Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.83 KB, 89 trang )




i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ HOA




NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ









HÀ NỘI - 2011



ii

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ HOA



NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ DANH TỐN





HÀ NỘI - 2011



iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG 7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành 7
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 7
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành 11
1.1.3. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành 13
1.2 Khái niệm và đặc điểm của ngành dịch vụ viễn thông 20
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về năng lực cạnh tranh của ngành dịchvụ Viễn
thông 23
1.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia 23
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DỊCH
VỤ VIỄN THÔNG VIỆT NAM 32
2.1. Tổng quan về ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam 32
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ viễn
thông Việt Nam 35
2.2.1. Trên thị trường trong nước 34
2.2.2. Trên thị trường nước ngoài 51
2.3. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam 55

2.3.1. Ưu điểm 55
2.3.2. Hạn chế 57
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VIỆT NAM 61
3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó đến ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam 61
3.1.1. Bối cảnh trong nước 61
3.1.2. Bối cảnh quốc tế 66
3.2. Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ Viễn thông Việt
Nam 67
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam 68
3.3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước 68
3.3.2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ viễn
thông 73
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83



v

BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT

CMDA : Đa truy nhập phân chia mã (Code Division Multiple Acces)
GMS : Hệ thống thông tin di động toàn cầu (Global System for Mobile
Comunication)
MMS : Dịch vụ tin nhắn đa phương tiện Multimedia (Messaging
Service)
BBC : Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Buisnessco opration Contract)
UNDP : Chương trình phát triển liên hiệp quốc (Development progarm
in the United Nations)

ROA : Hệ số lợi nhuận trên sản phẩm
Viettel : Tổng công ty Viễn thông quân đội
VNPT : Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
VMS : Công ty thông tin di động (Mobifone telecom serivicese
Company)
EVN : Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực
SPT : Công ty Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn
OCI : Công ty Cổ phần dịch vụ Internet








1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Viễn thông là một trong những ngành dịch vụ lớn và phát triển nhanh
nhất, đóng vai trò là một dịch vụ liên lạc, là một phương tiện nền tảng với
nhiều loại hình dịch vụ khác nhau về mặt điện tử. Sự phát triển của khoa học
kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin đã khiến cho viễn thông trở thành một
lĩnh vực có sự tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế thế giới và trở thành
một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của hoạt động kinh tế, văn hóa, xã
hội, chính trị.
Tuy nhiên, Trong xu thế hội nhập và phát triển, ngành viễn thông đang
đứng trước sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Theo lộ trình cam kết của Việt Nam
với các quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế ,lĩnh vực viễn thông đã chính thức

mở cửa, theo đó ngành dịch vụ viễn thông có nhiều cơ hội để phát triển mạnh
mẽ nhưng cũng đứng trước nhiều thách thức to lớn, nhất là áp lực cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế.
Với dân số trên 87 triệu người và một nền kinh tế đang chuyển đổi
mạnh mẽ sang cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập, viễn thông Việt Nam
luôn được cộng đồng quốc tế ghi nhận đứng đầu về tốc độ phát triển. Trong
thời gian tới tốc độ này chắc chắn được duy trì. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của
các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông như Vinaphone, Viettel, Mobifone, đã
chứng minh tiềm năng phát triển to lớn của ngành dịch vụ viễn thông Việt
Nam.Năm 2007, số thuê bao điện thoại cả nước đặt 46,94 triệu thuê bao.Tổng
số thuê bao điện thoại phát triển mới trong sáu tháng đầu năm 2011 ước tính
đạt 4,7 triệu thuê bao, bao gồm 33,4 ngàn thuê bao cố định và trên 4,6 triệu
thuê bao di động.Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 6/20011
tính đạt 128,1 triệu thuê bao, tăng 4,6% so với cùng thời điểm năm trước, bao
gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, tăng0,7% và 112,6 triệu thuê bao di động,
tăng 5,2%. Số thuê bao internet cả nước tính đến cuối tháng 12/ 2010 là 3,77



2
triệu thuê bao, tăng 27,4 % so với cùng thời điểm của năm trước. Số người sử
dụng internet tính đến cuối năm 2010 ước đạt 27,4 triệu người, tăng 26,5% so
năm 2009.
Thực tế cho thấy kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường hội nhập
kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam chưa nhiều, công
nghệ của ngành viễn thôngViệt Nam vẫn đi sau nhiều nước, thị trường dịch
vụ viễn thông vẫn đang diễn ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp viễn thông trong quá trình hội nhập kinh
tế còn nhiều hạn chế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bắt buộc nước ta phải
mở cửa thị trường trong đó có thị trường dịch vụ viễn thông . Với quy luật thị

trường “Cá lớn nuốt cá bé” thì các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đang
đứng trước nguy cơ nép vế ngay tại thị trường trong nước.
Vấn đề đặt ra là cần phải phân tích, đánh giá một cách khách quan và
khoa học thực trạng năng lực canh tranh của ngành Viễn thông Việt Nam trên
cơ sở đó tìm kiếm giải pháp khả thi nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
này.
Xuất phát từ thực tế đó, chủ đề “Năng lực cạnh tranh của ngành dịch
vụ viễn thông Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
Thông qua nghiên cứu này, luận văn hy vọng đưa ra được những giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông, khai thác
được tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững
của ngành dịch vụ này.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh đã có những
công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương năm 2003, “Nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia” - Nhà xuất bản giao thông vận tải, Hà nội.



3
- Bạch Thụ Cường năm 2002: “Bàn về cạnh tranh toàn cầu” - Nhà
xuất bản Thông tấn, Hà Nội.
- M. Porter năm 2009 “Lợi thế cạnh tranh Quốc gia” - Nhà xuất bản
Trẻ.
- Võ Trí Thành (2001), Tính cạnh tranh: “Quan niệm và khung khổ
phân tích (Dự án phân tích chính sách thương mại và tính cạnh tranh ở Việt
Nam”
Trong các công trình nghiên cứu trên các tác giả đã trình bày những
quan điểm khác nhau về khái niệm năng lực cạnh tranh và các phương pháp,

các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ở các cấp độ khác nhau như quốc
gia , ngành, doanh nghiệp và sản phẩm.
Về ngành dịch vụ viễn thông cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực cạnh tranh của ngành này. Tiêu
biểu là:
- Bùi Xuân Phong (2002), “Chiến lược kinh doanh Bưu chính viễn
thông” - Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Hà Văn Hội (2003), “Các vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực viễn thông và
công nghệ thông tin trong tiến trình gia nhập WTO”, Tạp chí Bưu chính viễn
thông số 211(412)
- Nguyễn Thành Chung(2008) „Báo cáo về cạnh tranh viễn thông”Đề
tài cấp bộ.
- Mai Liên Trực, Nguyễn Ngô Hồng (2005), “Viễn thông Việt Nam
trong quá trình đổi mới”, tạp chí Bưu chính Viễn thông và Công nghệ thông
tin tháng 8/2005.
- Vũ Đức Đam (1996), “Phát triển viễn thông trong nền kinh tế hiện
đại” - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội.
- Lê Thành Dũng (2005), “Các dịch vụ viễn thông của tổng công ty Bưu
chính viễn thông Việt Nam”, Nxb. Bản Bưu điện ,Hà Nội.



4
Các công trình nghiên cứu trên ở những giác độ khác nhau đã ít nhiều
đề cập đến tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành viễn thông
Việt Nam, nhiều giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
các doanh nghiệp và ngành viễn thông Việt Nam đã được đưa ra.
Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu từ giác độ
của khoa học kinh tế chính trị một cách chuyên biệt, hệ thống thực trạng năng
lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam cũng như đề ra các

giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ
viễn thông Việt Nam đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngành
dịch vụ viễn thông.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ
viễn thông Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành dịch vụ viễn thong Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Viễn thông là một ngành rộng, gồm nhiều dịch vụ, luận văn tập trung
nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành trong các dịch vụ điện thoại di
động và dịch vụ điện thoại cố định.
- Hoạt động trong ngành dịch vụ viễn thông có nhiều doanh nghiệp,
luận văn chủ yếu khảo sát thực tiễn năng lực cạnh tranh tại ba doanh nghiệp



5
điển hình: Mobifone, Vinaphone và Viettel hiện đang chiếm giữ 95% thị phần
thị trường dịch vụ thông tin di động và cố định.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành
dịch vụ Viễn thông Việt Nam từ năm 2002 (khi pháp lệnh Bưu chính viễn

thông được ban hành cho) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Phép biện chứng duy vật, các quan điểm
chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về phát triển dịch vụ Viễn
thông, đồng thời kế thừa các nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phương pháp: Trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgic với lịch sử, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu so sánh, thống kê kinh tế.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về năng
lực cạnh của ngành dịch vụ viễn thông.
- Phân tích,đánh giá rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dịch
vụ viễn thông Việt Nam trong thời gian từ 2002 đến nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành dịch vụ Viễn thông Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngành
dịch vụ viễn thông.
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ viễn
thông Việt Nam.
Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam.



6
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
 Cạnh tranh:
Có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh kinh tế, dưới đây là một
số quan niệm tiêu biểu.
Theo P.Sammue Son “Cạnh tranh là sự đối đầu của các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Theo M. Poter “Cạnh tranh hiểu theo cấp độ doanh nghiệp là việc đấu
tranh hoặc giành thị phần từ một số đối thủ về khách hàng, thị phần hay
nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bản chất của cuộc cạnh tranh không
phải là tiêu diệt đối thủ mà chính là doanh nghiệp phải tạo ra và mạng lại cho
khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối thủ để họ có
thể lựa chọn mình mà không đến với đối thủ cạnh tranh.”
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Cạnh tranh trong kinh doanh là
hoạt động ganh đua giữa những nguồn sản xuất hàng hóa, giữa các thương
nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi các
quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ,thị trường có lợi
nhất”.
Theo Từ điển Kinh tế kinh doanh Anh - Việt “Cạnh tranh là sự đối địch
giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường để giành được nhiều khách
hàng, do đó nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường là bằng cách bán theo
giá cả thấp nhất hay cung cấp một chất lượng hàng hóa tốt nhất”.
Các quan niệm trên tuy có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi
nhưng tựu chung lại thống nhất ở các quan điểm cho rằng cạnh tranh là cuộc




7
ganh đua giữa các cá nhân hoặc các tổ chức nhằm giành thị phần trên thị
trường, giành lấy khách hàng, giành lấy các điều kiện sản xuất kinh doanh có
lợi nhất với mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự
phát triển của các chủ thể trong cạnh tranh vì vậy là động lực của sự phát triển
nền kinh tế thị trường. Để giành được thắng lợi trong cạnh tranh các chủ thể
cạnh tranh phải có năng lực (khả năng) cạnh tranh và duy trì, nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành.
 Năng lực cạnh tranh
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được các nhà nghiên cứu gọi bằng nhiều
tên khác nhau như khả năng cạnh tranh, sức cạnh tranh.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại:
“Năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một
ngành, thậm chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác, nước
khác đánh bại.”
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của các tổ chức Hợp
tác về phát triển kinh tế (OECD): “ Năng lực cạnh tranh là khả năng của các
doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập
cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”
Theo từ điển tiếng Việt “ Năng lực cạnh tranh là khả năng giành thắng
lợi trong cuộc cạnh tranh của các hàng hóa cùng loại, trên cùng một thị trường
tiêu thụ”
Cho đến nay, khó có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về năng lực cạnh
tranh phù hợp cho mọi trường hợp.Năng lực cạnh tranh thường được xem xét
ở các cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, ngành, quốc gia.
- Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ:
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần của
sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường.Một sản phẩm hay dịch vụ được coi
là có năng lực cạnh tranh cao khi giá cả thấp quy mô cung ứng , tính độc đáo




8
của sản phẩm dịch vụ được người tiêu dùng chấp nhận thể hiện ở thị phần của
sản phẩm, dịch vụ đó trên thị trường vượt trội so với các sản phẩm, dịch vụ
tương tự của các đối thủ cạnh tranh.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của
khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao hơn.Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi
nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh trong nước và nước ngoài.
- Năng lực cạnh tranh của ngành:
Ngành được hiểu là tập hợp các doanh nghiệp sản xuất hoặc cung ứng
cùng một nhóm sản phẩm, dịch vụ.Năng lực cạnh tranh của ngành thể hiện ở
mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng về giá cả, chất lượng, sự đổi
mới của sản phẩm, dịch vụ, tỷ lệ sinh lời trên vốn, đầu tư, tiềm năng tăng
trưởng lợi nhuận.
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành thường được đánh giá theo kết quả
kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành này. Một ngành có năng lực
cạnh tranh có thể được định nghĩa là tập hợp các doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của ngành có thể được suy ra từ phân tích
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chủ yếu trong ngành, bởi lẽ năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thành tố của các năng lực cạnh tranh của
ngành.
- Năng lực cạnh tranh của các quốc gia:
Theo báo cáo mới nhất (2010-2011) về năng lực cạnh tranh toàn cầu của
diễn đàn kinh tế thế giới thì “Năng lực cạnh tranh quốc gia là tập hợp các thể
chế, các chính sách về các nhân tố quyết định mức năng suất của quốc gia. Đến
lượt mình, trình độ năng suất quốc gia quyết định mức thành công (thịnh

vượng) bền vững của nền kinh tế. Nói một cách khác, một nền kinh tế có năng



9
lực cạnh tranh cao hơn có khả năng mang lại mức thu nhập cao hơn cho công
dân của mình. Trình độ năng suất còn quyết định tỷ lệ sinh lời của đầu tư (vật
chất, con người và công nghệ), trong nền kinh tế. Do tỷ lệ sinh lời là động lực
cơ bản của tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nên nền kinh tế có năng lực cạnh
tranh cao hơn là nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong trung hạn và dài hạn.
Cấu thành nên năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm các yếu tố ở tầm
vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực cạnh tranh của các ngành, doanh
nghiệp trong cả nước.
Theo báo cáo này, năng lực cạnh tranh kinh tế của quốc gia được xác
định bởi 12 trụ cột (12 yếu tố cấu thành với hơn 100 chỉ số) cơ bản sau: Các
thể chế, kết cấu hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học,
đào tạo đại học và dạy nghề, tính hiệu quả của thị trường hàng hóa, tính hiệu
quả thị của trường lao động sự phát triển của thị trường tài chính, sự sẵn sàng
về công nghệ, quy mô thị trường, sự phức tạp trong kinh doanh và năng lực
đổi mới.
Năng lực cạnh tranh ở các cấp độ trên có mối quan hệ qua lại mật thiết
với nhau, chế ước và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh
tranh quốc gia cao phải có nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp sản phẩm và dịch
vụ có năng lực cạnh tranh cao, mặt khác để tạo điều kiện cho doanh nghiệp,
sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh, các điều kiện tiền đề kinh doanh
của nền kinh tế phải thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp,đồng thời thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của
sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược lại
năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ phụ thuộc vào năng lực cạnh

tranh quốc gia và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp.




10
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
1.1.2.1. Các tiêu chí thuộc về sản phẩm, dịch vụ:
-Tính năng sản phẩm của sản phẩm hay dịch vụ của ngành có phù
hợp với yêu cầu khách hàng hay không.Sản phẩm có tính năng,công dụng phù
hợp với yêu cầu của khách hàng sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so với sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh.
- Mức chênh lệch về giá mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh, giá
cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của
sản phẩm. Với hai sản phẩm tương tự nhau, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm
nào có giá thấp hơn.
- Mức chênh lệch về chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại
của đối thủ cạnh tranh. Ngày nay chất lượng sản phẩm là yếu tố được quan
tâm hàng đầu. Sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh nếu các tính năng
của sản phẩm đó vượt trội hơn so với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường.
Yếu tố này có thể đánh giá thông qua so sánh hai sản phẩm với nhau về chất
lượng, độ bền, tiện ích trong sử dụng.Tuy nhiên, nhiều sản phẩm phức tạp
khách hàng không thể đánh gía ngay được chất lượng sản phẩm, do đó khách
hàng sẽ đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua uy tín của người sản xuất,
của nước sản xuất.
1.1.2.2. Các tiêu chí thuộc về thị trường:
-Mức doanh thu của sản phẩm trong từng năm:
Năng lực cạnh tranh cũng biểu hiện qua doanh thu của sản phẩm đó
trong từng năm. Nếu sản phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng doanh thu cao

hơn so với đối thủ cạnh tranh chứng tỏ sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao,
chỉ tiêu này thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối
thủ cạnh tranh.



11
- Thị phần của sản phẩm trên thị trường nội địa: Trên thị trường nội địa
tùy theo loại mặt hàng, thị trường và theo quy mô của thị trường có thể xem
xét năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thông qua đó đánh giá
thị phần của sản phẩm đó. Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh
cao trên thị trường khi chúng chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại
được nhập khẩu và bán trên thị trường.Trên thị trường nước ngoài, năng lực
cạnh tranh của một ngành được thể hiện ở thị phần của sản phẩm của ngành
này.Trên thị trường của một quốc gia nào đó,tuy nhiên cũng phải vận dụng
tiêu chí này một cách linh hoạt. Với một số sản phẩm mới ra đời, chưa chiếm
lĩnh được thị trường thì không thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực
cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường vì khi đó phân tích sẽ có sự sai
lệch nhất định.
Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm có thể so sánh theo tính lịch sử, tức
là năm sau tốt hơn năm trước, đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh
tranh cao và ngược lại.
- Hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối cho sản phẩm càng hợp lý
thì thị phần do hàng hóa chiếm lĩnh càng lớn.Hệ thống phân phối được thiết
kế hợp lý so với cách thức phân phối của sản phẩm cạnh tranh khác, cùng với
việc đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sẽ tăng thêm năng lực cạnh tranh của sản
phẩm do đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng.
Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới cơ sở giúp doanh nghiệp
đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa với mọi hình thức bán buôn, bán lẻ vừa

thích hợp phong tục tập quán địa phương, tiện lợi cho người tiêu dùng đồng
thời phù hợp khả năng thanh toán của khách hàng.
1.1.2.3.Các tiêu chí về hiệu quả:
 Năng suất:
+ Năng suất lao động:



12
Có thể tính năng suât lao động theo công thức:
Năng suất lao động = Doanh thu/số lượng lao động
Hệ số này cho thấy doanh thu tính trung bình trên một người lao động
là bao nhiêu.Số lượng lao động ở đây có thể là số lao động trong doanh
nghiệp hoặc tổng số lao động của các doanh nghiệp thuộc một ngành.
+ Năng suất vốn:
Năng suất vốn của một ngành hay một doanh nghiệp được xác định
bằng công thức:
Năng suất vốn = lợi nhuận trước thuế/ giá trị tài sản cố định.
- Khả năng sinh lời:
Các hệ số về khả năng sinh lời của doanh nghiệp hay của một ngành
được tính toán để đánh giá về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hoặc của
ngành.
+ Hệ số lợi nhuận trên tài sản:
Hệ số này được xác định bằng lợi nhuận (trước hoặc sau thuế) chia cho
tổng tài sản của ngành hoặc doanh nghiệp.Đây là hệ số tổng hợp đánh giá
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nó cho biết khả năng sinh lời từ phần nguồn
vốn vay và vốn góp (vốn chủ sở hữu).
- Hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu:
Hệ số này được xác định bằng lợi nhuận (trước hoặc sau thuế chia cho
vốn chủ sở hữu). Hệ số này thể hiện khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và

được những người góp vốn quan tâm.
1.1.3. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong
 Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp muốn thành công trong dài hạn thì phải xây dựng
cho mình một chiến lược thích hợp và thực hiện thành công chiến lược. Nếu



13
không có chiến lược các doanh nghiệp thường dễ bị sa vào các mục tiêu ngắn
hạn có thể đạt được một số kết quả kinh doanh nhất định nhưng dễ bị thất bại
trong tương lai. Đây là một điểm yếu của các doanh nghiệp viễn thông Việt
Nam nói chung. Tầm nhìn và chiến lược là vấn đề hiện đang được các doanh
nghiệp viễn thông quan tâm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải lựa chọn
và theo đuổi chiến lược của mình phụ thuộc vào khả năng nội tại của doanh
nghiệp. Mỗi chiến lược lại có đặc thù riêng, người lãnh đạo doanh nghiệp và
ban quản lý chỉ có thể thành công nếu xác định được chiến lược phù hợp cho
tổ chức của mình và thực hiện thành công chiến lược này. Nếu chiến lược
kinh doanh nói chung và cạnh tranh chiến lược xây dựng chỉ để chiến thắng
các đối thủ cạnh tranh thì chiến lược đó có thể thất bại.Muốn thành công
trong cạnh tranh, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp cần phải có khả
năng biết hợp tác với chính các đối thủ cạnh tranh trực tiếp để đạt được mục
tiêu của mình.
 Nguồn lực: (tài chính, con người)
- Tài chính:
Các doanh nghiệp cần huy động vốn để có thể tài trợ các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp khối tư
nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chi phí vốn (của vốn vay từ ngân hàng, các

tổ chức tín dụng) là vấn đề đặc biệt quan trọng có tác động đến lợi nhuận của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường phải quan tâm để huy động được vốn
với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, khả năng huy động vốn còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như thủ tục vay vốn,mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
Ngoài việc huy động được một lượng vốn đủ cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc đầu tư, điều quan trọng là làm sao sử dụng được nguồn vốn này
hiệu quả để tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị của doanh nghiệp.Việc sử
dụng hiệu quả nguồn vốn cũng liên quan mật thiết đến trình độ quản lý, chiến



14
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định được cơ cấu vốn tối ưu giữa vay
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và vốn chủ sở hữu cũng là một quyết định
quan trọng đối với các doanh nghiệp và người quản lý. Doanh nghiệp có thể
sử dụng đòn bẩy tài chính để làm tăng lợi nhuận và được hưởng lợi từ lá chắn
thuế của trả lãi cho vay. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ tùy thuộc vào đặc thù của
hoạt động sản xuất kinh doanh, ví dụ như các doanh nghiệp viễn thông
thường cần nhiều vốn để đầu tư vào thiết bị công nghệ.
- Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp dù có ý tưởng
kinh doanh hay và có đủ hay dư thừa vốn nhưng không có đội ngũ cán bộ
quản lý, nhân viên giỏi, có trình độ thì khó có thể có lợi thế cạnh tranh bền
vững. Đội ngũ này cũng tạo cho doanh nghiệp năng động và nhạy bén hơn so
với các đối thủ cạnh tranh. Làm thế nào thu hút được nguồn nhân lực chất
lượng cao đang là một thách thức đối với hầu hết các doanh nghiệp viễn
thông. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong
việc có được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu hiện tại và phát triển sản
xuất kinh doanh trong tương lai. Chúng ta hiện đang thừa lao động phổ thông

nhưng lại thiếu lao động có tay nghề cao. Hệ thống giáo duc của chúng ta
hiện chưa khuyến khích học sinh học nghề. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất
khả năng cạnh tranh nếu chỉ dựa vào lực lượng nhân công giá rẻ, có tay nghề
thấp. Về dài hạn, các doanh nghiệp chỉ có thể cạnh tranh dựa vào nhân công
có tay nghề cao được đào tạo bài bản. Nguồn nhân lực hạn chế về trình độ tại
doanh nghiệp sẽ chính là ''cái bẫy” và cũng là rào cản để hấp thụ vốn đầu tư
nước ngoài. Mức học vấn của nguồn nhân lực càng cao thì năng suất lao động
và năng suất vốn cũng sẽ đạt được ở mức cao hơn. Điều này thể hiện rất rõ ở
các nước công nghiệp phát triển.



15
Một vấn đề không kém phần quan trọng so với việc thu hút, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao là cần có chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng
đối với người lao động để có thể giữ được những người giỏi, có trình độ phục
vụ lâu dài toàn tâm, toàn ý với doanh nghiệp.
 Trình độ tổ chức và quản trị:
Trình độ tổ chức và quản trị là một trong những yếu tố quan trọng nhất
quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đây cũng là một khâu yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Cơ cấu tổ
chức cũng đóng vai trò quan trọng chi phối hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp xây dựng cho mình được cơ cấu tổ chức hợp lý mang tính linh
hoạt và khả năng thích ứng cao sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các
doanh nghiệp nước ngoài mà vẫn giữ được những nét đặc trưng truyền thống
về văn hóa của đất nước đây là yếu tố giúp doanh nghiệp thành công hơn
trong hoạt động và có khả năng cạnh tranh cao hơn.
 Công nghệ và kỹ thuật:
Để có được lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp phải đầu tư vào công nghệ
và trang thiết bị, máy móc. Công nghệ hiện đại và thích hợp sẽ giúp hạ giá

thành sản xuất, nâng chất lượng sản phẩm, tăng năng suất từ đó nâng cao
được năng lực cạnh tranh.
Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay được
đánh giá là lạc hậu so các nước trong khu vực khoảng 25-30 năm, công nghệ
lạc hậu sẽ đưa đến hậu quả:
- Chi phí nguyên vật liệu lớn.
- Chi phí năng lượng tăng.
- Sử dụng nhiều lao động hơn trong sản xuất.
Từ đó dẫn đến giá thành của sản phẩm cao hơn.Thậm chí do công nghệ,
dây chuyền lạc hậu, các sản phẩm được tạo ra vừa có ít tính năng hơn mà giá
thành sản xuất lại cao hơn.



16
 Sức mạnh thương hiệu:
Thương hiệu là vũ khí trong cạnh tranh, việc bảo hộ thương hiệu là tài
sản quý của các doanh nghiệp. Thương hiệu giúp cho khách hàng xác định
nguồn gốc, xuất sứ của sản phẩm, giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng, tiết kiệm
chi phí tìm kiếm.
Đối với nhà sản xuất thương hiệu là công cụ nhận diện và khác biệt hóa
sản phẩm, giúp doanh nghiệp khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách
hàng. Đưa ra sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng là nguồn gốc của lợi thế
cạnh tranh và vì vậy là nguồn gốc của lợi nhuận.
 Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp:
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp
gồm nhiều yếu tố, cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho
hoạt động nghiên cứu phát triển, khả năng đổi mới sản phẩm của doanh
nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng

suất và hợp lý hóa sản xuất.
 Khả năng liên doanh,liên kết:
Liên doanh liên kết xuất phát từ mục tiêu trực tiếp để đem lại lợi ích
cho các doanh nghiệp. Việc mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết là một
giải pháp quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp và vì vây, nâng cao năng lực cạnh tranh cạnh tranh của ngành.
1.1.3.2. Các yếu tố bên ngoài.
- Các điều kiện và các yếu tố sản xuất.
Có thể nhóm các yếu tố sản xuất thành một số loại bao gồm: nguồn
nhân lực, nguồn tài sản vật chất, nguồn kiến thức, nguồn vốn và cơ sở hạ
tầng. Các yếu tố cũng được chia thành yếu tố cơ bản như nguồn tài nguyên
thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nhân khẩu học và các yếu tố tiên tiến như hạ



17
tầng thông tin, lao động có kỹ năng, các cơ sở nghiên cứu và bí mật công
nghệ. Trong đó các yếu tố tiên tiến là quan trọng nhất đối với lợi thế cạnh
tranh, khác với các yếu tố cơ bản, các yếu tố tiên tiến là sản phẩm đầu tư của
các cá nhân,các công ty và Chính phủ.Việc Chính phủ đầu tư cho giáo dục
phổ thông và đại học,nâng cao trình độ và kỹ năng của dân và khuyến khích
các nghiên cứu cấp cao tại các trường đại học và các viện nghiên cứu có thể
làm tăng cường các yếu tố này. Mặt khác mặc dù các yếu tố sản xuất tiên tiến
có ý nghĩa quan trọng nhất đối với lợi thế cạnh tranh nhưng yếu tố sản xuất cơ
bản (ít khi là lợi thế lâu dài) phải có đủ số lượng và chất lượng cho phép tạo
ra các yếu tố sản xuất tiên tiến tương ứng.
- Các điều kiện về cầu:
Các điều kiện về cầu thể hiện nhu cầu của thị trường trong nước và
quốc tế đối với các sản phẩm của doanh nghiệp, ngành. Các doanh nghiệp sẽ
đạt được lợi thế cạnh tranh nếu nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng lên và ở

mức đòi hỏi cao. Nhu cầu của thị trường nội địa đóng vai trò tạo ra áp lực cho
các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực tế đã
chỉ rõ ngành công nghiệp sản xuất máy ảnh, máy quay của Nhật Bản phát
triển và có lợi thế cạnh tranh chính nhờ đòi hỏi và sự hiểu biết của người tiêu
dung Nhật. Điều tượng tự cũng xảy ra với ngành sản xuất điện thoại di động
của Phần Lan (Nokia), yêu cầu cao của người tiêu dùng đã giúp họ đầu tư vào
công nghệ này mạnh mẽ sớm hơn so với các nước công nghiệp khác.
- Các ngành phụ trợ và liên quan:
Các ngành phụ trợ là các ngành sản xuất cung cấp những sản phẩm đầu
vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một ngành và các doanh nghiệp
trong ngành.
Các ngành liên quan: Có thể phối hợp, chia sẻ các hoạt động thuộc
chuỗi sản xuất kinh doanh hoặc những ngành có sản phẩm mang tính bổ trợ.



18
Đầu tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến là các ngành phụ trợ và các ngành
liên quan có thể đem lại lợi ích rõ ràng cho một ngành, từ đó giúp ngành này
có vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, vị trí dẫn đầu của ngành công
nghiệp bán dẫn Mỹ đến giữa thập niên 80 là tiền đề cho những thành tựu của
nước Mỹ trong lĩnh vực máy tính cá nhân và một số sản phẩm điện tử cao cấp
khác. Thành công của Thụy Sỹ trong lĩnh vực dược phẩm đã giúp cho ngành
sản xuất thuốc nhuộm phát triển.
Lợi ích quan trọng của ngành phụ trợ thể hiện trong quá trình đổi mới
và cải tiến. Lợi thế cạnh tranh xuất hiện do mối quan hệ gần gũi giữa nhà sản
xuất và các nhà cung cấp hàng phụ trợ. Các nhà cung cấp cũng giúp các công
ty nắm được các phương pháp mới và có cơ hội ứng dụng công nghệ mới.
- Vai trò của chính phủ:
Chính phủ đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong phát

triển kinh tế vì có thể tác động đến nhiều khía cạnh của môi trường kinh
doanh. Các yếu tố sản xuất có thể bị tác động do trợ cấp của Chính phủ, chính
sách về giáo dục. Chính phủ có thể dùng các công cụ như quy định về thị
trường vốn, chính sách thuế và luật chống độc quyền để tác động đến chiến
lược, cấu trúc của doanh nghiệp. Mặt khác, Chính phủ có thể định hình bối
cảnh của các ngành phụ trợ và liên quan theo nhiều cách khác nhau như kiểm
soát phương tiên truyền thông quảng cáo hay quy định áp dụng cho các ngành
dịch vụ hỗ trợ. Chính phủ tạo ra môi trường để thúc đẩy nâng cao năng suất.
Thực chất là chính phủ không trực tiếp tham gia cạnh tranh mà cần tạo ra môi
trường tốt hơn cho cạnh tranh.
Mô hình khối kim cương của M.Porter đã khái quát tất cả các yếu tố cơ
bản tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành hoặc các doanh nghiệp trong
ngành.



19











Hình1. Mô hình khối kim cƣơng của M.Porter.
Theo lập luận của Porter các doanh nghiệp có thể cạnh tranh trong

ngành hoặc các phân đoạn của ngành khi khối kim cương ở tình trạng thuận
lợi. Khối kim cương là một hệ thống có tác động qua lại lẫn nhau giữa các
yếu tố. Tác động của một yếu tố trong khối kim cương lại phụ thuộc vào trạng
thái của các yếu tố khác.
1.2.Khái niệm dịch vụ viễn thông và đặc điểm của ngành dịch vụ
viễn thông.
1.2.1. Khái niệm dich vụ viễn thông:
Theo Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông của Việt Nam (Ban hành năm
2002), dịch vụ viễn thông được định nghĩa là dịch vụ truyền ký hiệu, số hiệu,
chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm
kết cuối của mạng viễn thông. Điểm kết cuối của mạng viễn thông là điểm nối
vật lý thuộc mạng viễn thông theo các tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo việc
đấu nối thiết bị đầu cuối của người sử dụng dịch vụ vào mạng viễn thông.
Chiến lược, cấu trúc và cạnh
tranh trong nước của công ty
Điều kiện yếu tố sản xuất
Điều kiện về cầu
Các ngành phụ trợ
và liên quan
Chính phủ



20
Theo Điều 9 Nghị định số 25/2011/NĐ-CP banh hành ngày 06/4/2011
Quy định chi tiết về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông,
dịch vụ viễn thông gồm: Dịch vụ viễn thông cơ bản là dich vụ giá trị gia tăng.
- Dịch vụ viễn thông cơ bản là dịch vụ truyền thông tin dưới dạng ký
hiệu, tín hiệu, số liệu,chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng viễn thông
hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin được

gửi và nhận qua mạng.
Dịch vụ viễn thông cơ bản gồm: Dịch vụ thoại, dịch vụ FAX, dịch vụ
truyền số liệu, truyền hình ảnh, nhắn tin, dịch vụ hội nghị truyền hình, dịch vụ
kênh thuê riêng và dịch vụ kết nối Internet.
- Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng: Là loại dịch vụ làm tăng thêm giá
trị sử dụng thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loại
hình hoặc nội dung thông tin, hoặc cung cấp khẳ năng lưu trữ,khôi phục thông
tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet.Dịch vụ này bao
gồm, dịch vụ thư điện tử, dịch vụ thư thoại, dịch vụ FAX gia tăng giá trị và
dịch vụ truy nhập Internet.
1.2.2 Đặc điểm của ngành dịch vụ Viễn thông:
Viễn thông là một trong những ngành sản xuất xã hội. Chức năng
của viễn thông là cung cấp cho người tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ
truyền tải thông tin như: Điện tín, điện thoại, chương trình phát thanh,
truyền hình, truyền số liệu, Internet và nhiều loại hình thông tin khác. Vì
vậy, ngành viễn thông mang đầy đủ các đặc điểm và các đặc trưng của
ngành sản xuất thông mang đầy đủ các đặc điểm và các đặc trưng của
ngành sản xuất dịch vụ như sau:
Thứ nhất: Viễn thông được xác định bởi đặc thù của sản phẩm mà sản
phẩm này khác biệt sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp, nó không phải



21
là một hàng hóa có hình thái vật chất cụ thể mà là hình thái cuối cùng của quá
trình truyền tin tức.
Thứ hai: Đặc điểm phi vật chất của sản phẩm dịch vụ viễn thông được
quan niệm là sự vắng mặt của nguyên, nhiên,vật liệu có hình thái vật chất,
điều này thể hiện trong cơ cấu giá thành viễn thông.Trong đó chi phí vật chất
chiếm tỷ lệ không đáng kể, phần chi phí chủ yếu là hao phí lao động sống trả

cho người lao động.
Thứ ba: Sự không tách rời quá trình tiêu dùng và quá trình sản xuất sản
phẩm. Sản phẩm dịch vụ viễn thông nói chung không thể cất giữ ở trong kho
và không dự trữ được.
Thứ tư: Là sự khác biệt với ngành sản xuất công nghiệp nơi mà đối
tượng lao động chịu sự thay đổi vật chất (về mặt vật lý, hóa học) còn trong
sản xuất dịch vụ viễn thông, thông tin là đối tượng lao động chụi tác động rời
chỗ trong không gian.
Thứ năm: Là quá trình đưa tin tức luôn mang tính hai chiều giữa người
gửi và người nhận thông tin. Nhu cầu truyền tin tức có thể phát sinh ở mọi
điểm dân cư, điều đó đòi hỏi phải hình thành một mạng lưới có độ tin cậy
rộng khắp. Như vậy, mạng lưới viễn thông bao gồm các doanh nghiệp nối liền
nhau bởi các đường dây và các kênh thông tin có mối quan hệ với nhau đảm
bảo thông tin hai chiều.Trong điều kiện này, mỗi doanh nghiệp viễn thông
tham gia vào quá trình truyền đưa tin không phải lúc nào cũng là người cung
cấp duy nhất.
Giá trị của sản phẩm dịch vụ viễn thông là những hao phí về lao động
sống và lao động vật hóa làm thay đối đối tượng lao động (tin tức) từ không
gian này đến không gian khác, trong một khoảng thời gian cho phép nào đó,
sản phẩm của một doanh nghiệp thực chất chỉ là một công đoạn của sản phẩm
toàn ngành bởi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ viễn thông là

×