ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HÀ THỊ VÂN
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở TỈNH QUẢNG NINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HÀ THỊ VÂN
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở TỈNH QUẢNG NINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. CAO VĂN THANH
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. GIA ĐÌNH VĂN HÓA VÀ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ
NỮ QUẢNG NINH TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA 8
1.1. Xây dựng gia đình văn hóa là đòi hỏi khách quan của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội 8
1.1.1. Quan niệm về gia đình và gia đình văn hóa 8
1.1.2. Xây dây dựng gia đình văn hoá ở Tỉnh Quảng Ninh 15
1.1.3. Yêu cầu xây dựng gia đình văn hoá trong giai đoạn hiện nay 19
1.2. Vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở Quảng Ninh 26
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở Quảng Ninh 26
1.2.2. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Quảng Ninh và vai trò
của phụ nữ trong việc xây dựng gia đình văn hóa 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở TỈNH QUẢNG NINH
HIỆN NAY 33
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng
gia đình văn hóa ở Quảng Ninh hiện nay 33
2.1.1. Các nhân tố tác động đến vai trò phụ nữ trong gia đình ở Quảng
Ninh hiện nay 33
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay 40
2.2. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của việc phát huy vai trò phụ
nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh trong
những năm vừa qua 59
2.2.1. Những thành tựu, hạn chế của việc phát huy vai trò phụ nữ trong
xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh thời gian qua 59
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và khó khăn, hạn chế 89
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC
PHÁT HUY VAI TRÒ PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HÓA Ở TỈNH QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN TỚI 94
3.1. Phương hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong xây
dựng gia đình văn hóa 94
3.1.1. Nâng cao vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa
gắn với việc phát triển xã hội 94
3.1.2. Nâng cao vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa
gắn với việc giải phóng phụ nữ 95
3.1.3. Nâng cao vai trò của phụ nữ gắn với việc tăng cường vai trò
lãnh đạo của các tổ chức Đảng, quản lý của chính quyền, đoàn
thể trong xây dựng gia đình văn hóa 98
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hóa ở Quảng Ninh từ nay đến 2015 . 100
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, các ngành, các cấp
về vai trò của phụ nữ trong xây dựng giai đình văn hóa 100
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và tham tích cực của Đảng,
chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc phát huy vai trò của
người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hoá 105
3.2.3. Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn
hoá gắn với việc phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho
phụ nữ 107
3.2.4. Nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục ý thức pháp luật cho phụ nữ 113
3.2.5. Nâng cao vai trò của Hội phụ nữ đối với việc xây dựng gia đình
và gia đình văn hóa 118
KẾT LUẬN 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 124
PHỤ LỤC 118
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GĐVH : Gia đình văn hóa
HLHPN : Hội Liên hiệp phụ nữ
UBND : Ủy ban nhân dân
UBDSGĐ - TE : Ủy ban Dân số Gia đình - Trẻ em
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới và hội nhập ở Việt Nam hiện nay đang đứng trước
những khó khăn và thuận lợi, điều đó đã và đang tác động đến xã hội nói
chung cũng như gia đình Việt Nam nói riêng. Trong bước chuyển từ gia đình
truyền thống sang gia đình hiện đại, gia đình không tránh khỏi những biến đổi
từ cấu trúc, chức năng đến hệ thống các giá trị được lưu truyền. Vấn đề đặt ra
là cần phải nghiên cứu và xử lý vấn đề gia đình một cách khoa học, hợp lý,
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gạt bỏ được những nhân tố lạc hậu
để gia đình Việt Nam trở thành nhân tố tích cực cho quá trình phát triển đất
nước, hướng tới xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
vừa thể hiện bản sắc văn hoá của dân tộc, vừa phù hợp với xu hướng tiến bộ
của nhân loại.
Trong gia đình, mỗi một thành viên đều có vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
mình, nhưng trên thực tế, trong gia đình người phụ nữ là trung tâm, là linh
hồn chủ đạo góp phần to lớn trong việc xây dựng gia đình văn hoá, người phụ
nữ có trách nhiệm rất lớn - họ là người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên của
các con, họ là sợi dây nối kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình và
cùng với người chồng làm chủ gia đình, có vai trò to lớn trong việc xây dựng
gia đình no ấm, văn minh, hạnh phúc và từ đó góp phần tạo dựng những thế
hệ tương lai tốt đẹp, truyền nối và phát triển văn hoá gia đình, nâng cao văn
hoá xã hội.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Đảng ta đã đề ra chủ trương
xây dựng gia đình văn hoá, chủ trương đó được triển khai thực hiện trên phạm
vi toàn quốc và được nhiều gia đình hưởng ứng đã và đang mang lại những
thành công bước đầu, vấn đề đó cũng được coi trọng và trở thành một nội
dung quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam, nằm trong
chiến lược phát triển kinh tế Hai hành lang, một vành đai Việt Nam - Trung
Quốc và trong quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tỉnh có vị trí địa lý
2
đặc biệt quan trọng. Quảng Ninh là vùng đất cổ, song lại là vùng đất mới bởi
những bước khai hoang, mở mỏ và gần như thời đại nào cũng có người từ
nhiều miền hội tụ để phát triển kinh tế. Trải suốt nhiều thế kỷ, từng cộng đồng
dân cư lại có nhiều nét riêng: vùng nông thôn lâu đời, vùng mới khai hoang
và vùng kinh tế mới, vùng đảo với dân chài sống lênh đênh trên thuyền, làng
mỏ, làng lâm nghiệp, làng địa chất và có cả làng bộ đội.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, Đảng bộ chính
quyền và nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quan tâm đến vấn đề xây dựng đời
sống văn hoá cho các gia đình và từng bước nâng cao vị trí, vai trò của người
phụ nữ trong gia đình. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá đã được triển
khai và thu được những thành tựu ban đầu. Những thành công đó có sự đóng
góp không nhỏ của phụ nữ Quảng Ninh. Các mẹ, các chị đang từng ngày,
từng giờ khẳng định vai trò, vị trí của mình không chỉ trong công việc xã hội
mà còn cả trong gia đình, vận động các gia đình khác cùng nhau xây dựng tổ
ấm hạnh phúc, hướng tới xây dựng gia đình văn hoá đóng góp vào sự thành
công chung của sự nghiệp đổi mới của tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, tron thời
gian qua ở Quảng Ninh, cùng với những thành tựu về kinh tế, đời sống nhân
dân được cải thiện nhưng cũng chính điều đó cũng đã làm nảy sinh nhiều hiện
tượng mới trong xã hội. Những hiện tượng mới này đang tác động tiêu cực
đến đời sống của các gia đình và vai trò của phụ nữ. Trong những năm gần
đây, các tệ nạn xã hội ngày càng có nguy cơ gia tăng và trở thành vấn đề hết
sức gay gắt cho xã hội như. Các tệ nạn xã hội có thể kể ra như cờ bạc, rượu
chè, nghiện hút, trộm cắp, mại dâm, ma túy đang là vấn đề nhức nhối của xã
hội nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Những tệ nạn này không chỉ tàn
phá các quan hệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn tiếp tục tàn phá
mạnh mẽ đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần của các gia đình. Cũng trong cơ
chế thị trường, đồng tiền, quyền lợi vật chất chi phối mạnh mẽ đến cách nghĩ,
lối sống, tác phong đạo đức của một bộ phận không nhỏ dân cư trong xã hội,
chà đạp lên đạo lý thông thường trong quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình, giữa họ hàng thân tộc; vợ chồng bất hoà, con cái hư hỏng, người già bị
coi thường, nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị mai một. Tệ nạn xã hội là
một trong những nguyên nhân nảy sinh từ phía gia đình đang tăng lên, gây
3
hậu quả nặng nề đối với đời sống tư tưởng, tình cảm của phụ nữ Quảng Ninh.
Trong giai đoạn mới cần cải thiện một số yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ Quảng Ninh cống hiến sức lực của mình cho sự khởi sắc của quê
hương trong xây dựng gia đình văn hóa đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Phát
huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Quảng
Ninh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp chương trình thạc sĩ Triết học
chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Gia đình và vai trò của người phụ nữ là vấn đề mà từ lâu đã được nhiều
nhà tư tưởng và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin quan tâm và
nghiên cứu.
Ở Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước
thời kỳ đổi mới đất nước, vấn đề gia đình nói chung và phụ nữ Việt Nam nói
riêng cũng được Đảng, Hồ Chí Minh và Nhà nước ta rất quan tâm, nghiên cứu
và đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
cùng với sự tác động của nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện và động lực
cho công tác nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ. Nhìn chung các hoạt
động nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ Việt Nam trong thời gian
qua đã và đang đi theo chiều hướng tích cực và đã thu được nhiều thành tích
đáng ghi nhận. Nhiều đề tài và công trình khoa học nghiên cứu về gia đình và
người phụ nữ trong những năm gần đây đã được triển khai. Nhiều trung tâm
nghiên cứu về gia đình và phụ nữ được thành lập ở các trường đại học, ở các
đô thị và thành phố lớn. Các hoạt động nghiên cứu về gia đình và phụ nữ
được triển khai, các hội thảo khoa học có giá trị về gia đình và phụ nữ liên
tiếp được tổ chức, các chủ đề nghiên cứu về phụ nữ và gia đình được công bố.
Có thể khái quát các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài
thành các nhóm sau đây:
Một là, nhóm tài liệu của các nhà xuất bản:
Đỗ Thị Bình (và các tác giả) “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” Nxb Khoa học Xã hội,
4
Hà Nội 2002; Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa
xã hội nông thôn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Lê Thi (2002), Gia đình
Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội;
Dương Thoa (1983), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ;
Trung tâm nghiên cứu phụ nữ - gia đình (1995), Gia đình và địa vị người phụ
nữ trong xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Kế hoạch hành động quốc gia
vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 (1997), Nxb Phụ nữ
Hai là, nhóm tài liệu thuộc về luận văn, luận án:
Đặng Thị Linh (1997), Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện
nay. Thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện nghiên cứu Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội. “Kinh tế hộ gia đình
trong bước chuyển sang cơ chế thị trường ở nông thôn nước ta hiện nay”
(Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Ngừng), “Thực trạng gia đình Việt Nam và
vai trò của người phụ nữ trong gia đình”; Đề tài “Văn hoá gia đình với sự
hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay” (luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và Lịch sử văn hoá của Võ Thị Hồng Loan); Đề
tài “Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay-thực trạng và giải
pháp” (luận án tiến sĩ của Đặng Thị Linh); Đề tài “Bình đẳng giới trong gia
đình Việt Nam hiện nay” (luận án tiến sĩ của Chu Thị Thoa); Đề tài “Gia đình
Việt Nam và vai trò của người phụ nữ hiện nay” (luận án tiến sỹ Triết học
Dương Thị Minh); Đề tài “Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng
gia đình văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” (luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê
Cẩm Lệ)
Ba là, nhóm đề tài khoa học và tài liệu tham khảo:
“Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển của nhân cách
con người Việt Nam” (do GS Lê Thi làm chủ nhiệm); Đề tài “Vai trò của
người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay - những vấn đề đặt ra và giải pháp”
(TS. Nguyễn Thị Ngọc Dung); “Văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn
hoá mới” (Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay số 6/3/1999); “Phát triển kinh
tế gia đình các tỉnh miền núi phía Bắc” (Nguyễn Đức Trình, Phân viện Hà
5
Nội); Nguyễn Thị Ngọc Dung (2002), Báo cáo tổng quan đề tài “Vai trò của
người phụ nữ trong gia đình hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp”,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Chỉ thị của Ban Bí thư về xây
dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2005),
Tài liệu Hội nghị chuyên đề xã hội liên quan đến phụ nữ và trẻ em, trang 145.
Nhìn chung, các tác giả và các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến
vai trò của gia đình, gia đình văn hóa và phụ nữ. Trong đó, vai trò phụ nữ trong
giáo dục gia đình, trong thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình cũng đã
được đề cập, đã đưa ra và luận giải được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan
trọng làm sáng tỏ ở mức độ nhất định vai trò của phụ nữ trong các hoạt động
kinh tế, sản xuất, hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học Đồng thời cũng đưa
ra được những phương hướng và giải pháp để xây dựng gia đình văn hoá và
giải phóng phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trên góc độ của những vấn đề
nghiên cứu riêng. Mặc dù các công trình và các đề tài trên tuy đã đề cập đến gia
đình và phụ nữ ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa có một đề
tài công trình khoa học nào nghiên cứu về việc phát huy vai trò của người phụ
nữ trong xây dựng gia đình văn hoá nói chung, đặc biệt là vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hoá ở Quảng Ninh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về gia đình, về vai trò của phụ nữ trong việc xây
dựng gia đình văn hóa và thực tiễn vai trò của phụ nữ tỉnh Quảng Ninh thời
gian qua, luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát
huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hoá của tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của người phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Khảo sát, phân tích và làm rõ thực trạng phát huy vai trò của người
phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
6
- Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh
Quảng Ninh trong hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của người phụ nữ và việc
phát huy vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng gia đình văn hoá hiện
nay ở Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu gia đình văn hoá ở Quảng Ninh, vai trò
của phụ nữ Quảng Ninh trong việc xây dựng gia đình văn hoá từ 1986 đến
nay, trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò phụ nữ Quảng Ninh trong
xây dựng gia đình văn hoá và đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát
huy vai trò của phụ nữ Quảng Ninh trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên hệ thống những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin và quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về gia đình và gia
đình văn hoá, về vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng gia đình văn hoá.
- Luận văn kế thừa một số công trình nghiên cứu, các bài viết và tư liệu
có liên quan trong nước và ở tỉnh Quảng Ninh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp như: phân tích - tổng hợp, quy nạp
- diễn dịch, lịch sử - lôgic, so sánh, thống kê, điều tra, khảo sát thực tế, phỏng
vấn
6. Ý nghĩa lý luận - thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận để địa
phương tham khảo trong việc hoạch định các chính sách có liên quan đến xây
dựng gia đình văn hoá và chính sách phụ nữ ở tỉnh Quảng Ninh…
7
- Luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và
giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học và văn hoá gia đình
trong các trường chính trị của tỉnh và các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1: Gia đình văn hóa và việc phát huy vai trò của phụ nữ Quảng
Ninh trong xây dựng gia đình văn hóa.
Chương 2: Thực trạng việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng
gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy
vai trò phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh trong thời
gian tới.
8
Chƣơng 1
GIA ĐÌNH VĂN HÓA VÀ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
QUẢNG NINH TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
1.1. Xây dựng gia đình văn hóa là đòi hỏi khách quan của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Quan niệm về gia đình và gia đình văn hóa
1.1.1.1. Quan niệm về gia đình
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu một
cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn
của tình cảm, là cái nôi của sự yên bình, là cái nôi vô cùng cần thiết cho cuộc
sống của con người và cho xã hội. Con người bắt đầu từ gia đình, văn hóa bắt
đầu từ gia đình mang dấu ấn của văn hóa gia đình. Gia đình như một nhóm xã
hội được cấu trúc theo theo những chuẩn mực văn hóa nhất định, như một tập
hợp những mối quan hệ giữa các cá nhân (vợ chồng, bố mẹ, con cái và anh
chị em…) theo cách nhìn đó, gia đình là một thành quả văn hóa của con
người, trên nữa là một thành tố văn hóa con người.
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch
sử của loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới
loài động vật và tự tổ chức cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập,
thì cũng là lúc con người tự tổ chức cuộc sống theo các mô hình cộng đồng
nhỏ-hình thức sơ khai của gia đình. Lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các thành
viên có quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng các
con, cháu (gia đình mẫu hệ). Sau đó gia đình được mở rộng bao gồm thêm các
thành viên khác, có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng
huyết thống. Ngày nay, quan niệm của một số người về gia đình không chỉ
đóng khung trong những mối liên quan về huyết thống, về dòng họ, anh em
bố mẹ, cha mẹ nuôi v.v. mà gia đình là một phạm vi rộng lớn hơn trên cơ sở
những người có tình yêu thương, tương trợ lẫn nhau và cùng chung một số
phận.
Về quy mô gia đình, lúc đầu số lượng các thành viên gia đình tương đối
đông có khi lên tới hàng trăm người. Về sau, do yêu cầu thích ứng với cuộc
9
sống ngày càng phát triển của xã hội loài người nên số lượng các thành viên
gia đình giảm dần. Gia đình hiện đại ngày nay, số thành viên có khi chỉ có từ
một đến ba` người. Cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về gia
đình, đồng thời các quan điểm cơ bản về gia đình dường như cũng chưa có sự
thống nhất, thậm chí có sự tái ngược nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống
chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng qua hệ
hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Quan
niệm này chỉ mới dừng lại ở một quan niệm phổ quát nhất về các loại gia đình
trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình mới đang
phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay [tr.381].
Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu
“một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở
đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn”. Do đó, một
xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận.
Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên quan tâm đến nhau, chăm lo
cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận, thương yêu nhau,
cùng nhau chăm lo, nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn
giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm tấm
gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái cũng phải luôn hiếu kính với
ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông
bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải
tủi hổ với hàng xóm, láng giềng. Một gia đình hòa thuận còn là một gia đình
mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau, biết em ngã thì chị nâng. Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi
người trong gia đình phải biết giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ
con người mới trở thành con người xã hội.
Theo tác giả Levy Strauss: gia đình là một nhóm xã hội học được quy
định bởi ba đặc điểm: hôn nhân; qua hệ hôn nhân; các ràng buộc và trách
nhiệm giữa các thành viên.
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng cùng sống chung và có ngân sách chung [tr.90, 91].
10
Ở phương Tây, những năm gần đây xuất hiện nhiều dạng gia đình biến
thái khiến cho định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn: các tác
giả Jame W.Vander Zanden-cho biết: “Một cuộc thăm thăm dò mới đây cho
thấy 45% người Mỹ ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng
chung sống với nhau thì được coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi
cùng giới tính có nuôi nấng con cái là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng
giới tính chung sống với nhau là một gia đình”. Đây có thể coi là một sự mở
rộng thái quá trong quan niệm về gia đình mà người Việt Nam khó chấp nhận.
Ở Việt Nam, những năm gần đây có nhiều tác giả và các công trình
nghiên cứu bàn nhiều về gia đình nhất là gia đình hiện đại. Theo tác giả Lê
Thi: Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội được hình
thành trên cơ sở hôn nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và
cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại), gia đình có
thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ
huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và
quyền lợi (kinh tế), văn hóa, tình cảm), giữa họ có những ràng buộc về pháp
lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân và
gia đình ở nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về
quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành
viên [41, tr.42].
Luật Hôn nhân và Gia đình ở nước ta (2000, Điều 8) cũng khẳng định:
“Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”.
Về mặt Triết học, cần phải hiểu gia đình cả về phương diện tự nhiên và
phương diện xã hội có liên quan đến các sinh hoạt có tính cộng đồng của con
người. C.Mác từng nói “ hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở-đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [t3, tr.41].
Còn theo Ph.Ăngghen, sự xuất hiện, hình thành và phát triển gia đình là
do yêu cầu của con người sáng tạo ra những hạt nhân người, duy trì giống nòi,
làm giàu sức lao động của xã hội, cụ thể là do cái ăn, mặc, ở và nhu cầu tái
sản sinh để duy trì giống nòi. Như vậy, yếu tố chính trong gia đình là con
11
người. Con người cùng với sự hợp tác tự nhiên, đơn giản đầu tiên nhằm duy
trì cuộc sống của chính họ đã tạo ra gia đình
Như vậy, các tư tưởng trên đây của C.Mác và Ph.Ăghen về gia đình
được hình thành dựa trên hai tiêu chí: một là, do nhu cầu tái sản sinh ra bản
thân mình mà con người cần có gia đình-tồn tại với tư cách là những cam kết
về mặt hôn nhân giữa bố và mẹ (mặt xã hội của gia đình); hai là, kết quả hôn
phối giữa bố và mẹ đã tạo ra các thành viên có cùng huyết tộc có khả năng
sống chung với nhau dưới một mái nhà một cách tự nhiên (mặt tự nhiên của
gia đình). Gia đình dù ở thời đại nào cũng là một nhóm xã hội được hình
thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao hay quan hệ tình
cảm ) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con
cái, ông bà, họ hàng nội ngoại).
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Đặc biệt
trong vài năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu
được cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở châu Á nói riêng, người ta
nói nhiều đến gia đình, văn hóa gia đình như một giải pháp để ngăn trở sự
xâm lăng của văn hóa phương Tây. Và không chỉ có thế, các quốc gia châu Á
trong đó có Việt Nam đang trải nghiệm trong một cuộc chuyển mình vĩ đại;
thực hiện công nghiệp hóa - đô thị hóa với quy mô và tốc độ ngày càng gia
tăng. Đồng thời với quá trình này ở Việt Nam là sự chuyển đổi sang cơ chế thị
trường. Cố nhiên, những chuyển biến kinh tế - xã hội mạnh mẽ đó không thể
tác động sâu sắc đến gia đình, một thiết chế lâu đời và bền vững song cũng
hết sức nhạy cảm với mọi sự biến đổi của xã hội.
Dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về gia đình, gia đình
văn hoá và tình hình chung của hôn nhân và gia đình có thể nói và căn cứ vào
tình hình chung của hôn nhân và gia đình hiện nay chúng tôi cho rằng: gia
đình là một cộng đồng người đặc biệt được hình thành, phát triển và củng cố
hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân và quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng được xã hội thừa
nhận. Các thành viên trong gia đình luôn thương yêu quý trọng và có trách
nhiệm lẫn nhau, có quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm về tài sản cũng như
12
người thân mà hoàn thành tốt việc nuôi dưỡng, xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
1.1.1.2. Gia đình văn hóa và các tiêu chí của gia đình văn hóa
* Về gia đình văn hóa.
Gia đình văn hóa là khái niệm do Ban Chỉ đạo nếp sống mới Trung
ương đặt ra như là một mục tiêu để phấn đấu xây dựng gia đình nước ta.
Gia đình văn hóa là một danh hiệu để phong tặng cho những gia đình
đạt được hoặc thực hiện tốt các tiêu chuẩn do mô hình ấy đặt ra. Danh hiệu
này chỉ phẩm chất của gia đình, nói lên nếp sống có văn hóa trong gia đình.
Gia đình văn hóa được coi là một kiểu gia đình mới khác với gia đình truyền
thống, hoặc gia đình cũ trong xã hội phong kiến, bởi gia đình, ngoài các yếu
tố truyền thống tích cực đã được chọn lọc còn các yếu tố của thời đại mới, đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển.
Gia đình văn hóa là một khái niệm động. Từ khi ra đời đến nay đã có
nhiều thay đổi, từ tên gọi “Gia đình văn hóa” là tên gọi chính thức hiện nay
nhưng trước đây nó được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: gia đình mới, gia
đình có nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hóa
mới. Để có gia đình văn hóa đứng với yêu cầu, đòi hỏi phải thực hiện một
cách nghiêm túc cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phải thực sự tôn
trọng các giá trị văn hóa của gia đình, phải khai thác cho được những giá trị
văn hóa mà đặc biệt là các giá trị đạo đức của gia đình truyền thống, kết hợp
với việc bổ sung các giá trị văn hóa mới, góp phần làm cho văn hóa gia đình
vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gia đình văn hóa
là sự kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung cũng như
các giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam nói riêng, từ đó được
bổ sung các giá trị văn hóa hiện đại cho phù hợp với điều kiện của gia đình
trong xã hội mới - gia đình hiện đại mang bản sắc Việt Nam.
* Các tiêu chí của gia đình văn hóa.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương quan trọng về
xây dựng gia đình mới - gia đình văn hoá từ rất sớm. Sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân tham gia
13
xây dựng đời sống mới trong một quốc gia độc lập. Trong cuốn “Đời sống
mới trong một quốc gia độc lập mới”, Người coi xây dựng gia đình là một nội
dung quan trọng của công tác xây dựng đời sống mới. Phong trào xây dựng
gia đình mới đánh dấu mốc phát triển bắt đầu từ năm 1960 từ 6 gia đình ở
thôn Ngọc Tỉnh xã Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên đã tình
nguyện đi đầu xây dựng gia đình văn hoá với ba nội dung:
- Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trọng tâm là tham gia xây dựng hợp tác xã, không buôn bán bên ngoài.
- Xây dựng tinh thần đoàn kết thôn xóm, giúp nhau trong lao động sản xuất.
- Gia đình vệ sinh ngăn nắp, gọn gàng và chi tiêu tiết kiệm.
Ba nội dung trên trở thành ba tiêu chuẩn của phong trào xây dựng gia
đình ở thôn, xã, huyện, toàn tỉnh rồi sau đó lan sang các vùng lân cận.
Trên cơ sở đó khi cả nước thống nhất, Bộ Văn hoá phối hợp với Trung
ương Hội LHPN Việt Nam ra Thông tư liên bộ số 35/TT (12/5/1975) về việc
đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình mới, đưa ra tiêu chuẩn gia đình
văn hoá:
- Gia đình hoà thuận, bình đẳng, dân chủ, hạnh phúc, tiến bộ.
- Thực hiện sản xuất tốt, sinh đẻ có kế hoạch, thực hiện tiết kiệm.
- Thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ.
Năm 1986, phong trào “xây dựng gia đình mới” được gọi là phong trào
“xây dựng gia đình văn hoá”. Sau khi Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ tư (khoá VII) họp và ra Nghị quyết về “một số nhiệm vụ văn
hoá, văn nghệ những năm trước mắt”, Ban chỉ đạo nếp sống văn hoá Trung
ương đã sửa đổi nội dung và tiêu chuẩn gia đình văn hoá với 4 nội dung:
- Xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ.
- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
- Đoàn kết xóm giềng.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
Quan tâm đến gia đình và xây dựng gia đình văn hoá được Đảng và
Nhà nước ta cụ thể hoá qua các kì đại hội. Đại hội VI (1986), đại hội đặt nền
móng cho đường lối đổi mới của Đảng đã khẳng định: Gia đình là tế bào của
14
xã hội, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh
tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra
phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia
đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây
dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ
có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá
của gia đình.
Trên tinh thần đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), VIII
(1996), IX (2001), X (2006) đều nhấn mạnh tới sự cần thiết phải xây dựng gia
đình văn hoá, góp phần thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và tại Đại hội XI của Đảng, vấn đề vai trò của gia đình và xây dựng
gia đình văn hóa trong thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm
sâu sắc hơn.
Trước những biến đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội, cấu trúc và chức
năng của gia đình Việt Nam đã có một số thay đổi tích cực phù hợp với những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mới. Đại hội X Đảng ta khẳng định rõ: Xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi
người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành
nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng, gia đình phát triển bền vững
không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi nhà mà còn là nhân tố quan
trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn
định dân số của mỗi quốc gia. Từ những tiêu chí quan trọng của gia đình văn
hóa Việt Nam được đề xuất tại Đại hội VIII của Đảng và được cụ thể hóa
thành Chiến lược xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam, đến Đại hội XI, Đảng
ta đã có sự phát triển nhận thức mới về gia đình, đó là: No ấm, tiến bộ, hạnh
phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình phát triển lành mạnh.
Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc” thì phải xây
dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến gia đình, khẳng định vai trò to lớn của gia đình-nhân tố quan trọng góp
15
phần tạo nên thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước sự phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới, tiêu chí gia đình văn
hoá có sự thay đổi, yếu tố “bền vững” của gia đình đã được bổ sung trong luật
hôn nhân gia đình mới. Do vậy, tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá của Việt
Nam không chỉ no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc mà còn “vững bền”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
đang tạo nhiều cơ hội và điều kiện cho gia đình phát triển, nhưng mặt trái của
cơ chế thị trường đang tác động mạnh đến các giá trị của gia đình. Trước thực
trạng đó, ngày 21-02-2005 Ban Bí thư đã có Chỉ thị số 49-CT/TW “về xây
dựng gia đình thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, với mục tiêu
chủ yếu của công tác xây dựng gia đình là “ổn định, củng cố và xây dựng gia
đình theo tiêu chí ít con (mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con”, no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của
mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Từ đây, tiêu chí gia đình văn
hoá đã mang nội dung toàn diện hơn “ít con”, nhằm xây dựng gia đình Việt
Nam trong thời kì mới “ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, vững
bền”, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đến nay, 4 nội dung của tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá trở thành
cơ sở để các địa phương vận dụng một cách sáng tạo vào địa bàn mình, bổ
sung thêm một số tiêu chuẩn hoặc chi tiết hoá các tiêu chuẩn bằng nội dung
cụ thể để các gia đình dễ hiểu, dễ thực hiện. Trong thời gian qua, phong trào
xây dựng gia đình văn hoá được kết hợp với phong trào xây dựng làng, bản,
khu phố văn hoá và trở thành trung tâm cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá” trên phạm vi toàn quốc.
Trải qua các thời kỳ khác nhau, các tiêu chí, tiêu chuẩn xây dựng gia
đình văn hóa cũng có sự thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Mới đây, ngày 10 tháng 10 năm 2011, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã ban
hành Thông tư 12/2011/TT-BVHTTVDL, trong đó có quy định chi tiết về
tiêu chuẩn công nhận gia đình văn hoá như sau:
- Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào của địa phương;
16
- Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người
trong cộng đồng;
- Tổ chức lao động sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng
suất, chất lượng, hiệu quả
Qua 26 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức
sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã
hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi xây dựng
gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Với tinh thần,
nhận thức và biện pháp đó, chúng ta hy vọng trong thời gian tới vị trí, vai trò
của gia đình ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng
“khỏe mạnh” hơn để giữ vững nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững.
1.1.2. Xây dây dựng gia đình văn hoá ở Tỉnh Quảng Ninh
Xây dựng “Gia đình văn hóa” là nội dung quan trọng của Phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", được các cấp từ tỉnh đến cơ sở
quan tâm chỉ đạo thực hiện. Ban chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố đã làm tốt
công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung, tiêu chuẩn đạt chuẩn xây dựng gia
đình văn hoá, từng tổ dân, khu phố đã được tổ chức, quán triệt, đưa gương
người tốt, việc tốt vào tiêu chí bình xét khen thưởng cho mỗi gia đình, đồng
thời tổ chức việc bình xét công khai, dân chủ, đúng qui trình trong việc công nhận
gia đình văn hoá hàng năm. Trong những năm qua, phong trào đã được sự hưởng
ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trên
địa bàn, khơi dậy niềm tin, sự thi đua sáng tạo trong từng cộng đồng dân cư,
trong mỗi bản, làng, trong từng tổ dân, khối phố, phát huy vai trò tự quản, ý
thức chủ động, tích cực của cộng đồng. Đặc biệt là ý thức tự giác, tinh thần
tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau làm giàu chính đáng. Công tác trợ giúp
các gia đình khó khăn, công tác xoá đói giảm nghèo đã được các cấp chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức xã hội quan tâm, tạo điều
kiện giúp đỡ.
17
Thực hiện Nghị quyết Trung ương V khoá VIII và hội nghị lần thứ X
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về “Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Triển khai kế hoạch
thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” do
Chính phủ phát động, phát huy truyền thống văn hoá của quê hương, cùng
hoà chung với phong trào xây dựng gia đình văn hoá trong cả nước. Những
năm qua, phong trào xây dựng gia đình văn hoá của tỉnh Quảng Ninh đạt
được kết quả đáng phấn khởi, việc triển khai phong trào xây dựng Gia đình
văn hoá được cấp uỷ, chính quyền địa phương, các sở, ban, ngành, đoàn thể
trong tỉnh tích cực triển khai, nhân dân các dân tộc nhiệt tình hưởng ứng thực
hiện. Phong trào đã khai thác, phát huy được các giá trị văn hoá truyền
thống, đạo lý dân tộc, tạo thành động lực thu hút các gia đình thuộc nhiều
thành phần tham gia phong trào, từ các gia đình công nhân, nông dân, tri
thức, tiểu thương, lực lượng vũ trang, các thành phần tôn giáo… đều đăng ký
tham gia xây dựng gia đình văn hoá.
Kết quả số hộ gia đình văn hoá hàng năm được bình xét của tỉnh ngày
càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong phong trào đã xuất hiện nhiều
gia đình tiêu biểu xuất sắc, nhiều tấm gương “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền”, “anh em thuận hoà”, mang đậm nét truyền thống của gia đình
Việt Nam. Các thành viên trong gia đình không chỉ sống có trách nhiệm với
nhau mà còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện kế hoạch hoá
gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, tương thân, tương ái giúp đỡ nhau lúc gặp
khó khăn, xây dựng tình đoàn kết gắn bó, nghĩa tình làng xóm, quê hương.
Tính đến cuối năm 2011 toàn tỉnh có 233.886 gia đình được công nhận là gia
đình văn hoá, đạt 83%; (tăng 5,8% so với năm 2010), số gia đình công nhân,
viên chức, lao động đăng ký gia đình văn hóa là 87.312 gia đình (tăng 11.064
gia đình so với năm 2010).
Ban chỉ đạo các cấp đã tổ chức tốt hội nghị biểu dương, tôn vinh “Gia
đình văn hoá” tiêu biểu các cấp, đưa các tấm gương người tốt, việc tốt tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân rộng điển hình. Tỉnh
đã tổ chức thành công Hội nghị biểu dương Gia đình tiêu biểu trên các lĩnh vực,
trong đó biểu dương 27 gia đình văn hóa được UBND tỉnh khen thưởng, 62
18
GĐVH được Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch khen thưởng; 34 GĐVH được
Hội LHPN tỉnh khen thưởng. Tuyên truyền, cấp phát gần 200 bộ tài liệu (bao
gồm Luật bình đẳng giới, tờ rơi về phong trào thi đua, sách Hỏi đáp về Luật
bình đẳng giới, sách Gia đình tuổi trung niên ) cho 14/14 huyện, thị xã, thành
phố trong tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động đến các địa bàn dân
cư.
Các gia đình văn hoá tiêu biểu xuất sắc là những tấm gương sáng về
phát triển kinh tế gia đình, là nhân tố điển hình trong phong trào xây dựng đời
sống văn hoá cơ sở, góp phần quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng dân cư
ổn định về chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, từng bước hình thành
đời sống văn hoá cơ sở lành mạnh, phong phú. Kết quả của phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong thời gian qua ở tỉnh Quảng
Ninh là những kết quả bước đầu đạt được, có bước chuyển động tích cực, làm
thay đổi về nhận thức trong toàn xã hội về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở,
góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, của phong trào xây dựng đời sống văn hoá nói chung và
xây dựng gia đình văn hóa nói riêng. Đồng thời, cũng đã góp phần tích cực
vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, làm cho bộ mặt văn hóa ở nông thôn
nhiều đổi mới. Phong trào được nhân dân các dân tộc đồng tình hưởng ứng
thực hiện, khơi dậy và phát huy được tính tích cực, sáng tạo nguồn lực của
nhân dân, tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân, góp được nhiều tiền của, nhân
lực để xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết chế văn hoá, tạo ra sự thay đổi bộ mặt
văn hoá mới ở các cộng đồng dân cư, nhất là khu vực nông thôn. Phong trào
có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thực
hiện, phát huy dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhân dân chủ
động, tích cực đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội; thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, góp phần xây dựng tỉnh Quảng Ninh
giàu đẹp, bảo tồn phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc.
1.1.3. Yêu cầu xây dựng gia đình văn hoá trong giai đoạn hiện nay
1.1.3.1. Quan điểm của Đảng về vai trò của gia đình Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
19
Trải qua các thời kỳ lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều chủ trương,
chính sách để phát triển “các tế bào” của xã hội sao cho thật mạnh khỏe, bền
vững để tạo đà cho đất nước phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước đang đứng trước nhiều vận hội cũng như thách thức, tác động mạnh mẽ
tới vị trí, vai trò của gia đình theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Bên
cạnh những thành công, tiến bộ, các “tế bào” của xã hội cũng đang chịu nhiều
rủi ro, mất mát. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, vai trò của gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới
được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm sâu sắc hơn.
Thứ nhất: Gia đình là nền tảng, tế bào của xã hội
Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội được chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh khẳng định khi bàn về vai trò của gia đình đối với sự phát
triển của xã hội.
Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển, Đảng ta nhận thức sâu sắc về
vai trò của gia đình đối với xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: Xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội. Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh
thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế
bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái
tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát
triển được. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu,
nhưng nhiều giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam cũng đang mất đi. Tình
trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng
thụ có xu hướng tăng lên… Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có
nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.
Chính vì vậy, trên cơ sở những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa
Việt Nam đã được Đảng đề xuất từ Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định Chiến lược xây dựng gia đình văn hóa Việt
Nam, tại Đại hội XI, Đảng ta phát triển mới về nhận thức và xác định: No ấm,
tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình phát
20
triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc”
thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Thứ hai, Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: Gia đình là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách góp phần chăm lo
xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa
tình, có tinh thần quốc tế chân chính.
Đảng ta nhận thức rõ rằng, con người Việt Nam chỉ có thể được trang
bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó
trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách
nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi
dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích.
Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy
chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.
Đây là điểm mới trong tư duy Đại hội XI của Đảng ta về vai trò của gia
đình đối với phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Gia
đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã
hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến những người lao động trí
óc… đều được sinh ra, được nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: gia đình không chỉ giữ vai trò
nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo
dục nếp sống, hình thành nhân cách. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng
tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình
không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình phải
trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách
cho con người. Theo quan điểm của Đảng, gia đình no ấm, bố mẹ thuận hòa,
hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế hệ
sau có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần đắc lực vào chiến
lược phát triển nguồn lực con người có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước hiện nay.