ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THUỲ LINH
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu
- 2010
MỤC LỤC
Trang
ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ
THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
1.1
Khái niệm tài sản phá sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý
tài sản phá sản
6
1.2.
Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
1
15
20
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI
SẢN PHÁ SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
2.1
Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
21
2.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản tại
Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
2
48
72
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ
THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
3.1
Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý và
thanh lý tài sản phá sản
74
3.2.
Những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý
tài sản phá sản
3
76
90
91
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
LPS Luật phá sản
BLDS
TAND Toà án nhân dân
TSPS Tài sản phá sản
DN Doanh nghiệp, hợp tác xã
TQLTLTS Tổ quản lý, thanh lý tài sản
QLTLTS Quản lý, thanh lý tài sản
1
L ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong nền ki , pháp luật
về phá sản có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế và là bộ
phận không thể thiếu. Từ những năm đầu tiên của tiến trình đổi mới,
những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã xây dựng Luật phá sản doanh
nghiệp (1993), nhưng vì còn thiếu kiến thức về nền kinh tế thị trường, điều
kiện tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài về thủ tục phá sản
còn hạn chế nên nhiều quy định của Luật này còn bất cập, không phù hợp
với thực t . Nhận thức được vấn đề này, Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận
định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm
(2001- 2005) là: “Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật
phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, nhất là các luật: Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp…”
Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng,
hoàn thiện pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước cũng như những yêu cầu cụ thể của
thực tiễn, ngày 26/5/2004, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá 11 đã thông qua
Luật phá sản (LPS) và Luật này có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 [2]. LPS
2004 đã tiến bộ hơn với nhiều quy định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào quá trình Toà án giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản, đã làm cho việc giải quyết phá sản được thực hiện nhanh chóng hơn,
đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy vậy, sau một thời gian áp dụng đã nảy sinh không ít những khó
khăn, vướng mắc cần phải hoàn thiện, nhất là vấn đề liên quan đến quản lý,
thanh lý tài sản.
2
đây
,
. Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản
phá sản qua thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà
Nội có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình khoa học nghiên
cứu về pháp luật phá sản, luật phá sản ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ:
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Toà án nhân dân tối cao: “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của luật phá sản về thủ tục
phá sản” do Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng- Phó Viện trưởng Viện khoa học xét
xử Toà án nhân dân tối cao làm chủ nhiệm đề tài; Đề tài khoa học cấp Bộ
năm 2004 của Bộ Kế hoạch và đầu tư: “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam” do
Thạc sĩ Nguyễn Kim Anh- chuyên viên Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ nhiệm đề tài; Luận án
tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải đã bảo vệ năm 2004 tại Trường
Đại học Luật Hà Nội: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ
luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác
giả Đinh Thị Thanh Nga đã bảo vệ năm 2007 tại khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội: lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản”.
Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan
như: Hội thảo chuyên đề Luật phá sản- thực tiễn, vướng mắc, kiến nghị của
Toà Kinh tế- TAND Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006, Hội thảo đánh giá
3
việc thực hiện Bộ luật tố tụng và Luật phá sản của TAND tối cao năm
2007…
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến việc đổi mới và hoàn
thiện pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó đề
cập đến việc nghiên cứu thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật hiện
hành, đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt Nam và một số nước trên thế giới,
thực trạng thi hành luật phá sản, giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng luật
phá sản. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở khoa học để
tác giả kế thừa và phát triển trong đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu: luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về
quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề
xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quản lý và
thanh lý tài sản phá sản, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ,
người lao động và doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, sự cần thiết
của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện
hành về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án
nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý và
thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam, góp phần tăng tính khả thi của pháp luật
phá sản.
4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
4
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản
lý và thanh lý tài sản phá sản, làm rõ thực trạng của pháp luật Việt Nam về
quản lý và thanh lý tài sản phá sản, thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng những
quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp
lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phương pháp
phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so sánh luật
để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Thời gian gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu pháp
luật phá sản ở nhiều khía cạnh khác nhau, chủ yếu tập trung nghiên cứu về
trình tự, thủ tục giải quyết phá sản; vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; giải pháp tăng cường hiệu quả
áp dụng luật phá sản…Luận văn: “Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản
phá sản qua thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố
Hà Nội” nghiên cứu cụ thể về quản lý và thanh lý tài sản phá sản từ thực tiễn
giải quyết phá sản tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội-
cả nước. Từ những phân tích, đánh giá pháp luật về
quản lý và thanh lý tài sản phá sản, tác giả sẽ đưa ra những giải pháp góp
phần hoàn thiện các quy định về quản lý và thanh lý tài sản phá sản nói riêng
và hoàn thiện LPS nói chung.
5
7. Cấu trúc của luận văn
Nội dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá
1.1 Khái niệm tài sản phá sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản
phá sản
1.2 Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
Chương 2: Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp
dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản tại Toà
án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3:Hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
3.1 Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý
tài sản phá sản
3.2 Những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản
phá sản.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
1.1 Khái niệm tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản phá sản
1.1.1 Khái niệm tài sản phá sản
a. Khái niệm tài sản
Tài sản theo Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam (sau đây gọi là
BLDS) bao gồm “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
So với thuật ngữ “vật có thực” theo quy định của BLDS 1995 thì “vật” ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm vật đang có và vật sẽ được hình
thành trong tương lai. Sự thay đổi trong quy định như vậy là phù hợp với nhu
cầu về giao dịch dân sự trong nền kinh tế thị trường. Không phải chỉ những vật
đang hiện hữu mà những vật đang được hình thành như: máy móc đang lắp ráp,
nhà đang xây, thuyền đang đóng…cũng được coi là tài sản và có thể là đối
tượng của giao dịch.
“Tài sản” ở đây còn bao gồm “tiền”; Tiền trong kinh tế học được hiểu là
thứ đại diện cho giá trị của hàng hoá và dịch vụ, là phương tiện lưu thông trong
giao dịch dân sự. Như vậy, tiền giữ vai trò rất quan trọng và được coi là tài sản
đặc biệt, nó có chức năng là phương tiện thanh toán, phương tiện tính toán và là
phương tiện tích luỹ. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm ổn
định giá trị của đồng tiền và có các quy định chặt chẽ trong việc phát hành tiền
và hạn chế quyền định đoạt tiền của chủ sở hữu.
Ngoài ra, “tài sản” còn bao gồm “giấy tờ có giá”, tuy nhiên chỉ những
giấy tờ có giá là đối tượng của giao dịch dân sự và trong thời hạn lưu thông mới
7
trở thành tài sản. Các loại giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu,
thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu…, chúng đều có một mệnh giá nhất
định. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giấy tờ có giá là phương tiện thanh
toán tiện lợi, hiệu quả và khá an toàn nên ngày càng được sử dụng rộng rãi.
, “quyền tài sản” cũng là một nội dung của “tài sản”. Theo
Điều 182 BLDS năm 2005, quyền tài sản “là quyền trị giá được bằng tiền và có
thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Có thể thấy rằng nội dung “tài sản” theo pháp luật Việt Nam hiện hành
khá rộng, bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội.
Nhưng các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm “tài sản” trong BLDS 2005 cũng
như nhiều khái niệm trong các văn bản quy phạm pháp luật khác còn thể hiện
dưới dạng liệt kê nên khi có sự thay đổi nhất định trong đời sống kinh tế- xã hội
thì nó trở nên thiếu sót. Vì vậy, khi đưa ra các khái niệm nói riêng và xây dựng
luật nói chung, nhà làm luật cần có quy định theo hướng mở để phù hợp với xu
thế phát triển hiện nay.
b. Khái niệm tài sản phá sản.
Pháp luật các nước khác nhau có quan niệm không giống nhau về tài sản
phá sản (TSPS). Luật phá sản Đức xác định TSPS dựa trên loại hình tài sản được
phân loại là động sản hay bất động sản, tài sản vô hình hay hữu hình [52]; Luật
phá sản của Mỹ coi TSPS hiện có của doanh nghiệp phản ánh trên sổ sách kế
toán tại thời điểm mở thủ tục phá sản, tài sản thu hồi được tự việc xiết nợ [63].
Luật Phá sản Nhật Bản chỉ coi TSPS của doanh nghiệp nằm trong lãnh thổ quốc
gia, không tính đến tài sản của doanh nghiệp ở nước ngoài [60];
Nga thì coi cả tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản nằm
trong khối TSPS [61].
Nhìn chung, toàn bộ sản nghiệp của doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây
8
gọi chung là DN) sau khi có quyết định thụ lý vụ phá sản của toà án hợp
thành một khối, gọi là TSPS. Pháp luật phá sản Việt Nam không đưa ra khái
niệm TSPS mà chỉ có quy định về tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản.
Điều 19 Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định: “Tài sản của doanh
nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc
thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước), trong
đó gồm :
1. Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có ở doanh
nghiệp;
2. Tiền hoặc tài sản góp vốn, liên doanh, liên kết với cá nhân, doanh nghiệp
hoặc tổ chức khác;
3. Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức doanh nghiệp khác
đang nợ hoặc chiếm đoạt;
4. Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc cho mượn;
5. Các quyền về tài sản.
Tài sản của doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp
tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.”
LPS 2004, theo Điều 49: “1. Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản bao gồm:
- Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh
nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
9
- Tài sản là vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo
đảm nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán
thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định
theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào tình trạng
phá sản bao gồm tài sản quy định tại khoản 1 Điều này và tài sản của chủ
doanh nghiệp tư nhân, thành ng vào hoạt động
kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài
sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành
viên hợp danh đó được chia theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định
có liên quan.”
Như vậy, so với quy định của LPS doanh nghiệp 1993, LPS đã quy định
thời điểm xác định tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản sớm hơn và quy
định phạm vi rộng hơn, rõ ràng hơn về tài sản đó. Tài sản của DN được xác định
tại thời điểm “toà án thụ lý đơn” chứ không phải là thời điểm toà án ra quyết
định mở thủ tục giải quyết phá sản. , khối TSPS sẽ được
bảo đảm hơn khi lâm vào tình trạng phá sản có DN cố
tiêu dùng thật nhiều nếu không cũng bị thu hồi
; một số khác thì có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản.
Theo LPS, lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh
nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng được coi là nằm trong khối
TSPS. Như vậy, dù là tài sản đó hình thành trong tương lai nhưng giao dịch để
tạo cho DN có được tài sản đó xác lập trước khi toà án thụ lý đơn nên cũng cần
10
đưa vào khối TSPS nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của DN.
Bên cạnh đó, có thể thấy luật đưa ra phạm vi TSPS rất rộng: trường hợp
thanh toán tài sản là vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của DN cho các chủ nợ có
đảm bảo mà vật bảo đảm có giá trị vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh
toán thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngoài ra,
quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã cũng nằm trong khối TSPS và
được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai.
Nhìn một cách khái quát, nhà làm luật Việt Nam dường như đồng nhất
khái niệm tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản với khái niệm TSPS. Tuy
vậy, có thể nhận thấy phạm vi TSPS rộng hơn khái niệm tài sản của DN lâm vào
tình trạng phá sản. Nếu Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ đề cập đến tài sản
có trong khối TSPS thì theo LPS, TSPS bao gồm tài sản có và tài sản nợ của DN
lâm vào tình trạng phá sản. Trong tài sản có của doanh nghiệp, ngoài tài sản của
DN lâm vào tình trạng phá sản, còn có các tài sản khác, như: tài sản hình thành
trong giai đoạn thanh lý tài sản, tài sản thu hồi được từ những giao dịch vô hiệu
mà DN thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, tài sản có được trong quá
trình DN phục hồi hoạt động kinh doanh. Bằng cách đưa ra các quy định để DN
có thể bằng nhiều cách thức làm tăng khối TSPS, LPS đã phần nào thực hiện
được mục tiêu của mình.
Có thể hiểu: TSPS là toàn bộ tài sản có và tài sản nợ của DN tính từ thời
điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho đến khi giải quyết
xong vụ việc phá sản.
Trong quá trình giải quyết phá sản, việc xác định đúng, đầy đủ các tài sản
của DN có ý nghĩa rất quan trọng. Theo quy định 1 49 LPS, tài
sản của DN có bốn nhóm chính và phạm vi khối
TSPS khá rộng. Tuy nhiên, với các quy định mang tính liệt kê như vậy sẽ rất
11
dễ bỏ qua một số tài sản mà lẽ ra có thể thu hồi và thanh lý để thanh toán
nghĩa vụ cho chủ nợ. Chẳng hạn, ng i Điều 49
LPS thì tài sản thu được từ các giao dịch vô hiệu hoặc thu được từ các giao
dịch không công bằng của con nợ, tài sản và quyền tài sản mà con nợ có được
sau ngày mở thủ tục phá sản cũng nên coi là tài sản có thể thu hồi để thực
hiện nghĩa vụ của DN. , việc thực hiện thu hồi loại tài sản trên
thực tế sẽ rất khó khăn vì luật quy định.
Bên cạnh đó, LPS khi đưa ra quy định về phạm vi khối TSPS cũng
không đưa ra danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối TSPS. Trong
khi đó, nếu xét ở khía cạnh nhân đạo và thông lệ chung của quốc tế thì trường
hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty
hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ khi giải quyết phá
sản đối với đối tượng này. Theo pháp luật một số nước, tài sản loại trừ là đồ
dùng sinh hoạt thiết yếu, các khoản đền bù thất nghiệp, chăm sóc y tế, trợ cấp
đối với việc nuôi con…
Ngoài ra, có thể thấy rằng LPS cũng không đề cập đến tài sản của DN
lâm vào tình trạng phá sản nằm ở nước ngoài. Tuy nhiên, nếu luật quy định
thì sẽ phải kèm theo đó là quy chế giám sát, quản lý, thu hồi…, mà việc đó thì
không dễ dàng, mà không tính đến phần tài sản đó (nếu có), thì lại là thiếu sót
đáng kể trong các quy định pháp luật về phá sản, vì đôi khi tài sản đó rất lớn.
1.1.2 Mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản phá sản
Khi nền kinh tế sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ n những thời cơ, nền kinh tế
thị trường đồng thời đã tạo ra những thách thức mới, buộc các nhà kinh doanh
phải có những kiến thức về kinh doanh cũng như pháp luật để trụ vững trong bối
cảnh kinh tế đầy cạnh tranh khốc liệt. Bước vào con đường kinh doanh, không
12
một nhà kinh doanh nào muốn doanh nghiệp cũng như sản nghiệp của mình bị
gặp khó khăn, thua lỗ. Nhưng theo quy luật của cạnh tranh, có thành công thì
cũng có thể thất bại, bên cạnh hàng loạt doanh nghiệp mới thành lập thì
cũng sẽ có những doanh nghiệp rút lui khỏi nền kinh tế thị trường
.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh có thể vì lý do nào đó mà DN
không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu và lâm vào
tình trạng phá sản, nếu không phục hồi được hoạt động kinh doanh thì sẽ bị
tuyên bố phá sản. Khi đó sản nghiệp của họ sẽ bị thu hồi để thanh toán các nghĩa
vụ tài sản cho các chủ nợ, người lao động, nhà nước…Trong tình trạng như vậy,
DN có thể có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ
trả nợ. Nếu để DN tiếp tục quản lý khối tài sản của họ mà không có sự kiểm tra,
giám sát của một cơ quan, tổ chức hay một nhóm người nào đó thì khối tài sản
đó khó có thể được bảo toàn và hậu quả tất yếu sẽ làm các chủ nợ thiệt hại về tài
sản. Vì vậy, việc thành lập một thiết chế để đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ
và quy định cho nó một địa vị pháp lý là rất cần thiết [55]. Quản lý tài sản của
DN lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà Luật phá
sản các nước đều phải đề cập tới với mục đích cơ bản là làm cho khối tài sản của
con nợ được sử dụng một cách hợp lý, đúng pháp luật. Người quản lý tài sản,
trong một số trường hợp có thể thay thế cả người quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh của con nợ.
Luật phá sản Estonia trao hầu hết các quyết định quan trọng cho chủ nợ và
người quản lý tài sản độc lập, giảm thiểu vai trò của các cơ quan chức trách nhà
nước. Luật này quy định rằng hầu hết các vụ phá sản sẽ dẫn tới thanh lý, không
những vậy luật còn quy định một chương về vấn đề thoả hiệp đơn giản nhưng
công bằng làm giải pháp thay thế. Bộ luật cho phép một cách rõ ràng người quản
13
lý tài sản thu hồi các khoản tiền cho chủ nợ ngay trước khi phá sản và thúc đẩy
nhanh việc thanh toán sớm cho chủ nợ là những người thân cận của bên mắc nợ
(chẳng hạn như các cán bộ hoặc họ hàng) [73]. Pháp luật phá sản Thuỵ Điển,
sau khi xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán, có quyết định mở thủ tục
phá sản thì Toà án sẽ bổ nhiệm quản tài viên. Quản tài viên có thẩm quyền rất
rộng trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, nhưng không có quyền can
thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý điều
hành hoạt động của doanh nghiệp vẫn thuộc ban lãnh đạo doanh nghiệp [50].
Theo Luật phá sản doanh nghiệp 1993, việc
(QLTLTS) của DN lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện bởi hai Tổ khác
nhau: Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản. Theo pháp luật Việt Nam hiện
hành, việc QLTLTS được giao cho một nhóm người, gọi là Tổ quản lý và thanh
lý tài sản (TQLTLTS). Tổ này được thành lập theo quyết định của Toà án, hoạt
động dưới sự kiểm tra của Thẩm phán và chịu trách nhiệm trước Thẩm phán.
Quản lý tài sản là hoạt động kê biên toàn bộ tài sản hiện có của DN
lâm vào tình trạng phá sản; giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của DN;
thực hiện các biện pháp bảo toàn, thu hồi tài sản của DN, HTX để tài sản đó
không bị cất giấu, tẩu tán nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của DN,
HTX.
Thanh lý tài sản là việc xử lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản, thu hồi tài sản còn lại của nó để thanh toán cho các chủ nợ theo một
thứ tự ưu tiên nhất định.
Vậy khối tài sản của DN có sau khi trừ đi phần tài sản nợ còn lại sẽ
được xử lý để trả cho các chủ nợ. TQLTLTS tiến hành bán đấu giá tài sản, gửi
các khoản tiền thu được từ DN gửi vào tài khoản tại ngân hàng, tiến hành
phương án phân chia tài sản, thi hành các quyết định khác của Thẩm phán
14
trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Thẩm phán, việc
phân chia giá trị tài sản DN theo thứ tự nhất định: Phí phá sản; Các khoản nợ
lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội… cho người lao động; Các khoản
nợ không có đảm bảo phải trả cho các chủ nợ t
: nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ
đều được thanh toán đủ số nợ của mình, nếu giá trị tài sản không đủ để thanh
toán thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần theo tỷ lệ tương ứng, nếu sau
khi thanh toán đủ cho các chủ nợ mà vẫn còn thừa thì phần đó thuộc về xã
viên hợp tác xã, chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của công ty, các cổ
đông của công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Khi Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản thì theo quy định của pháp
luật các chủ thể trên sẽ tham gia vào quá trình đòi nợ tập thể. Các chủ nợ sẽ
gửi giấy đòi nợ, TQLTLTS lập danh sách chủ nợ và việc thanh lý tài sản dựa
trên danh sách này. Khi Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với
DN thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được
coi là đã đến hạn và được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không
được tính lãi thời gian chưa đến hạn; các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản
thế chấp hoặc cầm cố được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó, nếu giá trị tài
sản đảm bảo ít hơn khoản nợ thì phần còn lại sẽ được thanh toán trong quá
trình thanh lý tài sản, nếu tài sản đảm bảo lớn hơn khoản nợ thì phần còn lại
sẽ được nhập vào tài sản của DN để thanh toán các nghĩa vụ khác.
Có thể thấy rằng Thẩm phán đóng vai trò rất lớn trong việc tiến hành
thủ tục phá sản nói chung và quản lý, thanh lý tài sản nói riêng, cùng với
Thẩm phán là nhiệm vụ quan trọng của TQLTLTS và cả sự tham gia của con
nợ. Do vậy, nếu thành phần của TQLTLTS là những người có kiến thức
15
chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực phá sản thì sự phối hợp với các
chủ thể khác mới hiệu quả. Pháp luật phá sản Việt Nam về thành phần của Tổ
này vẫn chưa phù hợp nên thực tiễn vẫn còn những khó
khă .
Mặc dù quản lý và thanh lý tài sản có những điểm khác biệt nhất
định về đối tượng và phương thức thực hiện nhưng đều do một chủ thể tiến
hành với những quyền và nghĩa vụ nhất định được pháp luật quy định, mục
đích của QLTLTS là nhằm bảo vệ quyền về tài sản cho các chủ nợ, quyền và
lợi ích hợp pháp của người lao động, bảo vệ lợi ích của DN lâm vào tình
trạng phá sản và góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo trật tự, kỷ cương
xã hội.
Khi việc quản lý tài sản được thực hiện tốt, tài sản của DN lâm vào tình
trạng phá sản được bảo toàn, không bị cất giấu, tẩu tán thì hoạt động thanh lý
tài sản sẽ được thực hiện đúng pháp luật, giải quyết một cách ổn thoả quyền
lợi của các chủ nợ. Nếu hai hoạt động này được phối hợp một cách thống nhất
và đồng bộ thì khi thực hiện sẽ đạt được hiệu quả cao, góp phần thực hiện
mục tiêu của Luật phá sản.
1.2 Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
QLTLTS
.
,
16
QLTLTS .
.
TQLTLTS
.
, QLTLTS
. QLTLTS
.
, QLTLTS .
Bên cạnh việc đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ , pháp luật
về phá sản cũng bảo vệ cho lợi ích của chính . Kể từ khi Toà án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, mọi hoạt động kinh doanh của DN vẫn tiến
hành bình thường, có sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán. khi có quyết
17
định mở thủ tục phá sản, các chủ nợ không được tự mình đòi nợ DN, DN
không được tự mình thanh toán các khoản nợ mà việc
. Nếu sau khi thanh lý tài sản và trả cho
các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên mà tài sản của DN đã hết thì khoản chưa được
thanh toán hay chưa được thanh toán đầy đủ cũng xem như đã được thanh
toán hết và chủ nợ cũng không có quyền đòi nợ DN nữa (trừ trường hợp DN
đó là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh).
Hơn nữa, ngay cả khi Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
thì DN cũng vẫn có thể có cơ hội khôi phục lại hoạt động kinh doanh của
mình, thoát khỏi tình trạng phá sản, thanh toán được các khoản nợ và tiếp tục
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo PGS-TS Dương Đăng Huệ: Pháp luật phá sản chưa quy định cơ chế
để các con nợ tự tiến hành phục hồi khi lâm vào tình trạng khó khăn về tài
chính. Theo quy định hiện nay thì chỉ khi nào con nợ lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán và được Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản thì mới có
quyền được áp dụng cơ chế phục hồi. Như vậy, thủ tục phục hồi chỉ có thể được
tiến hành trong quá trình toà án tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Quy định này buộc các con nợ phải tiến hành thủ tục phục hồi dưới sự kiểm soát
của toà án, do đó chưa thực sự khuyến khích các DN nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Để bảo đảm tính chủ động hơn cho các con nợ thì cần có một cơ
chế cho phép con nợ khi thấy mình lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính thì
có thể chủ động nộp đơn đến Toà án để được áp dụng các biện pháp bảo vệ đặc
biệt; và con nợ tự tiến hành thủ tục phục hồi sau khi đã thoả thuận với các chủ
nợ mà không cần sự giám sát của toà án [56].
, QLTLTS
.
18
DN trên thương . ,
n
.
N kinh doanh
, .
đã phân tích ở trên, QLTLTS của DN
lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà pháp luật
phá sản của các nước đều đề cập đến. Mục đích của quản lý tài sản là nhằm
tránh việc tẩu tán, thất thoát tài sản, bảo đảm quyền lợi của các chủ nợ khi
DN bị tuyên bố phá sản. Thủ tục thanh lý tài sản liên quan đến ba hoạt động
chủ yếu là thu hồi tài sản, bán đấu giá tài sản và thanh toán cho các chủ nợ.
QLTLTS
.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội của các nước khác nhau mà các
quy định về cơ cấu tổ chức cũng như vai trò, vị trí, chức năng, thẩm quyền
của chủ thể QLTLTS là khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nước đều quy định thành
phần của chủ thể này bao gồm: Luật sư, chuyên gia pháp lý hành nghề tự do,
thương gia hoặc chuyên gia kiểm toán có kinh nghiệm trong lĩnh vực phá sản.
LPS Nhật Bản, Nga, Úc quy định người quản lý tài sản là một
( ), và trên thực tế hoạt động
QLTLTS rất có hiệu quả.
Ví dụ, theo kinh nghiệm của Nhật Bản, chỉ có một người quản lý do
19
Toà án chỉ định thực hiện nhiệm vụ , trong trường hợp người quản lý tài
sản này cần có thêm người khác giúp đỡ thì người đó có thể chỉ định người
đồng quản lý tài sản. Toà án có thể chỉ định nhiều người quản lý tài sản trong
một vụ phá sản lớn. Sở dĩ có quy định như vậy là do người Nhật tư duy rằng
trong những vụ phá sản, việc định đoạt tài sản một cách nhanh chóng là điều
rất quan trọng, sẽ là rất khó cho việc đưa ra quyết định nhanh chóng khi thành
lập một TQLTLTS gồm nhiều người [41]. LPS Nhật Bản quy định quyền hạn
và trách nhiệm của người quản lý tài sản được bắt đầu từ khi được chỉ định
cho đến khi hoàn thành việc thanh toán tài sản cho các chủ nợ. Người quản lý
tài sản là người chịu trách nhiệm chính thực hiện thủ tục phá sản doanh
nghiệp và phải chịu trách nhiệm uỷ thác đối với tài sản. Người quản lý tài sản
là những người không phải là quan chức nhà nước, chịu sự giám sát và có thể
bị thay đổi bởi Toà án, người quản lý tài sản còn phải chịu sự giám sát của
Hội nghị chủ nợ và Hội nghị chủ nợ được quyền ra quyết nghị yêu cầu chấm
dứt hoạt động của người quản lý tài sản [60].
Ở Việt Nam, trước đây Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định có
hai Tổ là Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản, đây là những chủ thể quan
trọng tham gia vào quá trình giải quyết phá sản. LPS 2004 quy định thành
một Tổ vừa làm nhiệm vụ quản lý tài sản, vừa làm nhiệm vụ thanh lý tài sản.
Sự thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức và cả thành phần của
TQLTLTS đã làm cho hoạt động của Tổ này đạt hiệu quả cao hơn, nhưng
thực tiễn vẫn còn những hạn chế nhất định.
Việc thành lập một thiết chế quản lý và thanh lý tài sản của DN lâm
vào tình trạng phá sản, bảo toàn tài sản của DN và giúp DN thực hiện nghĩa
vụ trả nợ cho các chủ nợ là rất cần thiết. Khi đã lâm vào tình trạng phá sản, vì
nhiều lý do khác nhau mà DN có thể tiêu dùng tài sản của mình một cách
20
thoải mái, hay cất giấu, tẩu tán chúng, nên cần có người đứng ra giám sát,
kiểm tra, bảo toàn tài sản đó và dùng tài sản còn lại của DN thanh toán nghĩa
vụ về tài sản một cách hợp lý, đúng pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho
chủ nợ. Có thể thấy rằng, QLTLTS của DN lâm vào tình trạng phá sản là vấn
đề mà LPS của các nước đều quan tâm giải quyết. Tuy nhiên quy định về cơ
cấu tổ chức, thành phần, vị trí, vai trò, thẩm quyền của chủ thể này thế nào để
hoạt động của nó đạt được hiệu quả như mong muốn là vấn đề cần quan
tâm của các nhà làm luật.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
cho phép rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Một là, Luận văn phân tích và đưa ra căn cứ xác định khối TSPS dựa
trên khái niệm tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản. TSPS bao gồm tài
sản có và tài sản nợ của DN lâm vào tình trạng phá sản tính từ thời điểm toà án
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho đến khi giải quyết xong vụ việc
phá sản.
Hai là, QLTLTS là giai đoạn rất quan trọng và có ý nghĩa trong quá
trình giải quyết phá sản, tạo điều kiện cho quá trình giải quyết phá sản đạt
được mục tiêu nhất định. Quản lý và thanh lý tài sản có sự khác nhau
nhất định và cũng có mối quan hệ tác động qua lại nhau nhằm mục đích bảo
vệ quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan đến phá sản.
Ba là, Luật phá sản đang được hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn nên việc nghiên cứu pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn.
21
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản
2.1.1 Về cơ cấu, thành phần của TQLTLTS
QLTLTS của DN lâm vào tình trạng phá sản là vấn đề quan trọng mà
LPS các nước đều quan tâm. Mục đích của quản lý và thanh lý TSPS là thu
hồi tài sản; bảo quản khối tài sản có và tài sản nợ của DN, tránh bị thất thoát,
tẩu tán; bán đấu giá tài sản và thanh toán nợ cho các chủ nợ.
Pháp luật các nước khác nhau có quy định khác nhau về cơ cấu tổ chức,
vai trò, vị trí, chức năng, thẩm quyền của chủ thể quản lý, thanh lý TSPS. Về
chủ thể QLTLTS, phần lớn các nước đều quy định họ là các Luật sư, chuyên
gia pháp lý hành nghề tự do, thương gia hay chuyên gia kiểm toán có kinh
nghiệm trong lĩnh vực phá sản. Một số nước như: Úc, Nga, Nhật Bản quy
định chỉ có một nhân viên thực hiện chức năng quản lý tài sản của DN, và
thực tế hoạt động này rất hiệu quả.
Nhật Bản, Toà án chỉ định một người thực hiện nhiệm vụ quản lý
tài sản (gọi là Quản trị viên), người này có quyền chủ động trong việc duy trì,
quản lý, định đoạt TSPS theo luật định. Trong trường hợp người này cần
thêm người khác giúp đỡ thì họ có thể chỉ định người đồng quản lý tài sản,
đối với vụ phá sản lớn, Toà án có thể chỉ định nhiều người quản lý tài sản
[60].
Ở Thuỵ Điển, pháp luật quy định: sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản, Toà án sẽ bổ nhiệm Quản tài viên để quản lý tài sản của DN lâm vào tình
22
trạng phá sản. Quản tài viên không có quyền can thiệp vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của DN, nhưng có vai trò rất rộng trong việc bảo vệ quyền
lợi của các chủ nợ [50].
Luật mất khả năng thanh toán của Cộng hoà liên bang Nga cũng quy
định người quản lý TSPS là Quản tài viên do Toà án bổ nhiệm. Quản tài viên
có quyền nghiên cứu, phân tích tình tình tài chính của con nợ và xác định việc
con nợ có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hay không. DN
lâm vào tình trạng phá sản sau khi Toà án có quyết định mở thủ tục phá sản
vẫn có quyền quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng việc
ký kết và thực hiện các hợp đồng liên quan đến việc chuyển dịch quyền sở
hữu đối với bất động sản và các tài sản có giá trị lớn phải thông qua quyết
định của Quản tài viên [61].
Luật phá sản Hoa Kỳ quy định quyền quản lý TSPS thuộc về Tín thác
viên. Tín thác viên là người được uỷ thác quản lý tài sản, thay mặt chủ sở hữu
thực hiện các quyền năng đối với tài sản, được tham gia vào các quan hệ pháp
luật một cách độc lập và có thể trở thành nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ
quan trọng tài hay Toà án [63].
Pháp luật phá sản Đức quy định Toà án sẽ bổ nhiệm Người quản lý tài
sản cùng với việc ra quyết định thụ lý. Người quản lý tài sản là đại diện cho
nhà nước trong việc giám sát hoạt động quản lý và phân chia tài sản của con
nợ, và cũng là đại diện cho lợi ích của chủ nợ [52].
Ở Việt Nam, trước đây Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định có hai
Tổ là Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản, đây là những chủ thể quan
trọng tham gia vào quá trình giải quyết phá sản. Thành phần của hai Tổ này
bao gồm ít nhất là bảy người từ những cơ quan, đơn vị khác nhau (gồm các
cán bộ tư pháp, tài chính, ngân hàng, thi hành án, chủ nợ, đại diện doanh