Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án nhân dân thực trạng và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

NGUYỄN VĂN ĐÍNH

Hà Nội, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

NGUYỄN VĂN ĐÍNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ NGÀNH: 60380107


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Đính


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới
TS Nguyễn Hiền Phương người đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình
nghiên cứu Luận văn này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy, cô giáo
trong suốt khoá học cao học và nghiên cứu tại trường. Các thầy cô đã đem lại
cho em những kiến thức bổ trợ vô cùng quý giá. Em cũng xin cảm ơn Ban
Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau Đại học Viện Đại học mở Hà Nội… đã
tạo điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình học tập và hoàn thành Luận văn
này.
Cuối cũng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên khuyến khích và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện

đề tài nghiên cứu của mình.


MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .................................................. 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án ... 6
1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án
1.1.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án..................... 12
1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án .................... 16
1.4. Giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án ở một số quốc gia.
20
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................. 26
2.1. Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động ...... 26
2.1.1. Thẩm quyền theo vụ việc..................................................................... 26
2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án theo các cấp................................................... 29
2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ ................................................. 31
2.2. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm ......................... 34
2.2.1. Khởi kiện, thụ lý vụ án lao động .......................................................... 35
2.2.2. Chuẩn bị xét xử ................................................................................... 35
2.2.3. Phiên tòa sơ thẩm ............................................................................... 42
2.3. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp phúc thẩm .................... 47
2.4. Giải quyết vụ án lao động theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm.......... 53
Chương 3: THỰC TIỄN, THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN ......................................................................................... 61


3.1. Nhận xét chung về thực trạng giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án . 61
3.1.1. Tình hình thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.................. 61
3.1.2. Nhận xét chung ................................................................................... 65
3.1.3. Nguyên nhân giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án còn một số tồn
tại .................................................................................................................. 68
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án ......................................................................................................... 76
3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án ...................................................................................................... 76
3.2.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết án tranh
chấp lao động ................................................................................................ 78
3.2.3. Một số kiến nghị về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
giải quyết án tranh chấp lao động .................................................................. 82
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 89


DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng 3.1: Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo thủ tục sơ
thẩm từ năm 2009 - 2013 ....................................................................................... 63
Bảng 3.2: Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo thủ tục phúc
thẩm từ năm 2009 - 2013 ....................................................................................... 63
Bảng 3.3: Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 2009 - 2013 ......................................................... 64
Bảng 3.4: Tổng hợp kết quả xét xử các vụ án lao động tại Tòa án từ năm 2009 2013 ...................................................................................................................... 64
Hình 3.1: Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân khi xác định thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp lao động .................................. Error! Bookmark not defined.



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế thị trường sức lao động là hàng hóa đặc biệt quan trọng, đặc
biệt vị thế yếu thường thuộc về phía người lao động, để ngăn ngừa tình trạng lạm
dụng quá đáng từ phía người sử dụng lao động, Luật lao động đã có những quy định
để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích
của người sử dụng lao động. Một trong các quy định đó là các chế định về việc giải
quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án.
Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung cơ bản của pháp luật
lao động, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
tình hình thực tiễn. Năm 2012 Bộ luật lao động được sửa đổi, bổ sung và thay thế
cho Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung qua các năm 2002, 2006) và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 5 năm 2013. Năm 2004 Bộ luật tố tụng dân sự
được Quốc hội thông qua đã thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao
động đã đưa ra một diện mạo mới đối với thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động. Năm 2010 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung. Như vậy với sự phát
triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao động việc giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án đã có nhiều thay đổi.
Bên cạnh đó tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
trong thời gian gần đây cho thấy Tòa án là một trong những cơ quan có thẩm quyền
trong việc giải quyết tranh chấp lao động tuy các tranh chấp lao động xảy ra trong
thực tế là nhiều, nhưng số vụ việc đưa đến Tòa án thì rất hạn chế. Tình trạng này
phát sinh do nhiều nguyên nhân như: thủ tục hòa giải tại cơ sở còn nhiều vướng
mắc, sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của người lao
động còn hạn chế, các tổ chức tư vấn cho người lao động chưa phát huy hiệu quả…
hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động còn một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tế. Tỷ lệ các vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm phải cải sửa tương đối


1


cao, một số vụ án phải kéo dài, có vụ tới ba hoặc bốn năm do phải hủy để xét xử lại;
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không được khôi phục kịp thời. Những hạn
chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động đặc biệt là trong cơ chế
thị trường hiện nay.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề "Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án nhân dân thực trạng và kiến nghị" là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi
trường kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung và pháp
luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng vấn đề này đã được các nhà khoa học,
luật gia quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Đã có những công trình, bài viết
khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết
tranh chấp lao động tại Tòa án đã được công bố như: Giáo trình Luật Lao động Việt
Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân văn quốc gia, 2000; Giáo trình Luật lao
động Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; Thủ tục giải quyết các vụ án
lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự, của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị quốc gia,
2006; Luận án tiến sĩ Luật học: Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt
Nam, do Lưu Bình Nhưỡng thực hiện năm 2002; các bài viết: Những điểm mới về
tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật lao động năm 2006, của Nguyễn Thị Xuân Thu, Tạp chí
Luật học, số 7/2007; Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án - Một số
bất cập và hướng hoàn thiện, của Lê Thị Hoài Thu; Giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị, của Phạm
Công Bảy, Tạp chí Luật học, số 9/2009...
Tuy nhiên hệ thống pháp luật lao động từ năm 2002 đến nay đã có nhiều
thay đổi, đặc biệt là việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi,

bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2010 và Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm

2


2006, 2012. Bên cạnh đó các bài viết và công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên
cứu việc giải quyết tranh chấp lao động nói chung hoặc nghiên cứu một trường hợp
tranh chấp lao động cụ thể chứ chưa có công trình nào đề cập đến việc nghiên cứu
sâu sắc, có hệ thống và toàn diện vấn đề giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
Do đó, pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân thực trạng và
kiến nghị vẫn là vấn đề cần nghiên cứu về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa
án theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những
bất cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án trên thực tế.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án, cụ thể là:
- Nghiên cứu khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
- Nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án ở Việt
Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiến giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh
chấp lao động tại Tòa án dưới góc độ của luật lao động đồng thời đề cập đến một số
quy phạm của luật tố tụng dân sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu.

3


Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng giải quyết
các tranh chấp lao động tại Tòa án trong giai đoạn từ năm 2009-2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan
điểm của Đảng.
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người và
quyền công dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp luận, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu….
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn đưa ra những vấn đề mới sau đây:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn vận hành
phương thức giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
- Luận văn chỉ ra những tồn tại của hệ thống các quy định và thực tiễn hoạt
động giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án của Việt Nam trong thời gian qua.
- Luận văn đưa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật,
tăng cường khâu tổ chức và hoạt động của giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
của nước ta.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một phần

nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả các loại hình

4


giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các bên
trong mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà nước và xã hội, thực
hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
nhân dân.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
lao đông tại Toà án nhân dân.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm tranh chấp lao động.
1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
- Khái niệm tranh chấp lao động: Tranh chấp lao động là những tranh chấp về
quyền lợi và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện
lao động khác về thực hiện hợp đồng lao động, Thoả ước tập thể và trong quá trình
họcnghề.

Một vụ việc chỉ được coi là tranh chấp lao động khi các bên đã tự bàn bạc,
thương lượng mà không đi đến thoả thuận chung hoặc một trong hai bên từ chối
thương lượng, cần phải có sự can thiệp của chủ thể thứ ba thông qua thủ tục hoà
giải, trọng tài hoặc xét xử.
- Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động: Giải quyết tranh chấp
lao động là việc các tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những thủ
tục theo luật định nhằm giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tập thể
người lao động với người sử dụng lao động về việc thực hiện quyền nghĩa vụ và lợi
ích của hai bên trong quan hệ lao động, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã
bị xâm hại; xoá bỏ tình trạng bất bình, mâu thuẫn giữa người lao động và người sử
dụng lao động, duy trì và củng cố quan hệ lao động, đảm bảo sự ổn định trong sản
xuất.
- Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án: Giải quyết tranh chấp
lao động tại Tòa án là hoạt động giải quyết tranh chấp lao động do Tòa án là cơ
quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước tiến hành với những trình tự, thủ tục
nhất định và phán quyết được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.

6


1.1.2 Đặc điểm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án:
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã
hình thành nhiều quan hệ lao động, các quan hệ lao động này ngày càng trở nên đa
dạng và phức tạp, đan xen lẫn nhau. Nội dung của quan hệ pháp luật lao động là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lao
động. Trong quan hệ pháp luật lao động, không có chủ thể nào chỉ có quyền hoặc
chỉ có nghĩa vụ, quyền của chủ thể này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của
chủ thể phía bên kia và ngược lại tạo thành mối liên hệ pháp lý thống nhất trong
một quan hệ pháp luật lao động. Ngoài ra, các bên còn phải thực hiện và tôn trọng
các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội, bảo

đảm môi trường lao động và môi trường sống.
Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, quan hệ giữa người
lao động với người sử dụng lao động không phải lúc nào cũng diễn biến một cách
ổn định bình thường theo đúng những thỏa thuận. Giữa họ có thể sẽ xuất hiện
những bất đồng về quyền và lợi ích trong lao động. Có những bất đồng được các
bên thỏa thuận và giải quyết được song cũng có thể có những bất đồng mà sự
thương lượng của hai bên không thể giải quyết được. Những bất đồng, xung đột nếu
được giải quyết tốt thì sẽ không trở thành mâu thuẫn, ngược lại, nếu không được
giải quyết thì dễ trở thành những mâu thuẫn gay gắt. Quá trình giải quyết tranh chấp
lao động có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó giải quyết tranh chấp
lao động tại Tòa án là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt. Tính đặc biệt đó thể hiện
ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất: Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án được thực hiện
bởi Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Tranh chấp lao động có thể được giải quyết bởi nhiều cơ quan, tổ chức,
khác nhau như: Hoà giải viên lao động, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Hội
đồng trọng tài lao động hay Tòa án nhân dân.

7


Tuy nhiên khác với Hoà giải viên lao động được thành lập bởi cơ quan quả
lý Nhà nước về lao động ở cấp huyện, hay Hội đồng trọng tài lao động...thì Tòa án
nhân dân là cơ quan tư pháp, nhân danh Nhà nước giải quyết các tranh chấp nói
chung và tranh chấp lao động nói riêng. Về tổ chức, trọng tài lao động được tổ chức
đơn giản và gọn nhẹ gồm: Chủ tịch, Thư ký và các trọng tài viên. Sự gọn nhẹ trong
tổ chức là điều kiện để thực hiện sự đơn giản, linh hoạt về thủ tục, sự giảm thiểu về
thời gian, kinh phí cho các bên. Còn Tòa án là cơ quan tư pháp, được tổ chức chặt
chẽ theo ngành dọc theo hệ thống Tòa án cấp huyện đến Tòa án cấp tỉnh, thành phố

và đến Tòa án cấp cao, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án phải tuân theo
trình tự, thủ tục chặt chẽ, việc vi phạm thủ tục tố tụng sẽ dẫn đến bản án, quyết định
của Tòa án có thể bị sửa, hủy. Ngoài ra đương sự có thể kháng cáo, yêu cầu Tòa án
xét xử lại, nếu thấy phán quyết của Tòa án không thỏa đáng. Với cơ chế nhiều cấp
xét xử, pháp luật cho phép đương sự thực hiện quyền kháng cáo đối với những bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của cấp xét xử sơ thẩm. Ngay cả khi bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự vẫn có quyền khiếu nại, người có
thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Xét ở khía cạnh tích cực, trình tự xét xử nhiều cấp cho phép xem xét
lại phán quyết của Tòa án một cách chắc chắn trước khi cho thi hành. Về lý thuyết,
Tòa án là hình thức tài phán đáng tin cậy nhất; sự tin cậy của tài phán Tòa án dựa
trên tính khách quan và mức độ chính xác của hoạt động tố tụng.
Sử dụng Tòa án vào việc quyết định về các tranh chấp lao động và các cuộc
đình công là một việc được sử dụng từ lâu. Tòa án được xác định là cơ quan xét xử
của Nhà nước. Quá trình xét xử của Tòa án kết thúc bằng việc ra các bản án, quyết định
về vụ tranh chấp hoặc về một vụ việc nào đó thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế và lẽ phải. Ở một số nước trên thế giới,
tòa án lao động thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng không hẳn được đặt trong
hệ thống dọc của Tòa án thường mà được tổ chức như là một loại Tòa án đặc biệt ví
dụ như: Vương quốc Anh, Cộng hòa liên bang Đức, Thụy Điển, Cộng hòa Pháp, Thái

8


Lan... Tuy nhiên, quyền hậu kiểm tối cao về mặt pháp lý đối với các Tòa án lao động
vẫn thuộc Tòa án tối cao.
Thứ hai: Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là hoạt động giải quyết
cuối cùng sau khi tranh chấp đã được giải quyết ở các giai đoạn khác mà không đạt
kết quả (trừ một số trường hợp nhất định).
Tranh chấp lao động có thể được giải quyết bằng nhiều phương thức khác

nhau như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án. Mỗi biện pháp có những đặc
trưng, ưu điểm, hạn chế riêng. Về nguyên tắc, giải quyết tranh chấp lao động thông
qua thương lượng được coi là bước đầu tiên trước khi các bên lựa chọn hoặc phải
tham gia vào một phương thức mới để giải quyết tranh chấp lao động. Khi hai bên
không thương lượng được về việc giải quyết vụ án có thể lựa chọn người thứ ba
trung lập hòa giải tranh chấp. Theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam thì
người hòa giải có quyền đứng ra giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục hòa giải
độc lập gồm: Hòa giải viên lao động do cơ quan lao động cấp huyện cử ra. Tuy
nhiên, có trường hợp hòa giải không thành công và hòa giải chỉ là thủ tục cần thiết
để một trong các bên hoặc cả hai bên có thể sớm đưa vụ việc ra trước cơ quan tài
phán để giải quyết vụ tranh chấp lao động đó.
Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án được tiến hành khi các biện
pháp có tính chất mềm dẻo, ôn hòa và linh hoạt hơn như thỏa thuận, thương lượng,
trọng tài ở các giai đoạn trước đó đã được sử dụng nhưng không đạt kết quả. Đối
với đa số các tranh chấp lao động thì trước khi khởi kiện ra Tòa án thủ tục thương
lượng, hòa giải hay trọng tài là điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án lao động tại Tòa
án. Chỉ khi không đạt được kết quả ở các giai đoạn này, tranh chấp lao động mới
được đưa ra giải quyết ở Tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhanh chóng nhằm tiếp tục quan
hệ lao động, các bên chủ thể có thể khởi kiện thẳng ra Tòa án yêu cầu giải quyết
tranh chấp lao động dù chưa qua thủ tục thương lượng, hòa giải.

9


Về việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân cũng như tranh chấp lao
động tập thể giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Lao động năm 1994 thì các
phương thức giải quyết tranh chấp lao động như thương lượng, hòa giải, trọng tài
rất hạn chế. Việc giải quyết tranh chấp lao động thông qua phương thức giải quyết
khiếu nại, tố cáo và cuối cùng là tòa án nhân dân vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên, từ khi

có Pháp lệnh Hợp đồng lao động năm 1990 thì việc giải quyết tranh chấp lao động
quy định trước hết phải thông qua thương lượng. Bộ luật Lao động được ban hành
và sửa đổi, bổ sung quy định các phương thức để giải quyết tranh chấp lao động đó
là thượng lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án, theo đó tranh chấp lao động được
giải quyết tại Tòa án khi các biện pháp khác là thượng lượng, hòa giải, trọng tài
trước đó không đạt kết quả.
Thứ ba: Các phán quyết của Tòa án về vụ án tranh chấp lao động được đảm
bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước thông qua cơ quan thi hành
án. Mục đích hàng đầu của đương sự khi khởi kiện là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án bằng
sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là một ưu điểm, tạo ra sự khác biệt trong cơ
chế thi hành phán quyết của các loại cơ quan tài phán.
Biên bản hòa giải thành khi hòa giải tại Hoà giải viên lao động, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện hay Hội đồng trọng tài lao động không được đảm bảo bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước mà do các bên đương sự tự nguyện thực hiện
chứ không được đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Nếu các bên không
thực hiện thì bên kia không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định
cưỡng chế thực hiện bởi đây không phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các bên không không thể yêu cầu Tòa án
giải quyết lại vụ tranh chấp về nội dung mà chỉ có thể yêu cầu Tòa án xem xét lại
vấn đề thủ tục để công nhận hay hủy bỏ quyết định trọng tài. Chính điều này làm
cho quyết định trọng tài khó được thực hiện triệt để trên thực tế nếu thiếu cơ chế
phối hợp giữa trọng tài lao động và tòa án nhân dân cũng như hệ thống cơ quan thi
hành án. Nhưng đối với các bản án, quyết định của Tòa án thì các bên có nghĩa vụ

10


phải thi hành, nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế
thi hành thông qua hoạt động của cơ quan thi hành án.

Sở dĩ phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế bởi Tòa án nhân dân là cơ quan
nằm trong hệ thống tư pháp, nhân danh Nhà nước để giải quyết các tranh chấp nói
chung và tranh chấp lao động nói riêng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi, tài sản của cá
nhân, công dân, tổ chức… theo quy định của pháp luật. Khi đương sự không tự giác thi
hành bản án, quyết định của Tòa án, Chi cục thi hành án dân sự có quyền tổ chức
cưỡng chế buộc đương sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quyết định của Tòa
án. Với đặc điểm này, hiệu lực thi hành phán quyết của Tòa án sẽ cao hơn phán quyết
của Hoà giải viên lao động, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Hội đồng trọng
tài lao động.
Do đó các tranh chấp lao động khởi kiện tại Tòa án được giải quyết dứt
điểm và có khả năng bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Khi
các biện pháp hòa giải, trọng tài không đạt kết quả thì các chủ thể có quyền khởi
kiện ra Tòa án. Quyết định, bản án của Tòa án là quyết định giải quyết cuối cùng.
Mục đích của việc giải quyết tranh chấp lao động là dàn xếp những mâu thuẫn trong
quan hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể và trong một số
trường hợp còn nhằm mục đích để quan hệ lao động tiếp tục duy trì. Do đó việc giải
quyết tranh chấp lao động tại tòa án được tiến hành khi các biện pháp ôn hòa, mềm
dẻo ở các giai đoạn trước đã sử dụng nhưng không đạt kết quả.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cũng có những
nhược điểm nhất định như:
- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án được thực hiện bởi cơ quan
tài phán mang tính quyền lực Nhà nước, được tiến hành theo quy trình, thủ tục chặt
chẽ không khỏi khiến cho người sử dụng lao động cũng như người lao động cảm
thấy bị gò bó và đôi khi quá cứng nhắc. Bên cạnh đó tâm lý của người Á châu thích
sự hòa giải ổn thỏa giữa các bên hơn là phải bắt buộc chấp nhận một bản án của Tòa
án. Thực tế đã chứng minh, ngay cả khi người lao động có được xử thắng kiện trong

11



một tranh chấp tại tòa, họ cũng khó có thể được chấp nhận vào làm lại công việc cũ
mà không có bất kỳ sự phân biệt nào so với giai đoạn trước. Các bên tranh chấp đều
mong muốn sớm kết thúc tranh tụng để tập trung vào công việc của riêng mình
trong khi đó thời gian giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án giải quyết thường
kéo dài do xét xử nhiều cấp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của người sử
dụng lao động và đời sống của người lao động. Do các tranh chấp lao động thường
trực tiếp liên quan đến việc làm, thu nhập của người lao động nên các thủ tục tố
tụng có thể làm cho người lao động cũng như người sử dụng lao động ngại ngần khi
tham gia hoạt động tố tụng của Tòa án hay nói cách khác là theo đuổi một vụ kiện.
- Cơ hội để cá nhân, cơ quan, tổ chức đưa vụ việc tranh chấp lao động ra
Tòa án và được Tòa án chấp nhận giải quyết là không nhiều và không dễ dàng. Ví
dụ: Một người kiện cá nhân hoặc tổ chức để đòi bồi thường thiệt hại do thương tổn
về sức khỏe. Việc trước hết mà người khởi kiện phải chứng minh và được Tòa án
chấp nhận là giữa người khởi kiện với người bị kiện đã tồn tại quan hệ pháp lý về
hợp đồng lao động. Trong rất nhiều trường hợp, đây là việc không dễ chút nào.
Bằng chứng là nhiều vụ việc sau nhiều năm Tòa án mới thụ lý giải quyết được.
Giả sử rằng người khởi kiện chứng minh được họ là người lao động, các bên có ký
kết hợp đồng lao động, vì lý do nào đó mà chủ doanh nghiệp không cho vào nơi
làm việc nên người lao động kiện ra Tòa án về việc bị đơn phương chất dứt hợp
đồng lao động. Vậy đây là việc kiện gì, Tòa án có thụ lý để giải quyết hay không?
Những ví dụ nêu trên cho thấy để cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện được quyền
của họ và để Tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp thì còn có nhiều thứ mà không
phải ai cũng làm được.
- Chi phí tốn kém do đương sự phải trả lệ phí, thù lao cho người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp…
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
Những nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình
giải quyết các tranh chấp lao động, bao gồm cả quá trình tố tụng tại Tòa án nhân

12



dân để giải quyết các tranh chấp lao động đó. Ngoài những nguyên tắc được ghi
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011; thì giải quyết tranh chấp lao động còn có
những nguyên tắc riêng dựa vào những đặc điểm riêng của từng loại tranh chấp lao
động.
Điều 194 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012 ghi nhận 06 nguyên
tắc khi giải quyết tranh chấp lao động:
Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng quyết định trong
giải quyết tranh chấp lao động:
Đây là nguyên tắc được ghi nhận trong khoản 1 Điều 194 Bộ luật lao động
năm 2012. Tranh chấp lao động chủ yếu phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và các
quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động. Các bên trong quan hệ lao động tự do thoả
thuận hợp đồng lao động và các cam kết khác trong khuân khổ của pháp luật lao động.
Khi tranh chấp lao động xảy ra đồng nghĩa với việc những cam kết, thoả thuận ban đầu
bị phá vỡ. Do đó, để dàn xếp những bất đồng các bên có quyền và nghĩa vụ tự thương
lượng và dàn xếp để thoả thuận lại. Trực tiếp thương lượng và tự giải quyết bất đồng
cũng là cách thức đơn giản nhất thu hẹp khoảng cách giữa các bên.
Nguyên tắc bảo đảm thực hiện hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng
quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội,
không trái pháp luật.:
Việc giải quyết tranh chấp lao động phải chú trọng và đưa lên hàng đầu các
phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài. Trong trường hợp thông qua các
phương thức đó mà tranh chấp giữa các bên không thể giải quyết được hoặc các bên
không đồng ý với kết quả giải quyết thì có quyền sử dụng phương thức tiếp theo, đó
là kiện ra tòa án hoặc tiến hành đình công (đối với tập thể lao động).
Đặc điểm của quan hệ lao động là các bên có quyền tự do thỏa thuận hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể trong khuôn khổ của pháp luật lao động.
Vì vậy khi tranh chấp lao động xảy ra việc các bên thương lượng, dàn xếp để thỏa
thuận đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của các bên phù hợp với điều kiện của từng


13


bên vừa ngăn ngừa hậu quả xấu xảy ra do tranh chấp lao động. Để thực hiện tốt
nguyên tắc này, cần phải tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động
và người sử dụng lao động, đặc biệt cần phải tạo ra cơ chế để đại diện của người lao
động và người sử dụng lao động thường xuyên gặp nhau, trao đổi với nhau những
vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất, từ đó cùng nhau giải quyết kịp thời những
mâu thuẫn mới phát sinh.
Hòa giải là nguyên tắc xuyên suốt quá trình giải quyết tranh chấp, là thủ tục
bắt buộc ở các cấp, các giai đoạn. Mục đích của hòa giải là làm cho các bên hiểu
nhau, hiểu pháp luật để các bên lựa chọn hướng giải quyết phù hợp, đảm bảo được
sự duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp. Để việc hòa giải đạt hiệu quả đòi hỏi các
bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, lợi ích của cả xã hội và có phương pháp
hòa giải thích hợp.
Nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và
đúng pháp luật.
Do quan hệ lao động có đặc thù ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao
động, sản xuất và toàn xã hội nên đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, kịp thời các
tranh chấp lao động. Để làm được điều đó đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải
công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật.
Việc giải quyết các vụ án lao động tại Tòa án không được áp dụng hình
thức xét xử "bí mật" đồng thời đảm bảo rút ngắn thời gian tố tụng. Ngoài ra, việc
giải quyết các tranh chấp lao động phải đảm bảo tính khách quan, vô tư, đúng thời
điểm khi có yêu cầu và nhất định phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong quá
trình tố tụng bao gồm các quy định của nhà nước về nội dung vụ việc và các trình
tự, thủ tục. Việc xét xử phải đảm bảo tính khách quan, không có sự thiên vị hoặc bị
cố ý làm sai lệch sự thật. Việc xét xử phải nhanh chóng, không được kéo dài hoặc
trì hoãn làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hàng ngày của người lao động và sinh

hoạt bình thường của xã hội, đặc biệt khi có tranh chấp lao động tập thể. Việc xét

14


xử phải tuân thủ các quy định cả về luật nội dung và các quy định về thủ tục giải
quyết.
Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình
giải quyết tranh chấp
Đại diện của các bên thường là những người am hiểu pháp luật, hiểu điều
kiện của các bên vì vậy có thể giúp cơ quan có thẩm quyền đánh giá về tranh chấp
chính xác hơn, từ đó đưa ra được các phương án giải quyết phù hợp. Tuy nhiên,
hiện nay sự tham gia của đại diện người sử dụng lao động chưa thực sự rõ nét, khi
xảy ra tranh chấp người lao động thường phải tự mình tham gia quá trình giải quyết
tranh chấp lao động.
Những nguyên tắc trên là những nguyên tắc chung nhất có tính định hướng
cho việc giải quyết tranh chấp lao động mà việc giải quyết tranh chấp lao động ở
các phương thức hòa giải, trọng tài, xét xử đều phải tuân thủ những nguyên tắc đó.
Tuy nhiên việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là một giai đoạn tố tụng
khác với các phương thức giải quyết tranh chấp lao động khác nên ngoài việc tuân
theo các nguyên tắc chung của việc giải quyết tranh chấp lao động thì còn phải tuân
theo các nguyên tắc chung của hoạt động tố tụng quy định tại Bộ luật tố tụng dân
sự. Trong tố tụng dân sự, việc thực hiện đúng các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự
tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án và thi hành án được thuận lợi, ngăn chặn được
những tiêu cực nảy sinh trong quá trình tố tụng, bảo đảm cho các đương sự có thể bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Nguyên tắc việc giải quyết tranhh chấp lao động trước hết phải được hai
bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh
chấp, ổn định sản xuất kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.
Việc các bên tranh chấp tự thương lượng để giải quyết mọi bất đồng xảy ra

trong quan hệ lao động có ý nghĩa quan trọng không những tạo sự chủ động của họ,
không có sự can thiệp của bên thứ ba vào quá trình giải quyết, nhằm sớm ổn định

15


sản xuất kinh doanh, mà còn là tiền đề để duy trì mối quan hệ tốt đẹp bền vững
trong tương lai.
Nguyên tắc việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi một trong
hai bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương
lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên
không thực hiện.

Việc giải quyết tranh chấp lao động của các cá nhân tổ chức có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật chỉ được thực hiện theo yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp. Nguyên tắc này một lần nữa thể hiện quan điểm phát huy cao độ yếu tố
tự do ý chí của các chủ thể trong việc ổn định phát triển quan hệ lao động giữa họ
trong pháp luật nước ta.
1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhiều và sâu rộng như
hiện nay các quan hệ lao động ngày càng đa dạng, phức tạp, quyền lợi của các bên
không phải lúc nào cũng được đảm bảo dẫn đến tranh chấp lao động xuất hiện nhiều
hơn. Lúc này rất cần đến vai trò của cơ quan tài phán nhà nước trong việc giải quyết
tranh chấp lao động được thể hiện như sau:
- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án góp phần giải quyết dứt
điểm tranh chấp lao động, góp phần bảo vệ người lao động, quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động, lợi ích nhà nước và xã hội; giải quyết quyền lợi
cho các bên theo quy định của pháp luật.
Bất kỳ chủ thể nào khi tham gia quan hệ lao động cũng đều quan tâm đến

sự an toàn pháp lý. Do đó, đòi hỏi mỗi quốc gia đều phải quan tâm xây dựng hệ
thống pháp luật: gồm cả luật nội dung và hình thức. Cụ thể là luật nội dung các
quan hệ lao động (Bộ luật lao động) và tố tụng dân sự, lao động (Bộ luật tố tụng dân
sự). Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án phải đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng
trong giải quyết tranh chấp giữa các đương sự. Cơ quan tài phán (tòa án) phải là nơi

16


mọi người có quyền tự do liên hệ trong trường hợp quyền và lợi ích của họ bị xâm
phạm, mọi người đều có thể nhận được sự bảo hộ cần thiết của pháp luật. Bên cạnh
đó, thông qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng nhằm giáo dục ý thức pháp luật,
ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong quan hệ lao động.
Phán quyết của Tòa án được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế
Nhà nước nên quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được đảm bảo thực hiện triệt
để. Củng cố niềm tin của các chủ thể vào pháp luật và hoạt động của cơ quan nhà
nước, là chỗ dựa pháp lý vững chắc cho người lao động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án được thực hiện bởi thẩm
phán và hội thẩm nhân dân có năng lực, chuyên môn, kinh nghiệm nên hạn chế
được sự tùy tiện, trái pháp luật về nội dung và thủ tục trong việc giải quyết tranh
chấp. Các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ ra phán quyết trên
cơ sở pháp luật, đảm bảo tính khách quan trong phán quyết của Tòa án.
Mục đích của việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án không chỉ nhằm
bảo vệ người đưa ra yêu cầu hoặc người đi kiện. Nếu chỉ nhằm mục đích như vậy, tài
phán lao động nói riêng và tài phán nói chung sẽ rơi vào chỗ sai lầm. Bởi vì, người
đưa ra yêu cầu hoặc người đi kiện chưa chắc đã là người có hành vi đúng đắn, hợp
pháp trong thực tế. Tính chất trung lập của pháp luật đòi hỏi các chủ thể nắm quyền
tài phán cũng phải trung lập trong hoạt động phân định tính hợp pháp, đúng đắn
trong hành vi của các bên. Do quá trình giải quyết tranh chấp lao động có sự tham
gia và quan tâm của nhiều chủ thể, mỗi chủ thể có tư cách và mối quan tâm khác

nhau, do đó quyền và lợi ích của các chủ thể đó phải được đảm bảo.
Các chủ thể đối diện nhau trong quá trình tố tụng là phía người lao động và
phía người sử dụng lao động. Quyền và lợi ích của họ là những đối tượng trực tiếp
cần được bảo vệ, mặc dù sự bảo vệ này không giống nhau và nó hoàn toàn phụ
thuộc vào từng vụ việc, từng hoàn cảnh cụ thể. Chính các tranh chấp lao động giữa
họ và các cuộc đình công do phía người lao động tiến hành là những yếu tố có thể
tạo nên sự mất cân bằng về quyền, lợi ích, thậm chí có thể quyền và lợi ích của một

17


hoặc cả hai bên bị xâm hại, do đó pháp luật cần sử dụng tài phán như là một phương
thức đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.
Nhưng, suy cho cùng, các quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao
động luôn có mối quan hệ và nằm trong tổng thể các quyền và lợi ích của Nhà nước
và xã hội. Một vụ tranh chấp lao động không chỉ liên quan hoặc làm thiệt hại các
bên trong quan hệ lao động, trong phạm vi của đơn vị sử dụng lao động mà còn có
thể ảnh hưởng tới các đơn vị khác, ngành kinh tế quốc dân khác, ảnh hưởng tới sự
an bình của một xã hội. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc giải
quyết tranh chấp lao động là góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội.
- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án duy trì trật tự pháp luật
trong quan hệ lao động, góp phần bảo đảm sự ổn định của quan hệ lao động, quan
hệ sản xuất nhằm bảo vệ lực lượng sản xuất xã hội.
Xuất phát từ bản chất pháp lý, Tòa án nhân danh nhà nước giải quyết tranh
chấp lao động. Vì vậy hình thức này thể hiện vai trò của nhà nước trong việc giải quyết
các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích trong quá trình tham gia quan hệ lao động của các
cá nhân, tổ chức nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên và duy trì trật
tự, kỷ cương trong quan hệ lao động. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án
cũng có ý nghĩa điều tiết quan hệ lao động, bảo đảm sự bình ổn, phát triển quan hệ lao
động. Ở góc độ quản lý nhà nước, giải quyết tranh chấp lao động bằng tòa án góp phần

xây dựng các quy định về tài phán, tạo ra cơ chế pháp lý phù hợp để việc giải quyết
tranh chấp có hiệu quả.
Khi giải quyết các tranh chấp lao động và phán quyết của Tòa án có vai trò
giải tỏa những xung đột giữa các chủ thể, "làm mát" tình trạng nóng bỏng trong quan
hệ giữa các bên đồng thời dàn xếp những vấn đề vốn đã bị các bên "xới tung" lên một
cách có ý thức. Trong khi đang giành giật những cái đã mất hoặc đòi hỏi những cái
chưa có, các bên đã làm cho không chỉ quan hệ của mình xấu đi mà còn tạo ra trong
xã hội một sự xáo động nhất định. Vì môi trường của mối quan hệ lao động là một
môi trường nhạy cảm và dễ có xung đột, hơn nữa sự vận động của lao động chính là
sự vận động của lực lượng sản xuất xã hội, do đó, sự mất ổn định của lực lượng sản

18


×