Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Việc làm ở khu vực nông thôn thành phố Hà Nội trong quá trình CNH,HĐH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 124 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ
_________________________


NGUYỄN ĐỨC QUỲNH

















VIỆC LÀM Ở KHU VỰC NÔNG THÔN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




HÀ NỘI - 2012

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ
_________________________


NGUYỄN ĐỨC QUỲNH


VIỆC LÀM Ở KHU VỰC NÔNG THÔN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÍ MẠNH HỒNG



HÀ NỘI - 2012




4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. VIỆC LÀM VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN 7
1.1. Một số vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm 7
1.2. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn đề việc
làm ở khu vực nông thôn 12
1.2.1. Đặc điểm về lao động, việc làm ở nông thôn 12
1.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác động của nó đối với những
biến đổi về việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực nông thôn 18
1.2.3. Giải quyết việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 23
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
một số tỉnh 29
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc 29
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai 34
Chương 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO

ĐỘNG Ở KHU VỰC NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA 37
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới việc làm và giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn thành phố Hà Nội 37
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số lao động 37
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 39
2.2. Thực trạng việc làm của người lao động ở khu vực nông thôn Thành
phố Hà Nội 43
2.2.1. Một số chính sách giải quyết việc làm cho người lao động của Hà
Nội 43

5
2.2.2. Quy mô và cơ cấu lao động 44
2.2.3. Tình hình việc làm giai đoạn 2006 - 2010 50
2.2.4. Tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm 53
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn thành phố Hà Nội 61
2.3.1. Những kết quả đạt được 61
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn
Thành phố Hà Nội 73
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI
GIAN TỚI 78
3.1. Bối cảnh phát triển mới và tác động của nó đến vấn đề giải quyết việc
làm ở nông thôn Thành phố Hà Nội 78
3.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
tạo ra những cơ hội và thách thức mới với vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm 78
3.1.2. Phát triển của Hà Nội có ý nghĩa với sự phát triển của cả nước 80

3.2. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Thành
phố Hà Nội 81
3.2.1. Mở rộng cơ hội tạo việc làm cho người lao động 81
3.2.2. Phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế 83
3.2.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh bền
vững 84
3.3. Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn 86
3.3.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 86
3.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển giáo dục, tăng
cường công tác đào tạo nghề 90
3.3.3. Phát triển đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động nông thôn trên cơ sở nâng cao thu

6
nhập 98
3.3.4. Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn qua xuất khẩu lao
động 103
3.3.5. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm 105
3.3.6. Hoàn thiện các pháp luật chính sách về lao động việc làm, xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông thôn 107
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115

7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hôi

ĐTH : Đô thị hóa
HĐH : Hiện đại hóa
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
KĐT : Khu đô thị
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TCN : Thủ công nghiệp
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để hướng
tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao động có
thu nhập, cải thiện điều kiện sống, là cơ sở lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Trên bình diện quốc gia, tạo ra việc làm đầy đủ là cơ sở để đất nước khai thác
hiệu quả các nguồn lực của mình và nền kinh tế đạt đến sản lượng tiềm năng.
Ở nước ta, theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số nông
thôn Việt Nam là 60.451.311 người trong tổng số 85.787.573 dân số cả nước
(chiếm 70,3%). Số người trong độ tuổi lao động trong cả nước là 43,8 triệu
người, chiếm 51,1% dân số, trong đó thành thị có 11,9 triệu người, nông thôn
có 31,9 triệu người và hơn 90% dân số nghèo của cả nước đang sống ở nông
thôn. Lao động ở nông thôn hiện nay chiếm tới 3/4 lao động của cả nước, tập
trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi năng suất lao động thấp và cũng
là nơi quỹ đất canh tác đang ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa và
công nghiệp hóa. Vì thế, trong nhiệm vụ giải quyết việc làm tổng thể chung,

giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn giữ vai trò trọng yếu,
nhất là trong bối cảnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa
đang được đẩy mạnh như ở nước ta hiện nay.
Hà Nội là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
của cả nước nên việc phát triển của Hà Nội về mọi mặt có ý nghĩa vô cùng
quan trọng không chỉ với riêng Thủ đô. Sự phát triển nhanh, bền vững của Hà
Nội có quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của cả vùng đồng bằng Sông
Hồng cũng như của cả nước, có tác động không nhỏ đến tiến trình phát triển
chung. Giải quyết và bảo đảm ngày càng đầy đủ việc làm cho người lao động
với tư cách là một kênh quan trọng nhất để nâng cao thu nhập, cải thiện đời

9
sống của đông đảo người dân không thể không là một nội dung đáng được ưu
tiên trong định hướng phát triển bền vững của Hà Nội.
Lao động ở nông thôn Hà Nội hiện đang chiếm số lượng lớn trong cơ
cấu dân số và lao động thủ đô. Phần lớn số lao động này đang tham gia vào
các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các ngành nghề ở nông thôn với các
công cụ, phương pháp sản xuất tương đối lạc hậu, năng suất lao động thấp.
Yêu cầu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn gắn
với sản xuất hàng hóa lớn theo hướng công nghiệp hiện đại ở Hà Nội, đang tỏ
ra mâu thuẫn với hiện trạng trong lĩnh vực lao động - việc làm của Thành
phố: trình độ của lực lượng lao động nông thôn thấp, số lao động chưa được
đào tạo chiếm tỷ lệ cao; lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ chiếm tỷ trọng nhỏ; ý thức kỷ luật của người lao động còn chưa cao. Công
nghiệp hóa, đô thị hóa, bên cạnh những tác động tích cực chung của nó, cũng
đang tạo ra những khó khăn to lớn cho những người nông dân mất đất nông
nghiệp, khi đa số họ lâu đời nay chỉ quen với nghề nông, và cuộc sống ở nông
thôn, chưa có sự chuẩn bị cần thiết cho một cuộc sống "phi nông nghiệp, phi
đất đai". Đây đang và sẽ là vấn đề nhức nhối tác động lên vấn đề giải quyết
việc làm của Hà Nội. Ngoài ra, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang đặt

ra những đòi hỏi rất lớn từ phía người lao động như: chỉ có nâng cao trình độ
nhận thức, kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, có thể tiếp thu và vận dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại vào sản
xuất, người lao động mới có cơ hội tìm được việc làm. Quá trình này chỉ có
thể thực hiện thành công khi một mặt, người lao động ý thức được đầy đủ
những đòi hỏi đang đặt ra trước mắt cần phải vượt qua; mặt khác, họ nhận
được sự trợ giúp thích đáng của Nhà nước dưới các hình thức thích hợp trong
quá trình chuyển đổi.
Ngoài ra, giải quyết việc làm đối với lao động nông thôn Hà Nội không
chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng của bản thân khu vực nông thôn. Tình

10
trạng thiếu việc làm ở nông thôn đã đẩy một bộ phận không nhỏ lao động
nông thôn di cư ra Thành phố kiếm sống. Điều này dẫn đến sự mất cân đối
cung - cầu lao động trong một số ngành nghề ở nông thôn, cùng với đó nó
cũng làm nảy sinh một loạt vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp khác ở Thủ đô.
Những khía cạnh trên cho thấy giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn Hà Nội rõ ràng đang nổi lên như một vấn đề kinh tế - xã hội bức thiết. Vì
vậy: “Việc làm ở khu vực nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hóa” được học viên lựa chọn để nghiên cứu làm luận
văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động được công bố ở trong và
ngoài nước.
- Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp của PGS Nguyễn
Quang Hiền, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1995;
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS Nguyễn Hữu
Dũng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
- Thị trường lao động ở Việt Nam: Định hướng và phát triển của Thạc

sỹ Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002;
- Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình CNH, HĐH đất nước: Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS,
TS Trần Văn Chử làm chủ biên, Hà Nội, 2001.
Các công trình trên đã quan tâm đến vấn đề việc làm và thất nghiệp, coi
đó là một vấn đề có tính toàn cầu; đã đưa ra cách tiếp cận về chính sách việc
làm, hệ thống hoá những khái niệm lao động, việc làm, thu nhập; đánh giá
thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam nói chung; đề xuất quan điểm và
phương hướng giải quyết vấn đề việc làm và khuyến nghị, định hướng một số
chính sách cụ thể về việc làm trong quá trình CNH, HĐH đất nước.

11
Bên cạnh những công trình nghiên cứu mang tính chuyên khảo, cũng
đã có nhiều bài báo công bố trên các tạp chí về đề tài việc làm và thu nhập
của người dân nông thôn nước ta như:
- "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra", của PGS,
TS Nguyễn Sinh Cúc, đăng trên tạp chí Con số và sự kiện, số 8, năm 2003;
- "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá nông thôn” của Nguyễn Hữu Dũng, đăng trên tạp chí Lao
động - Xã hội, số 247, năm 2004;
- "Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn", bài viết của GS, TSKH Lê
Đình Thắng, đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3/2002;
- "Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn 2001-2005", của Bùi Văn Quán, trên Tạp chí Lao động - Xã hội, số
chuyên đề 3, năm 2001;
- "Việc làm cho người nông dân hết đất sản xuất, quy hoạch lại nguồn
lao động", của Nguyễn Văn Nam, đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam,
19/8/2005;
- "Chất lượng lao động nông thôn thấp” của tác giả Huyền Ngân, trên
Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 23/3/2005.

- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải quyết việc làm
quan trọng trong hội nhập của của TS Bùi Thị Lý - Đại học Ngoại thương Hà
Nội, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 801, 7/2009.
Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ viết vấn đề việc làm ở một số
tỉnh như Hưng Yên, Thái Bình, Kiên Giang, Hải Dương… với những cách
tiếp cận khác nhau, trong đó có cả tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn
đề việc làm của người lao động nông thôn Thành phố Hà Nội nhất là từ sau
khi Hà Nội được mở rộng về mặt địa giới trong quá trình công nghiệp hóa,

12
hiện đại hóa. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề này nhằm đưa ra những giải pháp
cần thiết là một công việc có ý nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nhằm làm rõ thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH. Trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm tạo nhiều việc làm cho lực
lượng lao động này.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hóa đến việc làm của
người lao động ở nông thôn; sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn. những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm ở nông thôn.
- Phân tích kinh nghiệm của một số địa phương trong việc giải quyết
vấn đề việc làm trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn Hà
Nội từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho lao động
nông thôn ở Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề việc làm của người lao động
ở nông thôn Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề việc làm ở các huyện ngoại thành của Hà
Nội trong thời gian từ năm 2001 đến nay.

13
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn
còn chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học,
hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Thành phố Hà Nội trong bối cảnh của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chỉ ra được những vấn đề cần phải giải quyết.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn Hà Nội trong điều kiện đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động ở
nông thôn.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực
nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm
ở nông thôn Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.






14
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN

1.1. Một số vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm
* Khái niệm việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Trong sự phát triển của mình, con người đã biết lợi dụng thế
giới tự nhiên để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết nhằm phục vụ cho nhu
cầu của bản thân mình. Khi xã hội phát triển, những hoạt động sản xuất nói
chung ấy được phân chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và người
lao động đã được phân chia vào làm việc trong những lĩnh vực phù hợp với sở
trường và thế mạnh của mình. Mỗi cá nhân tham gia lao động với những công
việc cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội.
Việc làm được thể hiện trước hết trong các hoạt động lao động sản xuất
ở mỗi người lao động. Nếu lao động là hoạt động nói chung của xã hội, phản
ánh bản chất của con người thì việc làm là hoạt động cụ thể của mỗi người lao
động tham gia vào trong quá trình lao động nói chung ấy.
Ở Việt Nam, trước đây, trong cơ chế cũ, việc làm cho người lao động
được nhà nước sắp xếp với chế độ biên chế làm việc suốt đời. Người lao động
có việc làm được xã hội coi trọng được thừa nhận là những người làm việc
trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước, các đơn vị kinh tế
quốc doanh. Với quan niệm nhà nước có trách nhiệm bố trí việc làm cho
người lao động và đảm bảo mức thu nhập giúp duy trì đời sống của họ, nên xã

hội không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, hay việc làm
không đầy đủ. Quan niệm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao
động khi họ cần việc làm.

15
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan
niệm trên về việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện
ở Luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ
sung năm 2002. Điều 13, Chương 2 (việc làm) của Luật quy định: "Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm”.
Như vậy, việc làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các
lĩnh vực cùa đời sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không
bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu miễn là không vi
phạm pháp luật để mang lại thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm trên
đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, tạo ra một thị trường
việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục tiêu
giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, một địa
phương và trong một thời kỳ nhất định người ta phải quan tâm đến vấn đề
việc làm đầy đủ và thiếu việc làm.
Thiếu việc làm là tình trạng người lao động không có đủ việc làm theo
thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu
nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu tìm việc làm để tăng
thu nhập.
Thực tiễn giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho người
lao động và cao hơn nữa phải tạo ra việc làm được tự do lựa chọn để thực

hiện giải phóng triệt để sức lao động.
Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc
làm cho người lao động. Nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao

16
động mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do
lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện làm phong
phú đời sống tinh thần.
* Khái niệm thất nghiệp
Thực hiện việc làm đầy đủ tiến tới việc làm được lựa chọn cho người
lao động là một quá trình phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế thị trường tất
yếu tồn tại vấn đề thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu để
đánh giá tình trạng của một nền kinh tế.
Người thất nghiệp là người thuộc lực lượng lao động hay dân số hoạt động
kinh tế có khả năng làm việc, song hiện đang chưa có việc làm, đồng thời đang
mong muốn và đi tìm việc làm.
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng
chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để
xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có
muốn đi làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề
nghiệp song không có nhu cầu làm việc; họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự
trữ” như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ. Trong trường hợp này họ nằm
ngoài lực lượng lao động.
Như vậy, lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm cộng
với những người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp chính là tỷ lệ những người thất
nghiệp trong tổng số những người nằm trong lực lượng lao động.
Những người thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp (a) =

lực lượng lao động
Những người thất nghiệp
=
Số người có việc làm + Số người thất nghiệp

17
* Phân loại thất nghiệp.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của ngành lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc
giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối
giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị
tổng sản lượng của nền kinh tế gắn liền với chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn
suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết
các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao
động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích
tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công thị
trường nào đó người lao động vẫn không muốn làm việc. Thất nghiệp loại này
thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công
thị trường nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không tìm được việc
làm do kinh tế suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự
nguyện) còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được
sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm

việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp.
Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo cơ cấu của những người thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ).

18
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào
đó trong tổng số lực lượng lao động.
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy ra
thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi ).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một
ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp
theo dân tộc, chủng tộc, tôn giáo
* Khái niệm thiếu việc làm:
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì: Người
thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức
lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm.
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người
thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không
hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để
bổ sung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc
làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc làm vô hình
(khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao
động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm
kiếm thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Tình trạng việc làm hữu hình được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời

gian lao động như sau:
K =
Số giờ làm việc thực tế
x 100%
Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)

19
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời
gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao
động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi,
tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu
nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
1.2. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn
đề việc làm ở khu vực nông thôn
1.2.1. Đặc điểm về lao động, việc làm ở nông thôn
* Đặc điểm của việc làm ở nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Có nhiều loại việc làm diễn ra ở nông thôn, phản
ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. Nhưng việc
làm của người lao động ở nông thôn lại gắn với đặc điểm của lực lượng lao
động ở đây, với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống.
Việc làm của người lao động ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều
kiện sinh sống và làm việc của người lao động. Và chính môi trường, điều
kiện đó đã ảnh hưởng đến việc làm của họ. Nguồn lao động nông thôn thường
làm việc trong các ngành nông - lâm - thủy sản, những loại việc làm có thể
khai thác tài nguyên tự nhiên phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, có thể nói lao động trồng trọt và chăn nuôi là việc làm chính
của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao

động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở
nông thôn lớn lên theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm
rằng không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích
lũy dần trong quá trình người lao động tham gia sản xuất với tư cách là người
lao động phụ của gia đình. Bên cạnh đó loại công việc này còn nhiều hạn chế.

20
Thứ nhất, sản xuất bị chi phối trực tiếp bởi các quy luật của tự nhiên
như: gió mưa năng, nhiệt độ, thổ nhưỡng dẫn đến năng suất và hiệu quả
công việc thấp.
Thứ hai, sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại
nên người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít cải tiến sáng tạo. Quá
trình đó cứ diễn ra thường xuyên qua nhiều năm làm cho tiến trình phát triển
kinh tế xã hội ở nông thôn diễn ra một cách chậm chạp.
Thứ ba, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông
thôn sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá
trình đô thị hóa đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho
người nông dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn tay nghề thấp
họ sẽ gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc
nặng nhọc với mức lương thấp… Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH, người
lao động làm việc trong lĩnh vực thuần nông là những người có nguy cơ bị
thiếu việc làm và bị thất nghiệp cao nhất.
Cùng với sự hình thành và phát triển của cơ chế thị trường, các loại
ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển đã tạo nên sự phong phú,
đa dạng về việc làm cho người lao động ở đây. Trong quá trình này có nhiều
loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời và phát triển. Bên cạnh sự phát
triển của các loại nghề thường có trong các xã hội truyền thống như sản xuất
đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ, nhiều ngành nghề chế biến
nông lâm thủy sản mới xuất hiện như: sấy thóc, sơ chế và chế biến thực phẩm,
chế biến rau quả, thủy sản. Hoạt động gia công cơ khí xuất hiện phục vụ sửa

chữa đồ gia dụng, nông cụ, sửa chữa máy móc nông nghiệp. Đặc biệt cùng
với sự phát triển của kinh tế hàng hóa các hoạt động dịch vụ ở nông thôn cũng
phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đời sống trước đây chỉ
có ở thành thị nay đã có ở nông thôn như dịch vụ cung cấp nước sạch…
Nhiều việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ và cấm đoán như: giúp việc gia

21
đình, chạy chợ… thì nay được coi như một nghề. Tất cả những biến đổi đó đã
tạo ra nhiều loại hình việc làm phong phú, góp phần đa dạng hóa thị trường
việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò tích cực trong phát
triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
- Phát triển ngành nghề ngoài việc đem lại việc làm ổn định thường
xuyên cho người lao động trong lĩnh vực đó, còn có khả năng thu hút thêm
lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra sự phát triển của nó lại nảy sinh
những ngành nghề mới, những hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm nhiều
việc làm mới cho người lao động.
- Loại việc làm này thường đưa lại việc làm ổn định và thu nhập cao
hơn cho người lao động. Ở Việt Nam hiện nay, thu nhập của các hộ chuyên
ngành nghề ở nông thôn thường cao hơn khoảng 4 lần so với thu nhập bình
quân của hộ lao động nông nghiệp thuần nông. Điều đó làm gia tăng tỷ lệ hộ
giàu, tăng tích lũy, tạo điều kiện cho nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cải
thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn.
- Việc làm phi nông nghiệp có vai trò to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Các ngành nghề ở nông thôn sử dụng nông sản hàng hóa làm nguyên
liệu đã hình thành nên hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, đưa lại giá trị gia tăng
cho sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác, do yêu cầu của công việc, người lao
động làm việc trong các ngành nghề ít nhiều phải có tay nghề và đòi hỏi phải
có tay nghề ngày càng cao. Điều đó bắt buộc người lao động phải không ngừng

học tập, rèn luyện giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hiện nay đang phát triển phong
phú đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển của loại việc làm này cũng gặp khó khăn
do hạn chế về trình độ tay nghề của người lao động, về công nghệ cũng như
về giới hạn khả năng quản lý của chủ hộ sản xuất kinh doanh, về nguồn vốn

22
cũng như phong tục tập quán. Người dân có nghề phi nông nghiệp vẫn chưa
mạnh dạn bỏ ruộng đất tập trung sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, mặc dù có nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở nông
thôn, nhưng so với việc làm thuần nông thì sự phát triển gia tăng của việc làm
phi nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH sẽ dần chiếm ưu thế. Bởi vì so
với lĩnh vực thuần nông, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn ít gặp những
giới hạn của tự nhiên, ngược lại nó còn được thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự phát
triển của quá trình CNH, HĐH. Nếu như việc làm thuần nông ngày càng bị
thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang trong xu thế phát triển mở rộng do
chính sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa đưa lại. Điều đó tạo ra
thị trường rộng lớn cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế công, nông
nghiệp, dịch vụ với cơ cấu lao động tiến bộ ở nông thôn.
* Đặc điểm của lực lượng lao động ở nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động
cả nước sinh sống và làm việc tại khu vực nông thôn. Cũng như lực lượng lao
động chung của cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế) ở nông thôn là bộ phận dân số có độ tuổi từ 15 tuổi trở
lên có việc làm hay không có việc làm đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động ở nông thôn thường có những đặc điểm sau:
Một là, lực lượng lao động nông thôn ở đa số các nước kém phát triển
thường chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động cả nước và tăng với quy
mô lớn so với lực lượng lao động ở thành thị. Ví dụ ở nước ta, theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, dân số năm 2009 là 86.024.600 người, đứng thứ 12 trên

thế giới, trong đó nông dân chiếm tỷ lệ 71% dân số với 42.215.358 người [47,
tr.35-36]. Lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay chủ yếu làm việc trong các
ngành nông - lâm - ngư nghiệp, một bộ phận không nhiều hoạt động trong lĩnh
vực du lịch, tiểu thủ công nghiệp. Thời gian lao động trung bình ở nông thôn
hiện nay mới chỉ chiếm khoảng 65 - 70%, còn lại là thời gian nông nhàn [7,

23
tr.21], trong khi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang điễn ra mạnh mẽ đòi hỏi
phải giảm bớt lao động nông nghiệp để chuyển sang công nghiệp, dịch vụ.
Như vậy, lực lượng lao động hiện nay ở nước ta phần lớn là ở nông
thôn và hàng năm khu vực này lại được tiếp nhận một lực lượng lao động trẻ,
có sức khỏe và trình độ văn hóa, rất dễ dàng trong việc tiếp thu ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế khu
vực nông thôn, là nguồn lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, lực lượng lao động nông thôn gia tăng sẽ tạo sức ép việc
làm to lớn ở khu vực nông thôn. Bởi vì lực lượng lao động tăng lên trong khi
đất canh tác lại giảm dần do quá trình đô thị hóa dẫn đến diện tích trên đầu
người giảm, thời gian sử dụng ngày công trong nông nghiệp thấp, người lao
động phải làm những công việc có thu nhập thấp, gây ra tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn.
Hai là, trong quá trình CNH, HĐH lực lượng lao động ở nông thôn có
xu hướng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp
tăng tỷ trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Ví dụ ở nước ta, trên phạm vi cả nước từ 2005 đến 2009, tỷ trọng lao
động làm việc trong khu vực I (nông - lâm - thủy sản) giảm từ 57,1% năm
2005 xuống còn 51,9% năm 2009, bình quân hàng năm giảm gần 1,3%. Tỷ
trọng lao động làm việc trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ 18,2% năm
2005 lên 21,4% năm 2009, bình quân hàng năm tăng 0,8%. Tỷ trọng lao động
làm việc trong khu vực III (dịch vụ) tăng từ 24,7% năm 2005 lên 26,5% năm

2009 bình quân hàng năm tăng 0,45% [47, tr.34]. Lao động ở nông thôn cũng
không nằm ngoài xu hướng vận động chung đó. Đặc biệt từ khi thực hiện chủ
trương giao đất, giao rừng, người lao động ở nông thôn đã có sự độc lập tự
chủ trong sản xuất kinh doanh. Kinh tế nông thôn đã có sự chuyển hướng từ
thuần nông, tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hóa, với sự xuất hiện đa dạng

24
nhiều ngành nghề. Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, người lao động có thể làm việc
trong các ngành nghề khác tại các xí nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Dưới tác động của quá trình CNH, HĐH, quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động trên càng được thúc đẩy nhanh chóng. Việc ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, một mặt đã tạo ra nhiều ngành nghề mới ở địa phương,
kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả năng thu hút lao
động lớn. Mặt khác, do ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, năng suất
lao động sẽ không ngừng được tăng lên. Vai trò quan trọng của nông thôn là
cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn dân, cung cấp nguyên vật liệu cho
công nghiệp ngày càng được đảm bảo, cho phép giải phóng lao động nông
nghiệp sang làm các ngành nghề khác. Như vậy, song song với quá trình rút
lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp cũng đồng thời diễn ra quá trình thu
hút lao động ở nông thôn vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đó là xu
hướng vận động phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ nhưng yêu cầu đặt ra
là phải chuẩn bị lực lượng lao động ở nông thôn đáp ứng được yêu cầu của
lao động ngành nghề, tạo ra sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ người lao động
với cơ hội việc làm.
Ba là, lực lượng lao động ở nông thôn, bên cạnh các đặc tính phù hợp
với sự phát triển, cũng còn nhiều mặt hạn chế.
- Lực lượng lao động nông thôn thường phân bố không hợp lý giữa các
vùng, các ngành. Đối với những nước mà ngành nông nghiệp chủ yếu thiên về
trồng trọt, phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho việc cấy trồng như các vùng đồng bằng khiến cho những

vùng này rơi vào tình trạng đất chật người đông, thiếu việc làm trong khi đó
vùng rừng núi có diện tích đất đai rộng lớn nhưng dân cư thưa thớt, không đủ
lao động để phát triển kinh tế - xã hội.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường hạn chế về sức khỏe, thể lực.
Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên có năng suất thấp, bấp

25
bênh nên thu nhập của người lao động thấp hơn thu nhập của người lao động ở
thành thị. Hơn nữa, do hạn chế nhiều mặt về thông tin, thiếu hiểu biết về chế độ
dinh dưỡng cho cuộc sống nên người lao động ở nông thôn không có điều kiện
để nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho nên, thể lực, tầm vóc và tuổi thọ trung
bình của người lao động ở nông thôn thường thấp hơn người lao động ở thành
thị. Khu vực nông thôn cũng chưa được tạo điều kiện để nâng cao các yếu tố
khác của chất lượng nguồn lao động như văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ cũng
như nhận thức về công ăn việc làm, tinh thần, ý thức trách nhiệm.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường có trình độ học vấn và trình
độ tay nghề chưa cao. Nhiều công trình nghiên cứu ở nước ta đã kết luận: ở
nông thôn dân trí thấp hơn hai lần so với thành thị, nhân tài thấp hơn 6 lần,
đào tạo nghề thấp hơn 10 lần, lao động trí óc ở nông thôn cũng chỉ chiếm
4,4% trong khi đó ở thành thị là 30%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở
nông thôn mới chỉ 10%, trong khi đó chung cả nước là 25% [6, tr.27]. Do
điều kiện sản xuất ở nông thôn còn ở trình độ thấp, thô sơ lạc hậu, người lao
động thường làm theo kinh nghiệm nên không có điều kiện nâng cao tay
nghề. Mặt khác, người lao động có trình độ cao thường muốn tìm cho mình
một chỗ làm việc thường ở ngoài nông thôn, có thu nhập cao, có điều kiện
hưởng thụ nhiều kết quả của sự phát triển xã hội. Họ thường tìm việc làm ở
thành phố chứ ít khi làm việc ở nông thôn. Lực lượng lao động còn lại ở nông
thôn thường là những người không có điều kiện đi làm ở nơi khác mới ở lại
nông thôn làm việc. Vì vậy cần phải đào tạo và huấn luyện tay nghề cho họ để
nâng cao chất lượng nguồn lao động ở khu vực này.

1.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác động của nó đối với
những biến đổi về việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực nông thôn
Trước hết, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một bộ
phận lực lượng lao động trong nông nghiệp được rút ra khỏi sản xuất nông

26
nghiệp. Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng máy
móc trong sản xuất, làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng, dẫn
đến thời gian lao động trong nông nghiệp giảm xuống, cho phép một bộ phận
lao động trong nông nghiệp chuyển sang làm các ngành khác.
Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là hướng cơ bản tạo ra cầu lao động
ngày càng lớn cho khu vực nông thôn. Lịch sử phát triển các nước trên thế
giới đã khẳng định: không có công nghiệp thì không có cách nào khác để tạo
thêm công ăn việc làm. Điều đó đặc biệt có ý nghĩa đối với bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang có tỷ lệ thất nghiệp trong
nông nghiệp cao. Theo lý thuyết của W. Rowtow, hầu hết các nước đang phát
triển và đang trong quá trình công nghiệp hóa nằm trong khoảng giai đoạn 2
(giai đoạn chuẩn bị cất cánh) và giai đoạn 3 (giai đoạn cất cánh). Về mặt cơ
cấu kinh tế, phải bắt đầu hình thành được những ngành công nghiệp chế biến
có khả năng thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, sự chuyển
tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 đi kèm với sự thay đổi của những ngành
chủ lực, đóng vai trò đầu tàu. Điều này nghĩa là, trong chính sách cơ cấu, cần
xét đến trật tự ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực có khả năng đảm trách
vai trò đầu tàu kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Điều này có
thể được chứng minh rất rõ trong "lý thuyết nhị nguyên" của A. Lewis.
Lý thuyết này cho rằng ở các nền kinh tế có hai khu vực kinh tế song
song tồn tại: 1) khu vực truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và có
đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao động rất thấp và lao động dư thừa: 2) khu
vực công nghiệp hiện đại có đặc trưng năng suất lao động cao và có khả năng

tự tích lũy. Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư
từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp sẽ không gây ảnh hưởng gì
đến sản xuất nông nghiệp. Do có năng suất lao động cao và tiền công cao hơn
nên khu vực công nghiệp sẽ thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp
chuyển sang, và do lao động trong khu vực nông nghiệp quá dư thừa, tiền

×