Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Điều kiện hình thành và phát triển thị trường tương lai tại Việt nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.52 KB, 14 trang )


ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN THỊ TRƢỜNG TƢƠNG LAI TẠI
VIỆT NAM
Báo cáo chuyên đề số 4/2011





8/2011
Phạm Nguyễn Hoàng
Phòng Phân tích và Dự báo thị trường
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
2






NỘI DUNG
1) Một số ƣu điểm của giao dịch tƣơng lai……………………………4
2) Các điều kiện cần thiết để hình thành và xây dựng thị trƣờng hợp
đồng tƣơng lai………………………………………………………..6
3) Khả năng thành lập thị trƣờng giao dịch hợp đồng tƣơng lai tài
chính tại Việt Nam…………………………………………………10














3

Lịch sử phát triển thị trường chứng khoán thế giới cho thấy thị trường giao
dịch tương lai
1
thường bắt đầu từ các sản phẩm nông nghiệp, tiếp đến là năng
lượng, nguyên vật liệu; sau đó là thị trường tương lai dành cho các sản phẩm tài
chính như chứng khoán, ngoại hối, lãi suất, tỷ giá, chỉ số, và thậm chí là thị trường
tương lai của chính các sản phẩm phái sinh; ví dụ, cho đến tận đầu những năm
1970 mới xuất hiện hợp đồng tương lai ngoại hối, trong khi thị trường tương lai
các sản phẩm bơ và trứng đã xuất hiện cả trăm năm trước. Như vậy, thị trường hợp
đồng tương lai hàng hóa thường xuất hiện trước thị trường hợp đồng tương lai sản
phẩm tài chính.
Tại Việt Nam, dường như quy luật này đã được chứng kiến. Đã có một loạt
các sàn giao dịch tương lai dành cho các sản phẩm hàng hóa thông thường đã được
xây dựng. Mặc dù vậy, một điểm chung dễ nhận thấy là hầu như tất cả các sàn giao
dịch tương lai này đã phải đóng cửa một cách nhanh chóng sau một thời gian ngắn
vì hiệu quả hoạt động không cao. Có thể kể đến như:
1) Sàn giao dịch điều của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp
HCM phối hợp với Hiệp hội Điều Việt Nam (năm 2002)
2) Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ (năm 2002)

3) Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC, 2008)
4) Sàn giao dịch đường của Công ty cổ phần Giao dịch hàng hóa
Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE, 2010)
5) Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (Vietnam Commodity
Exchange - VNX), tiền thân là Sở Giao dịch hàng hóa Triệu Phong, giao
dịch kỳ hạn dành cho ba mặt hàng được Bộ Công Thương cấp phép là cà
phê, cao su và thép (2010)

1
Trong phạm vi bài này, thị trường giao dịch tương lai được hiểu bao gồm cả thị trường kỳ hạn (forwards) và thị
trường hợp đồng tương lai (futures)
4

6) Sàn giao dịch vàng kỳ hạn (còn gọi là giao dịch vàng tài khoản)
mở tại các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại (giai đoạn
trước 31/3/2010).
Có thể nhấn mạnh rằng hầu hết các sàn giao dịch này hoạt động một cách
ảm đạm, chưa thu hút được nhiều đơn vị tham gia (trừ sàn giao dịch vàng kỳ hạn).
Trong khi đó, nhiều đơn vị trong nước lại phải đi tìm kiếm nguồn hàng hoặc bán
hàng qua các sàn giao dịch tương lai ở nước ngoài tại Mỹ, Nhật, châu Âu. Trước
nhu cầu này, một số sàn giao dịch kỳ hạn nước ngoài đã tiến hành các hoạt động
quảng bá và chào đón doanh nghiệp Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, bao gồm sự thiếu vắng các
đối tượng tham gia, trình tự, thủ tục không tiện lợi, chi phí cao, chứa đựng nhiều
rủi ro, cơ chế quản lý không hiệu quả. Vậy phải chăng sự hình thành thị trường
tương lai ở Việt Nam sẽ không theo trình tự con đường phát triển phổ biến trên thế
giới?
Trong bối cảnh đó, thị trường giao dịch hợp đồng tương lai dành cho sản
phẩm tài chính đang được các cơ quan quản lý nghiên cứu xây dựng với dự kiến áp
dụng đầu tiên cho chỉ số chứng khoán. Tuy nhiên, tính khả thi của thị trường giao

dịch hợp đồng tương lai chỉ số sẽ như thế nào và liệu có lặp lại “vết xe đổ” như các
thị trường hợp đồng tương lai hàng hóa ở Việt Nam nêu trên hay không, chúng ta
sẽ thảo luận trong các phần dưới.
1. Một số ƣu điểm của giao dịch tƣơng lai
Để có thể thảo luận chi tiết hơn, trước hết chúng ta tìm hiểu một vài chức
năng tiêu biểu của thị trường giao dịch hợp đồng tương lai.
Chức năng hàng đầu của thị trường hợp đồng tương lai nói chung và hợp
đồng tương lai nói riêng là giúp các đối tượng sở hữu hàng hóa phòng ngừa được
rủi ro biến động giá tương lai của các loại hàng hóa này (còn gọi là sản phẩm gốc
hay hàng hóa cơ sở). Một ví dụ tiêu biểu cho chức năng này là nông dân mong
5

muốn tránh được thiệt hại do giá giảm trong tương lai của các loại nông sản mà
anh ta có thể sản xuất ra trong tương lai. Nhằm mục tiêu đó, anh ta có thể ký hợp
đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng tương lai giao nông sản sau 3 tháng với giá xác định
trước; và đến thời điểm giao hàng, cho dù giá giao ngay trên thị trường đi xuống,
anh ta vẫn bán được hàng với giá cao hơn do đã được ấn định từ đầu. Trong quá
trình thực hiện ký kết hợp đồng như vậy, người nông dân thực chất đã góp phần
giảm thiểu thua lỗ; ví dụ, sẽ tránh được quy luật luẩn quẩn ở nhiều địa phương tại
Việt Nam là “được mùa - mất giá; được giá - mất mùa”. Bên cạnh đó, người bán
có thể rải đều lượng bán hàng giao thực qua các tháng giao hàng; đồng thời, các
bên tham gia thị trường, từ người nông dân, đến nhà sản xuất, người kinh doanh
đều biết được mức giá tương ứng với kỳ vọng hàng hóa trong tương lai nhằm định
hướng, tính toán các kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Có thể thấy, giao dịch giao sau là một nhu cầu có thực và trong thời gian gần
đây ở Việt Nam, nhiều nông dân đã ký kết với các thương lái và bán hàng nông sản
kỳ hạn (có thể ngoài lý do phòng ngừa giá giảm còn là nhu cầu tài chính). Đáng
tiếc, hành động này của họ đôi lúc bị quy cho là “bán non” mang nghĩa xấu và một
số cấp chính quyền địa phương đã phải cử cán bộ xuống địa bàn thuyết phục nông
dân không “bán non” nữa! Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến các điều kiện hình

thành thị trường hợp đồng tương lai và đồng thời cũng đặt ra nhu cầu xây dựng và
quản lý hiệu quả thị trường tương lai ở nước ta.
Nếu hàng hóa cơ sở không phải là các loại nông sản mà là các loại chứng
khoán và sản phẩm tài chính, chức năng phòng ngừa biến động giá bất lợi nêu trên
không hề mất đi mà thậm chí còn khắt khe hơn. Ví dụ, các cổ đông/nhà đầu tư
đang nắm giữ cổ phiếu có thể bán một hợp đồng tương lai nếu dự đoán rằng giá cổ
phiếu giảm nhằm chuyển nhượng một khối lượng cổ phiếu nhất định với giá xác
định trước trong tương lai; hoặc các chủ sở hữu trái phiếu cũng có thể bán hợp
đồng tương lai trái phiếu do lo ngại môi trường lãi suất tăng.

×