nhưng chưa đủ tỷ lệ sở hữu để có quyền hạn như công ty con phụ
thuộc.
1.1.2. Đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia
- Về quy mô: Các NTC có quy mô về tài chính rất lớn. Trong số 500
công ty lớn nhất thế giới, thì Mỹ có 162 công ty, Nhật Bản có 126 công ty,
các nước như Đức có 41 công ty, Pháp 42, Anh 34, Hà Lan 8, Thuỵ Sỹ 14,

Italia 13, Nga 1. Công ty đứng số 1 thế giới về tài sản ở nước ngoài trong
bảng danh sách của UNCTAD năm 2003 là General Electric (Mỹ) với tổng


7
số tài sản nước ngoài là 258.900 triệu USD, tổng doanh thu là 134.187 triệu
USD, số lượng công nhân là 305.000 ngàn người. Công ty đứng thứ 2 là
Vodafone Group Plc (Anh), tiếp theo sau là 3 công ty Ford Motor, General
Motors (Mỹ), British Petroleum Company của Anh. Đứng thứ 7 mới là công
ty Royal Dutch – Shell Group (Anh – Hà Lan) có tổng tài sản nước ngoài là
112.587 triệu USD (tổng tài sản là 168.091 triệu USD), lợi nhuận 8.887,1
triệu USD, tổng doanh thu 201.728 triệu USD và có số công nhân là 119.000
người. Các TNCs có phạm vi hoạt động rộng, không chỉ bó hẹp trong phạm
vi một quốc gia, mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu thông qua việc cắm nhánh
ra nước ngoài với số lượng lớn, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, chiến
lược sản phẩm và hướng đầu tư luôn thay đổi cho phù hợp với sự phát triển
của tập đoàn và môi trường kinh doanh, nhưng mỗi ngành đều có định
hướng chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của
các TNCs như tập trung vào các ngành có hàm lượng khoa học cao (công
nghiệp chế biến, dịch vụ,…) và các nước tư bản phát triển. Chúng nắm
những phương tiện kỹ thuật hiện đại với những trung tâm nghiên cứu và
phát triển đồ sộ, mà khoản chi ngân sách bằng với ngân sách nghiên cứu và
phát triển của một nước lớn. Ví dụ như công ty Philips Electric (Hà Lan) là
một trong những công ty điện tử hàng đầu thế giới với 263 chi nhánh đặt ở
hơn 70 nước, nếu tính cả nước mẹ thì có 378 chi nhánh công ty Heineken
(Hà Lan) là một công ty sản xuất bia đã mua nhà máy bia của Italia,
Hungary. Hãng Renaul SA (Pháp) chuyển về lĩnh vực động cơ máy có 136
(trong số 207) chi nhánh ở nứơc ngoài như ở Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan,…
Tổ hợp dầu lửa Total (Pháp) với 602 chi nhánh có mặt ở hơn 80 nứơc trên
thế giới và các trọng điểm dầu khí như Trung Đông, Biển Bắc, Mỹ – Latinh.

Trong đó, có 150 cơ sở sản xuất ở 35 nứơc, Total có cổ phần trong 17 cơ sở
lọc dầu ngoài nước Pháp và Hà Lan, Đức, Mỹ và Châu Phi. Mỗi năm Total
khoan thăm dò hoặc khoan cho sản xuất ở 20 nước trên diện tích rộng 72
vạn m
2
. Khí đốt do Total sản xuất chủ yếu được khai thác ở Inđônêxia, Thái
Lan, Mianma, Arhentina và Biển Bắc.


8
- Đặc trưng cắm nhánh ngoại quốc – một đặc trưng cơ bản của các
công ty xuyên quốc gia, là việc những xí nghiệp con, cháu và những liên
hợp ở nước ngoài đặt dưới sự kiểm soát của công ty mẹ. Ngày nay, các chi
nhánh của các công ty xuyên quốc gia ít mang tính cổ truyền, thực chất nó là
các công ty xuyên quốc gia mà công ty mẹ thực hiện phân công chuyên môn
hoá đối với các chi nhánh. Để thực hiện cắm nhánh ở nước ngoài, các TNCs
cũng thực hiện một số hình thức cơ bản, như thiết lập các xí nghiệp 100%
vốn của mình và hình thức liên doanh,… đối với hình thức 100% vốn, là
hình thức mà các TNCs sử dụng sớm nhất với việc các xuyên quốc gia thực
hiện mua lại xí nghiệp của nước chủ nhà - thường là các xí nghiệp kinh
doanh kém hiệu quả và có nguy cơ phá sản, hoặc đầu tư xây dựng xí nghiệp
mới. Đây cũng là cách thức khá phổ biến trong thời đại ngày nay, khi mà các
nước theo đuổi chính sách mở cửa và tạo ra nhiều ưu đãi về thuế nhằm thu
hút FDI, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá đất nước. Còn với hình thức
liên doanh, cũng là hình thức phổ biến hiện nay mà TNCs sử dụng để thực
hiện cắm nhánh và bành trướng quốc tế. Các xí nghiệp liên doanh có thể
được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, như mua cổ phần của một
xí nghiệp mới, xây dựng hoặc lập ra những xí nghiệp chi nhánh mà TNCs
nắm giữ cổ phiếu khống chế theo chế độ tham dự.



FDI
FDI
FDI


FII FII

FDI


QG5
QG4
QG6
QG1
QG2
QG3










9



Hình 1.1: Biểu diễn đặc trƣng cắm nhánh của các TNCs
- Về cơ cấu tổ chức, quản lý: các TNCs là những hình thức liên kết
của nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay những ngành khác
nhau dưới sự điều tiết chung của một công ty mẹ đối với hệ thống các chi
nhánh ở nhiều nước. Trong thực tế, các TNCs trên thế giới thường áp dụng
những mô hình quản trị điều hành cơ bản sau:
+ Mô hình “kim tự tháp”, về thể chế quản lý tập trung quyền lực theo
chiều dọc, trực tuyến.
+ Mô hình “mạng lưới” (đa trung tâm), về thể chế quản lý phân tán
quyền lực cho các bộ phận chi nhánh.
+ Mô hình “hỗn hợp” (nhị nguyên), về thể chế quản lý phối hợp giữa
tập trung và phân tán quyền lực.
Tuy vậy, đối với từng nhòm nước lại áp dụng mô hình mang tính đặc
thù riêng tuỳ theo trình độ phát triển, văn hoá, tập quán, đại lý,…
+ Đối với nhóm các TNCs Mỹ – Châu Âu: do chịu ảnh hửơng lâu dài
của hệ thống kinh tế thị trường nên các nước này luôn lấy mô hình “tự do
cạnh tranh” làm nội dung cơ bản của chế độ hoạt động của TNCs. Các TNCs
Âu – Mỹ có đặc trưng chủ yếu là quyền sở hữu tách khỏi quyền kinh doanh.
Các cổ đông là người sở hữu không trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh,
mà tác động vào các quyết định của công ty thông qua hội đồng quản trị do
Đại hội cổ đông bầu ra. Hội đồng quản trị thuê giám đốc chuyên nghiệp điều
hành việc kinh doanh của công ty. Giám đốc công ty là người làm thuê cho
công ty, chịu mọi trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty. Quan hệ
trong tổ chức nội bộ của các tập đoàn xí nghiệp nhà nứơc Âu – Mỹ nói
chung là đơn giản. Cầu nối cơ bản của sự liên kết giữa các xí nghiệp thành
viên là quan hệ tư bản (vốn, tài sản) và đó là cơ sở để tập đoàn có đựơc sự
quản lý thống nhất.
+ Đối với Nhật Bản: cơ chế quản lý kinh doanh của TNCs Nhật Bản
bắt nguồn từ nền văn hoá truyền thống, mang màu sắc Nhật Bản, có tiếp thu



10
các nhân tố tích cực trong cơ chế quản lý kinh doanh của các công ty hiện
đại của phương Tây. Nhật Bản là một xã hội đẳng cấp được xây dựng kết
cấu theo chiều dọc, giữa các TNCs cũng phân biệt đẳng cấp rõ rệt. Quan hệ
giữa các TNCs ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị xã hội của nhà kinh doanh và
công nhân viên trong tập đoàn. Với mục tiêu phát triển mạng lưới công ty
của Nhật Bản trên khắp thế giới, các TNCs Nhật Bản luôn để cho những
công ty vệ tinh của chúng có đựơc quyền tự do ở mức đáng kể. ở Nhật Bản,
các công ty, tập đoàn áp dụng “chế độ làm việc suốt đời”. Quan hệ giữa
công nhân viên với công ty là cố định, các nhà kinh doanh không tuỳ tiện sa
thải công nhân, việc trả lương và nâng bậc cho công nhân căn cứ vào tuổi
tác, học lực và thâm niên công tác liên tục. Chính vì lẽ đó nên mọi người
đều phải dốc sức phấn đấu cho sự sinh tồn và phát triển của công ty.
1.1.3. Các loại hình công ty xuyên quốc gia
Các chuyên gia kinh tế đã dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau để thực
hiện hình thức tồn tại của các TNCs. Chẳng hạn:
- Căn cứ theo quá trình vận động và lĩnh vực hoạt động của các TNCs:
+ Công ty xuyên quốc gia sơ khai: là loại hình đầu tiên có từ thời kỳ
tư bản tự do cạnh tranh thống trị. Các công ty này thường hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng với mục đích khai thác nguyên liệu, bóc
lột lao động làm thuê ở thuộc địa phục vụ cho quá trình tích luỹ tư bản để
công nghiệp hoá. Các công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh thế kỷ XVII –
XVIII là những ví dụ điển hình về loại hình TNCs này.
+ Công ty xuyên quốc gia thương mại: gồm những công ty mà chi
nhánh ở nước ngoài là những chi nhánh chủ yếu thực hiện việc xuất nhập
khảu hàng hoá. Ngoài ra việc sản xuất cũng có thể được thực hiện tại chỗ ở
các chi nhánh này khi việc thâm nhập thị trường trở nên khó khăn. Song việc
sản xuất tại chỗ thường có giới hạn, chỉ sản xuất một phần sản phảm theo
mẫu của công ty mẹ, hoặc chỉ thực hiện việc lắp ráp một số bộ phận linh

kiện để thực hiện xuất khẩu tại chỗ.
+ Công ty xuyên quốc gia sản xuất: Với loại hình này, quy trình sản
xuất một sản phẩm được phân chia theo những công đọan nhất định và mỗi


11
xí nghiệp chi nhánh sẽ đảm nhiệm sản xuất một bộ phận hoặc một số chi tiết
sản phảm, hoặc lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Các bộ phận của sản phẩm đựơc
lưu thông giữa các chi nhánh, trong nội bộ công ty, cuối cùng đến một chi
nhánh, ở đó sản phẩm được lắp ráp và mang nhãn hiệu của nước mẹ hoặc
nước chủ nhà. Các TNC điển hình cho loại này như: Sony, IBM, Toyota,
Honda,…
+ Công ty xuyên quốc gia tài chính, kỹ thuật: là những công ty có sức
mạnh về tài chính, kỹ thuật, hoạt động trong những ngành có hàm lượng
khoa học cao và làm nhiệm vụ cung cấp kỹ thuật, tài chính cho các công ty
chi nhánh ở nứơc ngoài. Qua con đường này, công ty mẹ kiểm soát, cho phối
các hoạt động của các công ty nhánh. Điển hình cho loại hình này: Exxon,
Mc Donal Douglas, Mobil Oil,…
- Tuỳ theo tính chất phức tạp của sản xuất và hình thức tổ chức công
ty
Theo Maicơn Z.Brucơ và H.Liremmơ có thể chia các công ty xuyên
quốc gia thành các loại công ty A, B, C, D. Trong đó công ty loại A chỉ sản
xuất một loại sản phẩm cá biệt; công ty loại B sản xuất những nhóm sản
phẩm trong nước và tổ chức việc tiêu thị ở nứơc ngoài theo sự phân chia các
khu vực địa lý, với mục đích đẩy mạnh và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho
xuất khẩu hàng hoá; công ty loại C cũng sản xuất các nhóm sản phẩm nhưng
việc sản xuất ở nước ngoài được đặt dười sự kiểm soát trực tiếp của công ty
mẹ; công ty loại D được hình thành từ sự phát triển hơn nữa của các loại
công ty A, B, C.
Mặc dù có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNC. Tuy nhiên,

theo nhiều nhà nghiên cứu thì cách phân loại phổ biến hiện nay là phân loại
theo trình độ phát triển, biểu hiện ra là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư
bản của các TNCs.
+ Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một
ngành, có thể liên kết với nhau bằng cách cùng nhau ký kết một hiệp định
lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hàng hoá, số lượng sản phẩm bán
ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, từ đó phân chia lợi ích cụ thể với


12
nhau. Ví dụ OPEC là một Cartel có quy mô quốc tế, các thành viên của
OPEC thường thoả thuận với nhau về số lượng dầu cung cấp, cũng như giá
bán ra trên thế giới. Mặc dù vậy các công ty này vẫn là những công ty độc
lập về pháp lý trong sản xuất cũng như thương mại. Tại Hồng Kông, các
ngân hàng đã cấu kết với nhau thành một tổ chức Cartel, họ định lãi suất
thấp cho các tài khoản gửi nhưng cao cho các khoản vay ngân hàng, nhờ đó
các ngân hàng trong Cartel đã được lãi to: trên 645 triệu USD thu được trong
năm 1991 (bằng 0,8% GDP của Hồng Kông).
+ Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa, các bên cùng ký kết hiệp định có liên quan đến số lượng hàng hoá
tiêu thụ chung, đến việc mua nguyên vật liệu, nhằm mua được nguyên vật
liệu với giá thấp, bán được sản phẩm với giá cao. Trong loại hình này, các xí
nghiệp vẫn độc lập về sản xuất, pháp lý, nhưng không còn độc lập về thương
mại nữa. Một điều đáng chú ý lá rất nhiều Syndicate là do Cartel phát triển
lên.
+ Trust: loại hình công ty được hình thành nên do sự liên hiệp hoá
theo chiều ngang, phát triển cao hơn về mặt tổ chức, trong đó nhiều xí
nghiệp sản xuất cùng một loại hàng hoá hoặc các xí nghiệp ở các ngành kế
cận nhau có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng hợp nhất lại thành một tổ chức
(kinh tế). Các xí nghiệp khi đã đựơc hợp nhất vào tổ chức kinh tế này không

còn độc lập về tất cả mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp. Có 2 loại
Trust cơ bản, đó là công ty cổ phần đặc biệt (kiểm soát công ty thông qua
việc nắm cổ phiếu khống chế của công ty) và công ty hợp nhất các xí
nghiệp, đó là hợp nhất hoàn toàn các xí nghiệp với nhau, thông qua hợp nhất
hay bị thông tính. Việc điều hành sản xuất kinh doanh hoàn toàn do Ban
quản trị đảm nhiệm. Ví dụ, công ty General Motor (Mỹ) nguyên là một Trust
quốc tế hùng mạnh, là một trong số 15 công ty xuyên quốc gia tầm cỡ nhất
thế giới năm 1987, với doanh số 101,8 tỷ USD, với 876 ngàn nhân viên. Đến
năm 1988 doanh số bán của nó lên đến 121,085 tỷ USD, còn vào năm 1992
con số đó là 132 tỷ USD, năm 2002 là 186,76 tỷ USD và đến năm 2003
doanh số giảm nhẹ còn 185,5 tỷ USD , với 294 ngàn nhân viên. Ngành chính


13
là sản xuất ôtô chiếm tới 80 – 90% tổng sản phảm của công ty. Nó đã thành
lập được một hệ thống chi nhánh gồm 297 nhà máy ở Mỹ, Canada và Tây
Âu, Austraylia, Mỹ – Latinh và một số nước châu Á [48]. Tất cả các chi
nhánh đều chịu sự điều hành của Ban quản trị công ty trụ sở đặt tại Detroit
(Mỹ). Với sự phát triển hơn nữa, cho đến này, công ty này đã thâu tóm nhiều
ngành nghề khác nhau như đồ điện dân dụng, môtơ, tuabin khí, đầu máy
điện, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác, nên nó đã được coi là
một Concern quốc tế. Nhiều quốc gia đã cấm hình thức Trust, tại Mỹ, toà án
sẽ bắt buộc giải tán các Trust khi nó có khả năng lũng đoạn nền kinh tế do
thị phần quá lớn của nó.
+ Concern: hình thức tổ chức kiểu Concern là một trong những hình
thức phổ biến của TNCs hiện đại. Concern xuất hiện của yếu thông qua mối
liên kết ngang giữa ít nhất là 2 công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách
pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có mối liên hệ chặt
chẽ về kinh tế và kỹ thuật. Mối liên hệ giữa các xí nghiệp trong Concern
được thiết lập trên cơ sở lợi ích thống nhất thông qua các quan hệ hợp tác

cùng sử dụng về phát minh sáng chế, cùng tham gia nghiên cứu trong những
chương trình, đề án khoa học và ứng dụng công nghệ sản xuất; cùng hợp tác
sản xuất kinh doanh và sử dụng một hệ thống tài chính, tín dụng. Concern
thể hiện ở tính pháp nhân độc lập của các công ty thành viên. Tuy vậy, mối
quan hệ bền vững của Concern được thiết lập trong sự liên hệ chặt chẽ giữa
các cá nhân lãnh đạo chủ chốt với nhau và với các thành viên của Chính phủ
dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế. Đặc điểm nổi bật của công ty xuyên quốc gia
thuộc loại Concern là sự thống nhất giữa tư bản sở hữu và quyền kiểm soát.
Hình thức kiểm soát được xác lập từ công ty mẹ tới các công ty con, cháu
bằng chế độ điều hành trong hội đồng quản trị. Công ty mẹ chiếm một số cổ
ohiếu khống chế trong các công ty nhánh. Đứng đầu các công ty xuyên quốc
gia thuộc loại Concern là một Hội đồng quản trị thường bao gồm những
người có sở hữu cổ phiếu lớn nhất. Dưới Hội đồng quản trị là Hội đồng các
giám đốc (những người quản lý) trực thuộc Ban quản trị, có nhiệm vụ trực
tiếp chỉ đạo sản xuất và kinh doanh khác nhau, Ngày nay, với sự phát triển


14
hơn nữa của tích tụ sản xuất, xu hướng đa dạn hoá sản phẩm, đa dạng hoá
ngành đang trở thành xu hướng phổ biến và tổ chức Concern đã đáp ứng đòi
hỏi đó. Trong các Concern thường bao gồm các công ty hoạt động ở các
ngành kinh tế khác nhau, như công nghiệp, vận tải, thương nghiệp, ngân
hàng, bảo hiểm,… Người ta thấy rằng trong số 500 công ty lớn nhất của Mỹ,
thị phẩn của Concern đa ngành vào những năm 70 chiếm 94& so với 66%
năm 1949. Trong số các Concern thì Daimler Chrysler AG (DC) của Cộng
hoà Liên bang Đức và Mỹ là một Concern khá điển hình. Nó bao gồm nhiều
công ty thành viên trong nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó có công ty
Motorentua Binen Union (MTU) sản xuất các loại động cơ; công ty Doocnie
sản xuất các mặt hàng thuộc ngành hàng không, còn công ty AEG sản xuất
các mặt hàng thuộc ngành kỹ thuật điện,… Do đó sản phảm của DC hết sức

đa dạng, từ những động cơ thông dụng đến động cơ xe tăng, tàu biển, máy
bay, tên lửa có điều khiển và những trang bị kỹ thuật khác. Song các ngành
sản xuất chủ yếu của Concern DC vẫn là các loại động cơ thông dụng. Hiện
nay, DC có số tài sản ở nước ngoài lên đến 41,7 tỷ USD và doanh thu hàng
năm là 55,2 tỷ USD, chỉ tính riêng cho 281 chi nhánh ở nứơc ngoài. Các
Concern thường xây dựng một hệ thống dịch vụ kỹ thuật và thương mại
tương đối hoàn chỉnh. Trong hệ thống này có cả trung tâm khoa học, viện
nghiên cứu, phòng thiết kế và bộ phận triển khai sản xuất thử, viện thăm dò
và nghiên cứu thị trường,… Tất cả nhằm bảo đảm cho Concern đổi mới kỹ
thuật kịp thời và thích ứng nhanh chóng với điều kiện biến động của thị
trường quốc tế, tăng sức mạnh cạnh tranh để thu lợi nhuận cao.
+ Conglomerate: là kết quả của quá trình liên kết công ty theo chiều
dọc, tức là công ty lớn thâm nhập vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản
xuất khác không có sự liên hệ ràng buộc hoặc quy định về kỹ thuật sản xuất
kinh doanh. Mối liên hệ giữa công ty mẹ và các chi nhánh chủ yếu là tài
chính; điều hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên kết với các ngân hàng
đầu tư, ngân hàng thương mại, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm,… Hoạt
động bành trướng và thâu tóm của Conglomerate cơ bản trên thị trường
chứng khoán. Công ty mẹ lựa chọn các công ty đang hoạt động tốt ở tất cả


15
các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao và nuốt dần bằng cách mua cổ phiếu của
chúng. Do đó cơ cấu ngành kinh doanh trong tập đoàn luôn biến đổi nhanh
chóng theo hướng đa dạng, hỗn hợp và cơ cấu quản lý, điều hành phải gọn
nhẹ, linh hoạt.
Công ty Điện tín, Điện thoại (ITT) của Mỹ vốn là một Trust đầu đàn
của thế giới trong lĩnh vực điện thoại và viễn thông quốc tế. Ngày nay, nó đã
trở thành một Conglomerate khổng lồ bành trướng xâm nhập vào ngành
ngân hàng, bảo hiểm, khai thác đáy biển, vũ trụ, dịch vụ, khách sạn,, kể cả

những ngành công nghiệp thực phẩm và báo chí,…
Việc phân loại các công ty xuyên quốc gia theo các hình thức từ
Cartel đến Conglomerate là những nấc thang phản ánh sự giảm dần tính chất
sở hữu tư nhân thuần tuý và sự tăng lên của nhân tố “tập thể” trong sở hữu
tư bản – xét trong giới hạn quan hệ sản xuất TBCN. Mặt khác, việc phân loại
như trên đảm bảo tính logic trong nghiên cứu và cũng phù hợp với hiện thực
TBNC ở chỗ các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại trong những loại
hình cơ bản này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình phát triển buộc
chúng phải vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc
tế mà thội. Trên thực tế dù hoạt động quốc tế nhưng nó vẫn mang những dấu
ấn quốc gia và chịu sự kiểm soát của công ty gốc ở chính quốc.
1.2. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) của TNCs và vai trò của nó
ở các nƣớc đang phát triển.
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù còn nhiều khác biệt về quan niệm, nhìn chung ở các nước trên
thế giới, FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh mà trong đó có sự tách
biệt ở tầm vĩ mô về mặt chủ thể, nhưng lại có sự kết hợp ở tầm vi mô trong
sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại một quốc gia là việc nhà đầu tư
ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia đó


16
để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh
tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản
hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp
đồng và giấy phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí
quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản chính (cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, giấy ghi nợ…).

Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác
nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong
đầu tư trực tiếp vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Hai đặc điểm cơ bản
của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư
(pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản
lý đối tượng đầu tư.
1.2.2. Vai trò FDI của TNCs đối với những nền kinh tế đang phát triển.
Hiện nay trên thế giới xu thế xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đang
diễn ra ngày càng mạnh, nó gây ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế của mỗi
quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá. Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của mỗi quốc gia đều có sự gắn liền với
các quốc gia trong và ngoài khu vực. Một trong những yếu tố gây ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới các lĩnh vực đời sống xã hội trong nền kinh tế thế
giới đó là sự hoạt động mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia (TNC).
Các TNC đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu đối với sự vận động tư
bản quốc tế trên phạm vi toàn cầu và có vai trò rất to lớn góp phần thúc đẩy
các lĩnh vực như: thúc đẩy phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn
cầu, chuyển giao và phát triển công nghệ, tạo việc làm, phát triển nguồn


17
nhân lực, thúc đẩy đầu tư trực tiếp và chuyển dich cơ cấu kinh tế, tham gia
vào quá trình điều tiết nền kinh tế thế giới v.v - các lĩnh vực này đã đóng
vai trò quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của từng
quôc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Thứ nhất, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội
Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ rộng

khắp trên phạm vi toàn thế giới, mà lực lượng chủ yếu tác động tới kinh tế
toàn cầu đó là các TNC. Sự hoạt động của các TNC thúc đẩy sự chuyên môn
hoá ngày càng sâu, rộng, biểu hiện ở chỗ các công ty mẹ và các công ty chi
nhánh ở các nước TBCN phát triển đảm nhiệm những khâu đòi hỏi trình độ
khoa học công nghệ cao, phức tạp của dây chuyền sản xuất. Còn các chi
nhánh cắm ở các nước đang phát triển tuỳ theo điều kiện của mình có thể
đảm nhận các khâu ít phức tạp hơn, những khâu mà lao động giản đơn cũng
có thể thao tác được. Chẳng hạn, Việc sản xuất máy tính điện tử hiện nay
của các TNC Nhật Bản, Mỹ, Cộng hoà Liên Bang Đức thì việc sản xuất
“phần mềm” “phần cứng” và việc lắp đặt các bộ phận đầu, cuối được thực
hiện theo sự phân công chuyên môn hoá theo cách thức công nghiệp hoá.
Việc thực hiện phân công chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi toàn
cầu là một bước tiến có tính chất lịch sử, nó cho phép khai thác được tiềm
năng và thế mạnh của từng nước, từng khu vực, tạo được các mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau và phản ánh quá trình tất yếu kinh tê- kỹ thuật. Thực
hiện sự phân công chuyên môn hoá tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế thì
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã khai thác được tiềm năng của các
nước đang phát triển về tài nguyên và sức lao động để làm tăng hiệu suất của
tư bản. Còn về phía các nước đang phát triển cũng có những lợi ích kinh tế
nhất định khi tham gia vào sự phân công lao động quốc tế như: giải quyết


18
được một phần lao động thất nghiệp, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, cải thiện
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên sự hoạt động
của các TNC không thể tránh khỏi những hậu quả mà chúng đưa đến cho các
nước chủ nhà cần phải khắc phục như: làm què quặt sự phát triển kinh tế
của một số nước, tạo ra sự phụ thuộc nặng nề của các nước này vào các nước
tư bản phát triển.v.v Do đó, vấn đề đặt ra là các nước tham gia vào quá

trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế phải có đường lối chiến lược đúng đắn của
mình, phải biết chấp nhận sự phân công này ở mức độ nào, khả năng nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến đến dâu thì mới có thể khắc phục được
những tiêu cực do các TNC gây nên.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường
hàng hoá, dịch vụ.
Cùng với việc phân công chuyên môn hoá các TNC đã khai thác được
thị trường tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển, hạ giá trành, nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá. Cùng với những sản phẩm hàng hoá thông thường mang
tính truyền thống, dưới tác động của các TNC thế giới hàng hoá được bổ
sung hàng loạt các mặt hàng mới. Chẳng hạn, những tri thức của con người
được thể hiện trong các phát minh sáng chế cũng được đem trao đổi dưới
hình thức hàng hoá và phương thức trao đổi cũng được đa dạng hoá; trong
lĩnh vực dịch vụ bưu chính viễn thông, bảo hiểm sự hoạt động của các TNC
đã góp phần rất lón thúc đẩy thị trường này ở các nước đang phát triển.v.v
Các TNC đang trở thành một lực lượng đông đảo nắm giữ nguồn hàng
hoá và thị trường thế giới. Hiện chúng đã kiểm soát 60% buôn bán quốc tế
và trong nhiều ngành hàng đã kiểm soát hầu như toàn bộ thị trường. Chẳng
hạn, một số ngành hàng nông sản như: chè, cà phê, ca cao, chuối, các TNC
đã kiểm soát tới 80 - 90% thị phần. (1) Đồng thời các TNC đã thúc đẩy và


19
phát triển mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, gây ra những hiện tượng tiêu cực
trên thị trường ở phạm vi toàn cầu như: tranh chấp thương mại, thâu tóm thị
trường v.v
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ
Để chiến thắng trong cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, các TNC đã đi
đầu trong việc nghiên cứu thử nghiệm những dây chuyền công nghệ tiên
tiến, tiết kiệm nhiên liệu, nghiên cứu thiết lập hệ thống điều khiển tự động

hoá, phương pháp điều khiển từ xa trong quản lý. Vì vậy nó tạo động lực
thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Theo
tính toán của các chuyên gia Liên hợp quốc các TNC kiểm soát tới 80% các
phát minh sáng chế của thế giới. Các TNC khi đã nắm được lực lượng khoa
học - công nghệ của thế giới, chúng buộc phải thực hiện sự chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ sang các nước khác, mà chủ yếu là sang các nước đang
phát triển. Đối với các nước kém phát triển, các TNC đã thực hiện chuyển
giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty chi nhánh cũng như từ nước mẹ
sang nước chủ nhà, thực hiện đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề
Do đó, các TNC trở thành lực lượng có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Đồng thời chúng
chiếm giữ một vị tri to lớn trong việc thực hiện cách mạng khoa học và công
nghệ, thực hiện quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Điều
đó đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải có chiến lược kinh tế đúng đắn mới
có thể tận dụng được cơ hội để ứng dụng được các thành tựu khoa học -
công nghệ tiến tiến trên thế giới (các thành tựu khoa học - công nghệ mới
phần lớn nằm trong tay các TNC), mới có khả năng tránh được nguy cơ tụt
hậu về kinh tế.


20
Thứ tư, tăng nguồn vốn ngoại lực cho các nước đang phát triển, là lực
lượng chủ yếu thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Cần hiểu thêm rằng, nguồn vốn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
không chỉ là bằng tiền mà nó còn bao hàm cả công nghệ, trình độ quản lý, cổ
phiếu, trái phiếu v.v vốn không phải chỉ của riêng một nhà kinh doanh hay
một nước mà là vốn quốc tế nói chung - quốc tế hoá nguồn vốn. Hiện nay,
thương mại nội bộ các TNC và thương mại giữa các TNC với nhau chiếm
khoảng 2/3 thương mại thế giới, trên 4/5 đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên

thế giới là do TNCs tiến hành, hơn 9/10 thành quả nghiên cứu triển khai kỹ
thuật và chuyển giao kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNC. (2)
Lực lượng chủ yếu thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là các
TNC (hiện tại các TNC chiếm khoảng 90% lượng vốn FDI). Nguồn vốn FDI
không chỉ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các thành quả về các mặt
như: chuyển giao công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển các dịch vụ và các
nguồn phụ thêm khác cho các nước chủ nhà mà nguồn vốn này còn có tác
động rất lớn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế của nước chủ nhà qua sự biến đổi
cơ cấu đầu tư ở chính các nước này, tạo nên sự biến đổi cơ cấu kinh tế trên
phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng trong
các công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Cùng
với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu vùng cũng có sự biến
đổi theo, trong đó có sự hình thành các trung tâm thương mại, trung tâm
công nghiệp kỹ thuật cao, đồng thời cũng làm biến đổi cơ cấu lao động và cơ
cấu nghề nghiệp.
Thực tế cho thấy sự chuyển biến nền kinh tế của Việt Nam trong những
năm đổi mới là một minh chứng khẳng định sự đóng góp vô cùng quan trọng
của vốn đầu nước nước ngoài. Sáu tháng đầu năm 2006 vốn đầu tư trực tiếp


21
nước ngoài tăng khá nhanh, tổng vốn của các dự án cấp phép mới và vốn
đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động ước đạt 2.845 triệu USD. (3)
Các quốc gia đang phát triển nếu có chiến lượng sử dụng được lợi thế
của mình sẽ thúc đẩy sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù
hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, Chính sự biến
đối cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực sẽ có tác động rất lớn tới quá
trình tăng trưởng kinh tế của các nước chủ nhà và góp phần tăng trưởng kinh
tế trên phạm vi toàn cầu.
Thứ năm, các TNC đã góp phần quan trọng tạo động lực cạnh tranh

mạnh mẽ, do đó thúc đẩy quá trình cải cách về mọi mặt ở các nước đang
phát triển để phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo cơ hội, nhưng cũng vừa là sức ép lớn
thúc đẩy các quốc gia phải đẩy mạnh cải cách về mọi mặt để phát triển trong
xu thế toàn cầu hoá. Hiện nay có nhiều quốc gia trên thế giới đã tận dụng tốt
các cơ hội để phát triển và sự có mặt của các TNC đã buộc các quốc gia phải
tham gia vào xu thế cạnh tranh toàn cầu, do đó đã thúc đẩy quá trình cải
cách để cùng phát triển.
Chẳng hạn, ở Trung Quốc, nhờ quá trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế
mà Trung Quốc đã tiến hành thực hiện cải cách một cách tích cực. Tính đến
cuối năm 2004 đã có 3000 văn bản pháp quy ở cấp Trung ương đã bị huỷ bỏ,
sửa đổi hoặc bổ sung thêm, trên 200000 văn bản của chính quyền địa
phưong cũng bị huỷ bỏ. Do vậy, nền kinh tế Trung quốc tiếp tục được tạo
những hành lang mới pháp lý để phát triển và ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn. (4)
Thứ sáu, sự hoạt động của TNCs đã góp phần quan trọng trong việc tạo
việc làm trực tiếp và gián tiếp cho người lao động ở các nước đang phát
triển, qua đó góp phần làm tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế.


22
Mục tiêu hoạt động phổ biến của các TNC trên phạm vi toàn cầu là
tranh thủ giá cả sức lao động rẻ ở các quốc gia đang phát triển. Do đó với số
lượng các TNC ngày càng lớn và sự có mặt của các TNC ở khắp các quốc
gia trên thế giới cho thấy quy mô và khả năng tạo việc làm của các TNC trên
phạm vi toàn cầu.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, năm 1995 với 100 TNC hàng đầu
thế giới và 50 TNC lớn nhất của các nước đang phát triển đã tạo ra được
5.800.000 và 470.000 việc làm ở các nước phát triển và đang phát triển.
Trong 100 TNC hàng đầu thế giới, bình quân mức tăng việc làm ở nước

ngoài đạt 4% giữa các năm 1993 - 1995. (5). Các TNC còn tạo việc làm gián
tiếp thông qua các hoạt động liên kết, cung cấp dịch vụ cho các công ty nội
địa. Đầu những năm 1990, nếu tính cả số việc làm được tạo ra một cách trực
tiếp và gián tiếp thì TNCs đã tạo việc làm cho khoảng 150 triệu người lao
động, chiếm khoảng 3% lực lượng lao động thế giới. Trong đó số có việc
làm trực tiếp là 73 triệu người và có gần 60% nhân viên làm việc ở các TNC
mẹ, còn 40 % là làm việc ở các tổ chức khác nhau ở nước ngoài. Tính đến
năm 1996, 500 công ty hàng đầu thế giới đã tạo việc làm cho hơn 35,5 triệu
lao động. Chẳng hạn, năm 1996 GMC có số lao động lớn nhất 647.000
người; Ford Motor là 371.000 người, Uniliver là 306.000 người và US
Postal Service là 88.000 người. (6)
Thứ bẩy, các TNC đã và đang có vai trò quan trọng về đào tạo nguồn
nhân lực có hàm lượng chất xám ngày càng cao.
Chúng ta biết rằng sự phát triển của mỗi quốc gia nói riêng và trên
phạm vi toàn cầu nói chung được tạo bới nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Nguồn nhân lực là động lực tạo nên khả năng tăng trưởng kinh tế. Thông
qua sự phát triển của chính bản thân mình các TNC đã chú trọng đến đào tạo
nguồn nhân lực về mọi mặt. Dưới các hình thức tài trợ tài chính khác nhau

×