Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 122 trang )



TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ




PHẠM VĂN HÀ



VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ Ở VIỆT
NAM



LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ




Người hướng dẫn: PGS.TS Phan Thanh Phố




Hà Nội 2006





MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ mô hình kinh tế chỉ huy tập trung
quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
dưới tác động của Nhà nước và Luật khoa học và công nghệ được Quốc hội
thông qua tháng 6 năm 2000, nước ta bước đầu đã hình thành một số thị trường
như: Thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tài
chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công
nghệ vv Tuy nhiên, sự phát triển của các. loại thị trường này còn ở trình độ sơ
khai, các yếu tố thị trường chưa được tạo lập một cách đồng bộ, nhất là thị
trường công nghệ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định cần phảỉ: “Thúc đẩy sự
hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” và “Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công
nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về
thông tin, chuyển giao công nghệ” [16].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khi nhấn mạnh: “Phát triển đồng bộ và
quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh
tranh lành mạnh… .” đã chỉ rõ “phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên
cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ
(trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược,
chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hóa” [20].
Trong các loại thị trường, mỗi loại đều có tầm quan trọng nhất định,
nhưng nếu gắn với sự nghiệp CNH - HĐH phát triển rút ngắn, thì như Đảng ta đã
xác định “Khoa học - công nghệ là động lực”, thì thị trường công nghệ có tầm
quan trọng đặc biệt. Thực tiễn cho thấy vai trò của Nhà nước trong việc hình



2
thành và phát triển thị trường này ở nước ta còn khá mới và còn nhiều bất cập
điều đó thể hiện trên nhiều mặt: nhận thức, cơ chế, chính sách, đầu tư vốn, nhất
là vai trò nhà nước đối với việc tổ chức các bộ phận, các yếu tố cấu thành và phát
triển đồng bộ TTCN.
Những yếu kém, bất cập này đang cản trở sự nghiệp CNH - HĐH phát
triển triển rút ngắn, xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đang trước thềm gia
nhập WTO. Nó đã và đang đòi hỏi cần có lời giải thoả đáng trên cả hai mặt lý
luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Để góp thêm phần mình vào việc tìm ra lời giải đó, tác giả chọn đề tài:
“Vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở
Việt Nam” để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề này, đã có một số công trình và bài báo nghiên cứu
đăng tải như:
- “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam”- Đề tài KX.01.07 thuộc chương trình KX.01 có mục tiêu là:
Xác định các loại thị trường cơ bản và đặc trưng của chúng; thực trạng một số
loại thị trường chủ yếu ở nước ta; kiến nghị các chính sách và giải pháp nhằm
tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và hoàn thiện các loại thị trường trong đó
có TTCN ở nước ta.
- Một số suy nghĩ bước đầu về các loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN của TS Lê Xuân Bá, năm 2002.
- Một số vấn đề phát triển đồng bộ các loại thị trường trrong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN của TS Lê Đăng Doanh, năm 2002.


3
- Một số ý kiến về quy luật vận động của một số loại thị trường cơ bản

trong nền kinh tế thị trường hiện đại của PGS.TS Phan Thanh Phố, năm 2002.
- Một số vấn đề về hình thành và phát triển thị trường khoa học - công
nghệ ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Kế Tuấn, năm 2002.
- Một số ý kiến về tình hình thị trường công nghệ ở Việt Nam và hướng
tới xây dựng thị trường công nghệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006 của
TS Đỗ Văn Vĩnh, năm 2002.
Gần đây đã có một số bài viết về vai trò của Nhà nước đối với việc hình
thành và phát triển các loại thị trường trên báo và tạp chí. Tuy nhiên, các công
trình khoa học đó chưa nhiều, chưa chuyên sâu, chưa trình bày một cách độc lập
và có hệ thống như tác giả sẽ thực hiện trong bản luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ thêm lý luận và phân tích thực trạng về hàng hóa công
nghệ, TTCN và vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN, từ
đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường hơn nữa vai
trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN trong thời gian tới ở
nước ta.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Luận giải những vấn đề cơ bản về hàng hóa công nghệ, TTCN và vai trò
của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị truờng công nghệ ở nước ta.
- Tổng quan kinh nghiệm nước ngoài về vai trò của Nhà nước đối với việc
hình thành và phát triển thị trường công nghệ.
- Phân tích đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc hình thành
và phát triển thị trường công nghệ, trong thời gian qua ở nước ta.


4
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản tiếp tục tăng cường vai
trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở
nước ta trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy việc luận giải vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và
phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu từ 1986, nhưng chủ yếu từ năm 1992 (được đánh
dấu bởi Nghị định 35/HĐBT nay là Chính Phủ về công tác quản lý khoa học -
công nghệ ban hành 28/01/1992) đến nay.
Phương hướng và các giải pháp đưa ra là các giải pháp cơ bản và vĩ mô
gắn với chuyên ngành kinh tế chính trị.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung được vận dụng thông qua phương pháp trừu tượng hoá, phân
tích và tổng hợp, lịch sử và logic. Ngoài ra còn vận dụng một số phương pháp
thống kê, đối chiếu, so sánh nhằm tạo ra một tổng thể phương pháp cho phép tiếp
cận nhanh đối tượng và mục tiêu nghiên cứu.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu
* Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa làm rõ thêm hàng hóa công nghệ, TTCN, vai trò của Nhà
nước và kinh nghiệm nước ngoài về việc hình thành và phát triển thị trường công
nghệ ở nước ta;
- Đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng vai trò của Nhà
nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta;


5
- Đề xuất có căn cứ lý luận và thực tiễn phương hướng và giải pháp cơ bản
tiếp tục tăng cường vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị
trường công nghệ ở nước ta thời gian tới.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định
phát triển khoa học - công nghệ và phát triển TTCN ở nước ta. Nó cũng có thể

làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học
và cao đẳng những phần có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được chia thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về thị trường công nghệ và vai
trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ.
Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển
thị trường công nghệ thời gian qua ở nứơc ta.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản tăng cường vai trò Nhà
nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ nước ta trong thời
gian tới.


6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ
VÀ VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ

1.1. Hàng hoá công nghệ và thị trƣờng công nghệ
1.1.1. Hàng hoá công nghệ
* Một số khái niệm cơ bản
- Khoa học: Một hiện tượng của đời sống xã hội., nó vừa là hệ thống
những tri thức, vừa là sự sản xuất của cải tinh thần - sản xuất những tri thức cùng
hoạt động thực tiễn dựa vào tri thức đó. Mặc dù còn có thể có ý kiến khác nhau
nào đó, song có thể hiểu. Khoa học là một tập hợp các tri thức của nhân loại về
các phạm trù và quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự
nhiên, kỹ thuật, xã hội và bản thân con người.
Khoa học thuộc hình thái ý thức xã hội, mà tri thức của nó được biểu hiện

ở các phạm trù, định luật và quy luật về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con
người. Khi tri thức của con người về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con
người có sự biến đổi mới và sâu sắc hơn so với tri thức trước đó trong phạm vi
rộng hoặc hẹp, được gọi là cách mạng khoa học, Người ta phân loại khoa học
thành các loại sau:
+ Khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật tự nhiên và
phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên kỹ thuật;
+ Khoa học xã hội, nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các
phạm trù, các quy luật vận động phát triển của chúng và cả bản thân con người.


7
Xét về vai trò và tác dụng, có thể thấy khoa học bao gồm: khoa học cơ
bản, thực nghiệm và khoa học ứng dụng.
Chính vì thế, nên trong Điều 2 Luật Khoa học và công nghệ đã giải thích:
“Khoa học là hệ thông tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy” [48].
- Công nghệ: Theo nghĩa rộng không chỉ là các phương tiện, thiết bị do
con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản
phẩm. Ngày nay người ta thường sử dụng thuật ngữ công nghệ theo nghĩa rộng
bao gồm 4 thành phần sau đây:
+Trang thiết được coi là “xương sống”, là “cốt lõi” của các hoạt động
chuyển hóa của đối tượng lao động.
+ Kỹ năng và tay nghề, thành phần này có liên quan đến kinh nghiệm nghề
nghiệp của từng người, hoặc nhóm người và nó được coi là “chìa khoá” của sản
xuất.
+ Thông tin, có liên quan đến các bí quyết, các quy trình, các phương
pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế.
+ Tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối, quản lý, tiếp
thị… có liên quan đến nhiệm vụ liên kết các thành phần nói trên và kích thích

người lao động hăng hái làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Các thành phần nói trên có mối quan hệ tương tác với nhau hợp thành nội
dung của khái niệm công nghệ [41, tr.7].
Luật Khoa học và công nghệ, Điều 2 giải thích: “Công nghệ là tập hợp
các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để
biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [48].
- Mối quan hệ và sự khác nhau giữa khoa học và công nghệ.


8
Công nghệ không phải là “lực lượng độc lập và tự trị” hay khái niệm tự
nó, mà nó tuỳ thuộc trên mức độ lớn, nếu không muốn nói là sự tuỳ thuộc quyết
định bởi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời
kỳ. Ngoài vai trò của môi trường chính trị, cần phải được nhấn mạnh đến môi
trường về tiềm lực khoa học công nghệ và tình hình nghiên cứu khoa học của
từng quốc gia và từng thời kỳ nhất định. Tiềm lực khoa học và công nghệ được
hiểu là tổng thể các nguồn lực kinh tế và tinh thần có được để phát triển khoa
học và công nghệ. Cơ cấu của tiềm lực khoa học và công nghệ bao gồm lực
lượng cán bộ khoa học công nghệ, nguồn tài chính và các cơ sở nghiên cứu thí
nghiệm và thực nghiệm. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu khoa học cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Kinh nghiệm các nước trong
thời kỳ đầu của CNH - HĐH, việc nghiên cứu ứng dụng và triển khai thường
được coi trọng.
Khoa học và công nghệ là 2 khái niệm có mối quan hệ với nhau được thể
hiện thông qua họat động khoa học và công nghệ. Luật khoa học và công nghệ,
điều 2 giải thích: “Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa
học và nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và, hoạt động phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm
phát triển khoa học và công nghệ” [48].
Không có những thành tựu trong nghiên cứu khoa học thì sẽ không có

những tiến bộ trong công nghệ. Nghiên cứu khoa học mà kết quả của nó là tạo ra
các sản phẩm khoa học tồn tại dưới hình thức sản phẩm công nghệ được ứng
dụng trong lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật và trong lĩnh vực xã hội nhân văn.
Ranh giới tương đối giữa khoa học và công nghệ là ở chỗ: nói khoa học là
nói về ý thức xã hội, nói đến việc nghiên cứu sáng tạo tri thức, phát minh để tạo


9
ra nhưng thành tựu về công nghệ. Còn nói công nghệ là nói đến kết quả của việc
nghiên cứu sáng chế phát minh, là nói đến hoạt động ứng dụng vào thực tiễn, là
nói đến việc cải tạo thực tiễn đời sống kinh tế, công nghệ và xã hội ngày một tiến
bộ hơn trước. Luận văn nghiên cứu công nghệ với tư cách là sản phẩm công
nghệ dưới hình thái hàng hóa được dùng để giao dịch, trao đổi, mua bán trên
TTCN. Toàn bộ hoạt động nói trên gắn liền với dịch vụ khoa học và công nghệ.
Điều 2 của Luật Khoa học và công nghệ, giải thích: “Dịch vụ khoa học và
công nghệ là các họat động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các
dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức
khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn” [48].
* Sản phẩm công nghệ là hàng hóa.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc lý giải sản phẩm công nghệ là
hàng hoá bắt nguồn từ những luận cứ sau:
Thứ nhất: ngành khoa học công nghệ là ngành công nghiệp quan trọng sản
xuất ra sản phầm công nghệ.
Thật vậy, sản phẩm công nghệ do ngành khoa học - công nghệ tạo ra
thông qua việc độc lập hóa nghiên cứu và hoạt động nghiên cứu làm cơ sở tự
nhiên, cùng với việc phát triển của phân công lao động xã hội hoạt động này
ngày một phát triển độc lập với các ngành sản xuất vật chất khác để trở thành
ngành công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, mà sản phẩm của nó là sản phẩm
công nghệ. Hơn nữa các cơ quan nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ

trở thành chủ thể kinh tế kết hợp trách nhiệm và quyền lợi là cơ sở hình thành
quyền sở hữu tài sản của sản phẩm công nghệ - quyền sở hữu trí tuệ. Và sau
cùng là tính độc quyền của các thành quả công nghệ hay sản phẩm công nghệ là


10
điều kiện tồn tại với tính cách là một ngành công nghiệp độc lập và là một điều
kiện để sản phẩm của ngành công nghệ trở thành hàng hóa.
Thứ hai: Sản phẩm công nghệ vẫn có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá
trị.
Thành quả khoa học và công nghệ được ứng dụng vào sản xuất có thể tạo
ra sản phẩm mới, đổi mới thiết bị công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, tăng trưởng và phát triển kinh tế -
xã hội, nghĩa là sản phẩm công nghệ có công dụng. Hơn nữa quá trình tạo ra sản
phẩm công nghệ ngành khoa học và công nghê cũng có những hao phí lao động
sống và lao động quá khứ được kết tinh trong sản phẩm công nghệ và được biểu
hiện dưới hình thức tiền tệ, có giá trị và giá cả.
Rõ ràng sản phẩm công nghệ vừa có công dụng làm thoả mãn nhu cầu của
người sử dụng vừa đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, nghĩa là nó
cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nên đủ tư cách là một hàng hóa.
* Hàng hóa công nghệ, về hình thức có thể phân thành các loại sau:
- Linh kiện cứng chỉ công nghệ tồn tại dưới hình thái hiện vật.
- Linh kiện mềm chỉ các tài liệu văn bản, bao gói mềm của thiết bị công
nghệ có thể ứng dụng vào sản xuất tồn tại với hình thức độc lập.
- Dịch vụ và tư vấn công nghệ với hình thái lưu động.
- Hình thức hỗn hợp.
* Tính đặc thù của hàng hóa công nghệ
Hàng hóa công nghệ khác với các hàng hóa khác ở những điểm sau đây:
Thứ nhất: Tính đặc thù về giao dịch, sự giao dịch các hàng hóa thông
thường là sự chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng của hàng hoá, còn

sự giao dịch hàng hóa công nghệ do tính đặc thù của nó nên không phải là sự


11
chuyển nhượng quyền sở hữu, mà chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng công nghệ.
Sau khi bên mua có quyền sử dụng hàng hóa công nghệ thì bên bán ngoài việc
ký hợp đồng độc quyền với bên mua hoặc cấp cho bên mua giấy phép, vẫn có
quyền tiếp tục sử dụng và tiếp tục chuyển nhượng công nghệ đó cho người khác.
Ngoài ra, việc giao dịch các hàng hóa công nghệ thường phải xác định rõ ràng
quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên dưới hình thức hợp đồng. Bởi vì việc giao dịch
các hàng hóa công nghệ tương đối phức tạp, cùng với việc chuyển nhượng hàng
hóa công nghệ, còn nhiều khoản mục cung cấp có liên quan như: tư vấn công
nghệ, đào tạo cán bộ v.v đều phải xác định theo hình thức hợp đồng.
Thứ hai: Việc thực hiện giá trị sử dụng hàng hóa công nghệ cần phải có
một quá trình. Nếu hàng hoá thông thường, công dụng của nó được biểu hiện
ngay sau khi tiêu dùng, trái lại hàng hóa công nghệ sau khi mua đem về ứng
dụng còn phụ thuộc khả năng tiếp nhận và môi trường điều kiện tương ứng của
bên mua. Bên mua cần có một quá trình thích ứng dần với công nghệ mới mua
về.
Thứ ba: Hàng hoá công nghệ chịu sự chi phối của hao mòn vô hình, nên
tuổi thọ của hàng hóa thông thường do hao mòn vô hình của hàng hóa công nghệ
quyết định. Tốc độ hao mòn vô hình của hàng hoá công nghệ càng nhanh thì tuổi
thọ của hàng hóa công nghệ càng giảm vì tốc độ tăng nhanh của khoa học công
nghệ . Do đó đòi hỏi phải ứng dụng nhanh và thực hiện khấu hao nhanh.
Thứ tư: Tính khó xác định về giá tri của hàng hóa công nghệ.
Nếu hàng hóa thông thường lượng giá trị của nó được xác định bởi thời
gian lao động xã hội cần thiết, trái lại hàng hoá công nghệ thường sản xuất đơn
chiếc, lao động sản xuất ra nó là lao động trí tuệ - lao động phức tạp, như Mác đã



12
nói trong bộ Tư bản [36] Do vậy lao động này mang tính sáng tạo, tính rủi ro và
tính không xác định của nó về mặt giá trị là rất lớn.
1.1.2. Thị trường công nghệ
* Một só vấn đề chung về thị trường
C. Mác trong tác phẩn "Tư bản" và tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", đã đề
cập đến lý luận xã hội hoá, lý luận về mối quan hệ giữa cách mạng kỹ thuật với
phân công lao động xã hội và mối quan hệ giữa chúng với sự hình thành và phát
triển thị trường [36]. V.I. Lênin trong các tác phẩm: "Sự phát triển chủ nghĩa tư
bản ở Nga", "Bàn về cái gọi là thị trường" và một số tác phẩm, bài viết trong
"Thời kỳ chính sách kinh tế mới" ở nước Nga, đã đề cập nhiều vấn đề lý luận về
sự phân công lao động xã hội - cơ sở của trao đổi - cơ sở của sự hình thành thị
trường. Người viết: "Khái niệm thị trường hoàn toàn không thể tách rời khái
niệm phân công xã hội được, sự phân công này, như CMác đã nói, là cơ sở
chung của mọi nền sản xuất hàng hóa". Người còn nhấn mạnh: "Hễ ở đâu và khi
nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy, có thị trường.
Quy mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã
hội" [34].
Trong các lý thuyết của một số nhà kinh tế học khác như: Lý thuyết cân
bằng tổng quát của L.Walras; lý thuyết về thị trường của Alfred Marshlla và lý
thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại đáng chú ý là lý
thuyết cân bằng tổng quát có liên quan đến tính đồng bộ của các loại thị trường
đầu ra và đầu vào của sản xuất; lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp có liên quan đến
vai trò của Nhà nước đối với thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại, liên
quan đến khái niệm, chức năng và vai trò của thị trường [37].
Tiếp cận về lịch sử cho thấy: Thị trường hình thành và phát triển đi từ
thấp đến cao, tuỳ từng loại hoặc một số loại và chưa đồng bộ đến đa dạng phong


13

phú và đồng bộ. Mặc dù, ở mỗi nước, mỗi thời kỳ sự hình thành và phát triển các
loại thị trường có thể nhanh chậm và với mức độ có khác nhau, song đều lấy sự
phát triển của phân công xã hội và trình độ xã hội hoá sản xuất làm điểm xuất
phát.
Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về khái niệm thị trường, song có thể hiểu:
Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ, lĩnh vực mà ở
đó những người tham gia thị trường thường xuyên tác động với nhau để xác định
giá cả và sản lượng hàng hóa.
- Thông qua vai trò nối liền và thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển,
thị trường có những chức năng như: Thừa nhận hay không thừa nhận hàng hóa,
dịch vụ mà người sản xuất và cung ứng trên thị trường; thông tin cho người sản
xuất và người tiêu dùng những thông số hay tín hiệu về quy mô, cơ cấu, chất
lượng, mức giá cả, thời gian và không gian mà người mua có nhu cầu; điều tiết
(kích thích, kìm hãm, chuyển đổi) sản xuất, lưu thông và tiêu dùng thông qua các
quyết định của những người tham gia thị trường.
- Thị trường có thể chia thành nhiều loại, do dựa trên nhiều tiêu thức khác
nhau. Luận văn lấy tiêu thức quá trình tái sản xuất để phân loại. Theo tiêu thức
này, có thể chia thị trường thành 2 nhóm loại cơ bản: Nhóm thị trường các yếu tố
sản xuất gắn với đầu vào và thị trường hàng hóa,dịch vụ gắn với đầu ra của sản
xuất.
- Nhóm thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm: Thị trường tư liệu sản
xuất; thị trường tài chính; thị trường sức lao động; thị trường bất động sản; thị
trường công nghệ
- Nhóm thị trường hàng hóa, dịch vụ, gắn với đầu ra của sản xuất. dưới
góc độ thị trường "mở" có thể chia thành: Thị trường trong nước; thị trường


14
ngoài nước được thực hiện thông qua tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước
ngoài và xuất khẩu tại chỗ thu ngoại tệ.

* Khái niệm thị trường công nghệ
Lịch sử cho thấy từ trước đại chiến thế giới lần thứ hai, những điều kiện
cho sự ra đời của thị trường công nghệ chưa chín muồi, lúc này bí mật của những
thành tựu khoa học kỹ thuật đang ngự trị, nên việc chuyển giao kỹ thuật công
nghệ thông qua thị trường chưa được phát triển.
Sự xuất hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại từ những năm
40 của thế kỷ XX, nhất là từ những năm 70 lại đây, đã làm cho khoa học - công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đúng như dự báo của CMác khi phân
tích giai đoạn máy móc đại công nghiệp ở nước Anh vào 60 năm đầu của thế kỷ
XIX [36]. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, mà sự tác động của
nó đã làm xuất hiện đặc trưng thời gian cho một phát minh khoa học công nghệ
mới thay thế cho thế hệ kỹ thuật công nghệ cũ rút ngắn lại và hao mòn tài sản cố
định diễn ra nhanh hơn, kinh tế tri thức - một biểu hiện mới đạt trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất xuất hiện - cùng với xu thế toàn cầu hoá hình
thành và phát triển. Trong bối cảnh đó, sự hình thành và phát triển thị trường
công nghệ trở nên tất yếu không thể thiếu được trong tính đồng bộ của nền kinh
tế thị trường hiện đại.
Các nước có trình độ kinh tế phát triển, thị trường công nghệ đạt trình độ
phát triển cao về quy mô, tốc độ và phong phú về nội dung. Chẳng hạn vấn đề sở
hữu trí tuệ, các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn phát triển khá nhanh, đặt biệt
phải kể đến là hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các ngành, các vùng và
giữa các quốc gia với nhau. Có thể nói, trong thời đại hiện nay, nhất là trong nền


15
kinh tế thị trường hiện đại, TTCN hình thành và phát triển là một tất yếu khách
quan.
Như đã phân tích ở trên về khái niêm, mối quan hệ và sự khác nhau giữa
khoa học và công nghệ và sự luận giải về hàng hóa công nghệ, trong luận văn
này chúng tôi không sử dụng khái niệm thị trường khoa học công nghệ theo

nghĩa rộng mà sử dụng khái niệm thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp.
- Thị trường công nghệ theo nghĩa rộng là tổng thể quan hệ trao đổi, giao
dịch để biến thành quả nghiên cứu khoa học và công nghệ trở thành hàng hóa và
trở thành lực lượng sản xuất hiện thực. Xét về cơ cấu, nó bao gồm toàn bộ quá
trình từ triển khai hàng hóa công nghệ đến ứng dụng và lưu thông hàng hóa công
nghệ; do các bên bán, bên mua và trung gian tiến hành như triển khai, chuyển
giao công nghệ, tư vấn công nghệ và dịch vụ công nghệ, toàn bộ lĩnh vực và các
khâu lưu thông thành quả khoa học và công nghệ.
- Thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp thể hiện rõ trong khái niệm dịch vụ
khoa học và công nghệ.
Thị trường công nghệ tuy còn có một số cách hiểu khác nhau, song có thể
hiểu: Thị trường công nghệ là một phương thức thương mại hóa các thành quả
khoa học công nghệ, liên kết có hiệu quả giữa khoa học với sản xuất kinh doanh,
là lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa công nghệ, tư vấn, môi giới, giám định,
thưởng phạt, khiếu kiện giữa các chủ thể tham gia trên thị trường công nghệ.
- Phân loại thị trường công nghệ
- Theo hình thức sở hữu, các chủ thể có các cá nhân, doanh nghiệp hoặc
các công ty hoạt động trong các thành phần kinh tế.
- Theo hình thức mua bán, có các hình thức thị trường như: mua bán có
giấy phép, hợp tác nghiên cúưu phát triển, công trình chìa khóa trao tay, uỷ thác
triển khai.


16
- Theo tổ chức TTCN, có chợ giao dịch, chợ gọi thầu các vấn đề khó, chợ
công bố thông tin khoa học và công nghệ, cửa hàng công nghệ
- Theo phạm vi, có TTCN trong nước, TTCN quốc tế, TTCN khu vực,
TTCN địa phương.
* Đặc trưng của thị trường công nghệ
Là một bộ phận trong hệ thống thị trường, song thị trường công nghệ lại

có những đặc trưng riêng:
Một là, hàng hoá trao đổi trên thị trường công nghệ không giản đơn là
trùng hợp với các yếu tố cấu thành khoa học và công nghệ, mà là những tri thức
đã kết tinh trong các phát minh, sáng chế, giải pháp công nghệ. Việc tạo ra
những loại hàng hoá này có những đặc trưng khác với những hàng hoá và dịch
vụ thông thường khác: có trường hợp trải qua thời gian rất dài trong đó có những
thất bại với nhiều phí tổn lớn; có trường hợp lại nảy sinh từ những hiện tượng,
những quan sát mang tính ngẫu nhiên. Trong tất cả các trường hợp, việc xác định
hao phí lao động để tạo ra hàng hoá là công việc hết sức khó khăn, thậm chí khó
có thể xác định chính xác được hết giá trị của nó.
Hai là, người cung ứng hàng hóa trên thị trường này là tất cả những người
có khả năng tạo ra được hàng hoá công nghệ để đem ra trao đổi trên thị trường.
Theo nghĩa đó, người cung ứng hàng hoá công nghệ có thể là:
- Các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ nơi tập trung các nhà
khoa học trình độ cao với những trang thiết bị hiện đại chuyên nghiên cứu đưa ra
những phát minh có tính đón đầu hoặc theo yêu cầu các doanh nghiệp các tổ
chức khác.
- Các doanh nghiệp sử dụng lực lượng của mình hoặc liên kết với các tổ
chức, các cá nhân khác tạo ra thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ yêu cầu


17
của chính mình và chuyển nhượng quyền sở hữu thành tựu đó cho các chủ thể
khác theo đúng các nguyên tắc của trao đổi hàng hoá trên thị trường.
- Các cá nhân có trình độ khác nhau tạo ra được những phát minh, sáng
chế mới bằng năng lực bằng sự say mê của mình. Họ giữ quyền sở hữu sáng chế
đó và chuyển nhượng cho chủ thể khác theo các nguyên tắc trao đổi hàng hoá
trên thị trường.
- Nhập khẩu hàng công nghệ từ bên ngoài để lưu thông trên thị trường này
bằng các phương thức và hình thức khác nhau.

Ba là, người mua hàng hoá để tiêu dùng trên thị trường công nghệ này là
tất cả các chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và xã hội) có nhu cầu
phát triển và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ để đáp ứng yêu cầu tồn tại
và phát triển. Họ không có khả năng tự đáp ứng yêu cầu của mình và phải tìm
mua trên thị trường hàng hoá công nghệ mà mình cần.
Bốn là, môi trường pháp lý bảo đảm cho sự trao đổi hàng hoá này trên thị
trường công nghệ diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện trực tiếp
vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển TTCN, trong đó quan
trọng hàng đầu là các văn bản pháp qui thừa nhận sản phẩm khoa học - công
nghệ có đủ tư cách là hàng hoá, các văn bản pháp qui về đăng ký phát minh sáng
chế và sở hữu trí tuệ, đăng ký kinh doanh hànhg hóa công nghệ
Năm là, quan hệ cung cầu về hàng hoá công nghệ diễn biến gắn với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có áp lực cạnh tranh trên thị trường và
trình độ phát triển các hoạt động nghiên cứu, sáng chế và phát minh. Do trình độ
khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên năng lực cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường, nên áp lực cạnh tranh càng mạnh, nhu cầu đổi
mới và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp, các tổ
chức càng cao, nhu cầu với hàng hoá này, do vậy càng mở rộng. Cũng như các


18
hàng hoá vật chất khác, mỗi hàng hoá công nghệ có chu kỳ sống riêng, tốc độ
phát triển khoa học và công nghệ càng cao, chu kỳ sống hàng hoá công nghệ
càng ngắn, sự nảy sinh nhu cầu mới sẽ là quá trình phát triển không có giới hạn.
Từ những đặc trưng đó, đối chiếu với thực tiễn có thể thấy rằng Việt Nam
chưa có TTCN theo nghĩa đầy đủ. Các yếu tố cấu thành thị trường này còn ở
trình độ sơ khai, tự phát. Chính đây là một trong những nguyên nhân hạn chế sự
phát triển khoa học và công nghệ, chậm nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ
động hội nhập kinh tế của nước ta thời gian qua.
* Sự sự cần thiết và lợi ích của việc hình thành và phát triển TTCN

- Sự cần thiết
+ Việc phát triển TTCN càng nhanh và trình độ càng cao có tác dụng to
lớn đối với sự tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi mang tính nhảy vọt về
chất lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhịp độ nhanh và theo
hướng ngày càng hợp lý, hiệu quả và hiện đại.
+ Hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải thực hiện quan
điểm CNH - HĐH phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại. Đại hội Đảng lần
thứ IX đã chỉ rõ: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và
có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”
[16, tr.91].
+ Sự hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải tạo lập đồng bộ
các yếu tố, các loai thị trường trong quá trình xây dựng và phát triển nhanh nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta Sự chậm trễ trong việc hình thành và phát
triển TTCN là một trong những nguyên nhân làm cho thị trường nước ta hình
thành và phát triển chậm, thiếu đồng bộ.
+ Hình thành và phát triển TTCN, còn là sự cần thiết để thúc đẩy nghiên
cứu, sáng tạo, phát minh những thành tựu khoa học, đến lượt nó lại là nguyên


19
nhân thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở các nước đang phát triển trong
đó có nước ta, thị trường này mới bắt đầu sơ khai, do vậy trong thời gian tới cần
khẩn trương tổ chức TTCN, thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển
các dịch vụ về thông tin, tư vấn và chuyển giao công nghệ
+ Cuối cùng sự hình thành và phát triển nhanh chóng TTCN còn do yêu
cầu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, sức cạnh tranh của doanh
nghiệp và của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế nhanh
chóng và hiệu quả.
- Lợi ích
Sự hình thành và phát triểnTTCN không chỉ là sự cần thiết khách quan mà

còn đem lại nhiều lợi ích sau đây:
+ Về phía cung, sự hình thành và phát triển thị trường này đem lại lợi ích
cho cả 3 phía:
Nhà nước giảm bớt tình trang bao cấp, giảm gánh nặng chi ngân sách,
đồng thời có thể tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua thu thuế trên thị
trường này.
Tăng khả năng đầu tư vốn cho nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng
và khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, từ đó nâng cao thu nhập và cải
thiện đời sống của các nhà nghiên cứu khoa học.
Thông qua đòn bẩy lợi ích phát huy tác dụng của các doanh nghiệp trong
môi giới, tư vấn và kinh doanh hàng hóa công nghệ trên TTCN.
Về phía cầu, sự hình thành và phát triển TTCN đem lại lợi ích cho người
mua và sử dụng hàng hóa công nghệ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh
doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hội mhập đứng vững và chiến thắng trên thương
trường trong nước và quốc tế. Tất nhiên để lợi ích về phía cầu thành hiện thực,
thì vai trò nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Trong đó đáng chú ý là nhà


20
nước: cần tăng cường công tác giáo dục cho người sử dụng thầy rõ sự cần thiết
phải mua thành tựu khoa học - công nghệ, mua hàng hoá công nghệ; ban hành
các chính sách coi công nghệ là hàng hóa, Luật sở hữu trí tuệ, hình thành và bảo
vệ thương hiệu, từng bước xoá bỏ bao cấp và thói quen, ỷ lại vào nhà nước về
việc cung ứng sản phẩm nghiên cứu khoa học trong tất cả các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp cổ phần nhà nước sau cổ phần hóa.
1.2. Vai trò nhà nƣớc trong việc hình thành và phát triển thị trƣờng
công nghệ
1.2.1. Nhà nước và vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường
* Khái niệm Nhà nước

Trong lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước, lý luận và kinh nghiệm
đã khẳng định những thăng, trầm, biến cố của lịch sử từ trước đến nay đều gắn
với vai trò Nhà nước.
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là công cụ cơ bản về quyền lực chính
trị, có một bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý. Nhà
nước thể hiện ý chí của tất cả các thành viên thuộc giai cấp thống trị được hợp
nhất thành ý chí Nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất, không
phân chia, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng có phân
công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước để thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp [31].
* Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường


21
Phân tích vai trò Nhà nước trong điều kiện KTTT, nhất là khi phân tích
những khuyết tật của cơ chế thị trường hay của “Bàn tay vô hình” trong mô hình
KTTT tự do cho thấy: không thể phát huy vai trò tích cực và giảm thiểu những
khuyết tật của cơ chế thị trường nếu không có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà
nước.
Trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường, cơ chế thị trường
tự điều chỉnh - “Bàn tay vô hình” chỉ tồn tại gắn với mô hình KTTT tự do đến
hai thập niên đầu thế kỷ XX. Từ đó đến nay trên thế giới mô hình KTTT tự do đã
chuyển lên mô hình KTTT hỗn hợp hay KTTT hiện đại, chịu sự điều tiết của cơ
chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, một cơ chế bao gồm sự kết
hợp giữa “bàn tay vô hình”- của cơ chế thị trường và “bàn tay hữu hình” - của
Nhà nước [24].
Như vậy, nếu từ 2 thập niên đầu của thế kỷ XX về trước, mặc dù Nhà
nước nào cũng có vai trò kinh tế, nhưng không trực tiếp can thiệp điều tiết nền

kinh tế, mà chỉ là cơ quan cai trị xã hội. Song đến thập niên thứ hai của thế kỷ
XX, nhất là từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2 đến nay Nhà nước không ở bên
trên, bên ngoài nền kinh tế, mà đã có vai trò quản lý vĩ mô nền KTTT.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, để phát huy mặt tích cực
và giảm thiểu những khuyết tật của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng
theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh và đúng định
hướng XHCN không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước.
Nhà nước thực thi vai trò là người tổ chức lãnh đạo và quản lý vĩ mô nền
kinh tế nhằm mục đích:


22
- Với vai trò “bà đỡ’’, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình
thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, nhất là các thị trường chưa có
hoặc mới được hình thành, trong đó có thị trường công nghệ.
- Đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển bình thường, hạn chế
những đột biến không lành mạnh xảy ra.
- Đảm bảo môi trường sinh thái theo hướng hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của xã hội do tính tự phát của cơ chế
thị trường, từ đó thực hiện có hiệu quả mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh và phát triển theo đúng định hướng XHCN.
1.2.2. Vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường
công nghệ - Nhìn từ góc độ nội dung
Nhà nước thực thi vai trò đối với việc hình thành và phát triển thị trường
công nghệ qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành và phát
triển thị trường công nghệ.
Nhà nuớc pháp quyền là quyền lực của nhà nước đối với nền kinh tế thể
hiện ở luật pháp. Trong nền KTTT Nhà nước điều tiết và quản lý bằng một hệ
thống luật, nhất là hệ thống các luật kinh tế một cách khoa học, đồng bộ và hiệu

quả. Ở những nước đang phát triển, trong đó có nước ta, TTCN chưa hình thành
hoặc còn sơ khai, thì vai trò “bà đỡ”- vai trò tạo môi trường pháp lý của nhà
nước để thị trường công nghệ sớm hình thành có ý nghĩa rất quan trọng.
Môi trường pháp lý có nhiều, song dưới góc độ TTCN bao gồm các khía
cạnh sau đây:


23
- Xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu
hướng tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới và phù hợp với điều kiện lịch
sử cụ thể của mỗi nước trong từng thời kỳ;
- Nghiên cứu và ban hành các luật pháp, chính sách, các văn bản hướng
dẫn liên quan đến việc hình thành và phát triển TTCN, nhất là Luật khoa học -
công nghệ và Luật doanh nghiệp (ở nước ta Luật khoa học - công nghệ đã ban
hành tháng 6 năm 2000). Trong Luật này, những điều khoản sau đây cần được
coi trọng:
+ Phải xác định sản phẩm công nghệ là hàng hoá được trao đổi mua bán.
+ Thừa nhận và tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển cơ chế
cung cầu hàng hóa công nghệ.
+ Thừa nhận TTCN là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống
đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Nhà nước ban hành các luật, nghị định, chính sách và biện pháp liên
quan đến việc quản lý vĩ mô có hiệu quả các hoạt động giao dịch kinh doanh trên
TTCN . Các văn bản pháp lý có đủ 3 thành phần: đảm bảo vai trò quản lý của
nhà nước; đảm bảo hoạt động của các chủ thể tham gia TTCN; đảm bảo hỗ trợ
cho TTCN có thể triển khai và phát triển đồng bộ, lành mạnh và hiệu quả.
Tóm lại, để TTCN hình thành và phát triển về mặt pháp lý, Nhà nước cần
tạo cho TTCN một hệ thống luật pháp, pháp quy tương đối đầy đủ trên các mặt
như: đăng ký công nhận thành quả KH & CN; biện pháp thúc đẩy thương mại

hoá thành quả KH & CN; Hệ thống pháp lý đầy đủ về hợp đồng công nghệ cho
nghiên cứu phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, tư vấn công nghệ, dịch
vụ công nghệ, môi giới công nghệ; đăng ký công nhận hợp đồng công nghệ; biện


24
pháp tăng cường quản lý quyền sở hữu trí tuệ đối với KH&CN, phát triển mạng
lưới dịch vụ thông tin hỗ trợ TTCN; Phát triển ngành dịch vụ trung gian trong đó
có môi giới công nghệ, đánh giá quyền sở hữu tài sản công nghệ, v.v
Thứ hai: Nhà nước ban hành khung pháp lý về tổ chức hoạt động của thị
trường công nghệ
Nội dung khung pháp lý về tổ chức liên quan đến hoạt động của TTCN
gắn với 3 thành phần (hay 3 phía):
* Cơ quan quản lý và xúc tiến TTCN của nhà nước Trung ương, tỉnh
(thành phố)
Nhà nước cần có các văn bản pháp lý cho việc hình thành cơ quan quản lý
và xúc tiến TTCN trên cơ sở công nhận các cơ quan này là đơn vị sự nghiệp,
hình thành từ trung ương đến địa phương có chức năng nhiệm vụ được xác định
về mặt pháp lý.
Cấp Trung ương: Tổ chức này có tên gọi là “Trung tâm quản lý và xúc
tiến thị trường công nghệ”. Cơ quan này trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ,
được tổ chức thành các Ban có các chức năng:
- Quản lý phát triển xúc tiến TTCN
- Phổ cập kết quả nghiên cứu.
- Thông tin.
- Hợp tác quốc tế.
* Cấp tỉnh, thành phố, có tên gọi là: “Văn phòng quản lý và xúc tiến
TTCK”.
Văn phòng này trực thuộc Sở khoa học và Công nghệ, thực thi các chức
năng:

×