Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hoàn thiện các qui định của pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp đồng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ thương mại trong điều kiện toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.03 KB, 74 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYÊN ĐỨC THÔNG




HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Hà Nội – Năm 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN ĐỨC THÔNG



HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS .TS NGÔ HUY CƢƠNG





Hà Nội – Năm 2014

3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 9
1.1. Khái niệm và bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng. 9
1.1.1. Khái niệm về đề nghị giao kết hợp đồng. 9
1.1.2. Bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng 16
1.1.3. Phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với lời mời đàm phán. 21
1.2. Các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng 26
1.2.1. Tổng quan về các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng 26
1.2.2. Các điều kiện cụ thể của đề nghị giao kết hợp đồng 28
1.3. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng 41
1.4. Pháp luật điều chỉnh đề nghị giao kết hợp đồng 45
1.4.1. Đặc điểm và cấu trúc của pháp luật. 45
1.4.2. Nguồn của pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng 47
1.5. Tác động của toàn cầu hóa tới các quan hệ thương mại và các qui định
pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng 47
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỀ NGHỊ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM
THÚC ĐẨYCÁC QUAN HỆ THƢƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN
TOÀN CẦU HÓA 49
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp đồng 49
2.1.1. Cấu trúc của pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng 49
2.1.2. Nguồn của pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp đồng. 50
2.1.3. Các qui định cụ thể của pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp

đồng 52
2.1.4. Thực tiễn thi hành pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng ở Việt Nam
58
2.1.5. Nguyên nhân của các bất cập chủ yếu của pháp luật Việt nam về đề
nghị giao kết hợp đồng 63
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp đồng
nhằm thúc đẩy các quan hệ thương mại trong điều kiện toàn cầu hóa 64
2.2.1. Kiến nghị về định hướng hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam
về đề nghị giao kết hợp đồng 64
2.2.2. Kiến nghị về các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đề
nghị giao kết hợp đồng 66
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

4

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề nghị giao kết hợp đồng là một yếu tố cấu thành nên sự thoả thuận
có hiệu lực pháp luật mà được gọi là hợp đồng. Bất kỳ sự thoả thuận nào đều
bao gồm hai thành tố là đề nghị và chấp nhận mà không phụ thuộc vào chỉ
một bên của sự thỏa thuận.
Chính vì sự đặc biệt này và hiệu lực ràng buộc mạnh mẽ của hợp
đồng, cho nên việc xác định một hợp đồng được hình thành như thế nào và
khi nào nó được hình thành để các bên trong quan hệ đó có thể thực hiện
quyền yêu cầu và thực hiện nghĩa vụ của mình là một điều hết sức quan
trọng. Vấn đề này còn tỏ ra quan trọng không kém khi giải quyết tranh chấp
hợp đồng bởi việc một bên khởi kiện bên kia vi phạm hợp đồng thì việc
trước tiên cần phải xác định - đó là có quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và

bị đơn không. Việc xác định này chỉ có thể thành công khi làm rõ được trước
hết ai đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và đưa ra như thế nào, và sau đó ai
chấp nhận đề nghị đó và chấp nhận như thế nào.
Các thương nhân là những người chuyên nghiệp tiến hành các hành vi
thương mại, nhưng không phải là luật gia, và không phải bất kỳ một hoạt
động kinh doanh nào của thương nhân cũng nhận được sự tư vấn chuyên
môn về pháp luật. Khi một thương nhân muốn giao kết hợp đồng với một
thương nhân khác có hai cách lựa chọn: một là anh ta phải gửi một lời mời
đàm phán (invitation to treat) hoặc là phải gửi một lời đề nghị giao kết hợp
đồng (offer). Tuy nhiên, không phải thương nhân nào cũng có thể nhận định
được chính xác sự biểu lộ ý chí đó có phải là một lời đề nghị giao kết hợp
đồng hay không, hay chỉ đơn thuần là một lời mời đàm phán hợp đồng.

5
Bộ luật Dân sự 2005 hiện có những qui định tương đối cụ thể về giao
kết hợp đồng mà trong đó có qui định không ít về đề nghị giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên các qui định này vừa thiếu, lại vừa có nhiều điểm bất cập ngay cả
định nghĩa về đề nghị giao kết hợp đồng. Mặc dù đã có quá nhiều các công
trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước về vấn đề pháp lý này bởi luật hợp
đồng là một ngành luật truyền thống, song nghiên cứu vấn đề này ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, khi mà Việt Nam đang trong quá trình sửa
đổi tổng thể Bộ luật Dân sự 2005 và đặt mình vào vòng xoáy của toàn cầu
hóa, là hết sức cần thiết.
Vì những lẽ đó, tôi xin lựa chọn đề tài “Hoàn thiện các qui định của
pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp đồng nhằm thúc đẩy sự
phát triển của các quan hệ thƣơng mại trong điều kiện toàn cầu hóa”
làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xét đơn thuần từ phương diện lý luận nói chung, đề tài này không còn

tính mới bởi như trên đã phân tích nó nằm trong ngành luật hợp đồng truyền
thống mà không luật gia nào không được học và tham dự thực tiễn. Thế
nhưng xét trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu đề tài này
vẫn còn đất cho những đóng góp, nhất là trong việc xây dựng luật thực định
và thực hành luật.
Ở ngoài nước đã có quá nhiều các công trình nghiên cứu ở bất cứ
nước nào. Có thể kể ra mọt số các công trình tiêu biểu như sau: (1) Brian H.
Bix, Consent in Contract Law, Legal Studies Research Paper Series,
Research Paper No. 08-36, University of Minnesota Law School; (2) Sir
William R. Anson, Principles of the English Law of Contract and of Agency
in its Relation to Contract, Twenty- second edition, Oxford at the Clarendon

6
Press, 1965; (3) David E. Allan & Mary E. Hiscock, Law of Contract in
Australia, 2
nd
edition, Key Text, Australia, 1992; (4) Daniel Khoury,
Yvonne S Yamouni, Understanding contract law, Butterworths, Sydney,
Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart, Melbourne, Perth, 1989; (5) John D.
Calamari, Joseph M. Perillo, Contracts, Third edition, West Publishing Co.,
USA, 1987. Đây là các công trình nghiên cứu đồ sộ về hợp đồng nói chung
và rất chi tiết liên quan tới đề nghị giao kết hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên
các công trình này không hề đề cập tới pháp luật hợp đồng của Việt Nam,
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Ở trong nước có các công trình tiêu biểu nghiên cứu chung về hợp
đồng như sau: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật hợp đồng – Phần chung
(Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; (2)
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án (Sách
chuyên khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; (3) Nguyễn Ngọc
Điện, Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam, Nxb

Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2001; (4) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp , Hà Nội, 2007; (5) Vũ Văn

̃
u, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Ngha vụ và khế ưc , In lần
thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963; (6) Nguyễn Thị Mơ
(Chủ biên), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nxb Lao
đọng- Xã hội, Hà Nội, 2006; (7) Nguyễn Như Phát và Lê Thị Thu Thuỷ
(đồng chủ biên), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2003; (8) Dương Anh
Sơn, “Những vấn đề chung về hợp đồng thương mại quốc tế”, Giáo trình
luật hợp đồng thương mại quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh- Khoa Kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2005; (9)
Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung mi của Bộ luật

7
Dân sự năm 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005. Đây là những công trình
nghiên cứu rất công phu và nghiêm túc về luật hợp đồng nói chung về cả lý
luận và thức tiễn, cả ở Việt Nam và nước ngoài. Tuy nhiên chưa có công
trình nào nghiên chuyên biệt về đề nghị giao kết hợp đồng góp phần cho hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu nói trên và nhiều công
trình khác, Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về đề nghị giao kết hợp đồng
nhằm đóng góp cho việc xây dựng pháp luật và thực hành pháp luật ở Việt
Nam hiên nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra mục đich nhằm xác định rõ khái niệm của đề nghị
giao kết hợp đồng; phân định rõ sự khác biệt giữa đề nghị giao kết hợp đồng

với lời mời đàm phán hợp đồng hay lời mời để đưa ra lời đề nghị giao kết
hợp đồng; xác định rõ các vấn đề pháp lý liên quan; đồng thời phân tích
pháp luật Việt Nam và so sánh nó với pháp luật hợp đồng Anh – Mỹ để từ
đó kiến nghị về mô hình, định hướng xây dựng, khuyến nghị thực hành liên
quan đến đề nghị giao kết hợp đồng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu tự xác định như sau:
+ Làm sáng tỏ về mặt lý luận về đề nghị giao kết hợp đồng;
+ Phân tích, đánh giá những qui định của pháp luật Việt Nam đối với
đề nghị giao kết hợp đồng;
+ Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối với đề nghị
giao kết hợp đồng, và kiến nghị thực hành theo hướng toàn cầu hóa.


8
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về đề
nghị giao kết hợp đồng. Để có thể có những nhận xét đúng đắn và mang tính
khách quan, Luận văn sử dụng phương pháp so sánh pháp luật, nhất là so
sánh giữa pháp luật Việt Nam với hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.
Luận văn không đi sâu vào việc phân tích các nhu cầu của toàn cầu
hóa đối với cải cách chế định đề nghị giao kết hợp đồng. Luận văn chủ yếu
coi toàn cầu hóa như một định hướng đương nhiên.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn bao gồm:
phương pháp phân tích qui phạm; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy
nạp; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp so sánh luật học. Các
phương pháp này được sử dụng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.


6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đề nghị giao kết hợp đồng trong
điều kiện toàn cầu hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về đề nghị giao kết hợp
đồng và kiến nghị về hoàn thiện nhằm thúc đẩy các quan hệ thương mại
trong điều kiện toàn cầu hóa.




9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA

1.1. Khái niệm và bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng.
1.1.1. Khái niệm về đề nghị giao kết hợp đồng.
Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng chỉ có thể đóng góp vào sự thoả
thuận một thành tố nhất định trong hai thành tố “đề nghị giao kết hợp đồng”
và “chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” mà có thể gọi ngắn gọn là “đề
nghị” và “chấp nhận” theo thuật ngữ chuyên môn” [4, tr. 222]. Cần khẳng
định rằng hợp đồng nào cũng là sự thoả thuận, nhưng không phải sự thoả
thuận nào cũng là hợp đồng, có nghĩa là thỏa thuận là một khái niệm rộng
hơn hợp đồng. Đối với truyền thống Common Law cũng vậy, sự thoả thuận
là yếu tố đầu tiên của hợp đồng mà có bản chất là sự thống nhất ý chí (a
meeting of minds) của các bên giao kết hợp đồng, và là yếu tố dễ gây tranh
cãi nhất [1, tr. 122]. Đề nghị (hay đề nghị giao kết hợp đồng) của một bên

chủ thể luôn đợc coi là một sự biểu lộ ý chí, một sự thể hiện mong muốn tạo
lập nên một ràng buộc trong khuôn khổ của một hợp đồng đối với bên chủ
thể còn lại. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự thể hiện mong muốn này cũng
giống nhau, theo một khuôn mẫu hay là dễ dàng nhận biết. Trên thực tế, có
rất nhiều sự thể hiện gây nhiều tranh cãi và phải cần sự điều chỉnh của pháp
luật. Tất cả các hệ thống pháp luật đều tôn trọng ý chí của con người, tôn
trọng những quyết định của họ xuất phát từ học thuyết tự do ý chí. Học
thuyết này cho rằng con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình, và
có quyền định đoạt tất cả những gì thuộc về mình [5]. Vì vậy từ lâu người ta
đã coi hợp đồng là luật của các bên giao kết. Khi một nguời đưa ra ý chí của
anh ta muốn được thực hiện một công việc, đặt trong mối tương quan với

10
một chủ thể khác, đánh đổi một vật, một quyền lợi của mình để lấy về một
lợi ích hay một vật thoả mãn nhu cầu cá nhân nhưng không xâm hại đến trật
tự công cộng, thuần phong mỹ tục hay quyền và lợi ích của người khác thì
hợp đồng giữa họ, hay nói cách khác luật giữa họ, được tất cả mọi thực thể
khác tôn trọng và không thể xâm hại. Như vậy hợp đồng được cho thi hành.
Định nghĩa về đề nghị đã được nói tới ở nhiều tài liệu, cũng như văn
bản pháp luật. Nhìn chung, định nghĩa về đề nghị giao kết hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự 2005 có sự khác biệt nhiều so với pháp luật của các nước
trên thế giới. Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa: “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” (Điều 390,
khoản 1). Trong khi đó Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế định nghĩa: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều
người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ tính xác định và nếu nó
chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp
có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ tính xác định khi nó nêu rõ
hàng hoá và ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp

hoặc qui định thể thức xác định những yếu tố này.” (Điều 14, khoản1). Có lẽ
Bộ luật Dân sự 2005 có sự tham khảo Công ước Viên 1980 về người được
gửi đề nghị tới, nên cho rằng đề nghị phải được gửi tới người được xác định
cụ thể. Bởi là Công ước chuyên cho mua bán hàng hóa quốc tế nên việc chào
mua hay chào bán không thể gửi cho những người không xác định. Nhưng
trong hoàn cảnh của một quốc gia và với những loại hợp đồng khác thì qui
tắc này sẽ là không thích hợp.
Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004
định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng có khác hơn như sau: “Một đề xuất

11
(proposal) được gọi là đề nghị (offer) nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của
bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận” (Điều
2.1.2). Định nghĩa này cho thấy không có sự xuất hiện của bên được đề nghị.
Các định nghĩa tương tự luôn được tìm thấy trong các hệ thống theo
Common Law. Chẳng hạn: “Đề nghị là một đề xuất được tạo bởi một bên
đưa tới đến bên khác biểu lộ mong muốn được giao kết hợp đồng. Bên tạo
nên lời đề nghị được gọi là bên đề nghị (offeror). Bên nhận được lời đề nghị
đó được gọi là bên được đề ghị (offeree)” [3, tr. 10]. “Sự trao đổi sẽ được coi
là một đề nghị giao kết hợp đồng nếu như nó chỉ ra những điều khoản mà
được hiểu là người đưa ra đề nghị đã chuẩn bị để tạo lập hợp đồng (như giá
bán của hàng hóa) và biểu lộ rõ ràng rằng người đưa ra đề nghị có ý định
chịu sự ràng buộc bởi những điều khoản đó nếu như nó được người được đề
nghị chấp nhận” [3, tr. 10].
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể thấy: pháp luật nước ngoài đều
nêu hay xác định yếu tố biểu đạt sự chấp nhận của bên được đề nghị trong
khi đó dường như pháp luật Việt Nam đã tách rời yếu tố này và chỉ qui định
về sự biểu đạt ý chí rõ ràng của bên đưa ra đề nghị xác định. Việc qui định
như vậy trong pháp luật Việt Nam dường như đã tách bạch đề nghị giao kết
hợp đồng với chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hay là làm cho sự nhận

diện đề nghị giao kết hợp đồng là một yếu tố cấu thành nên hợp đồng trở nên
mờ nhạt hơn. Như vậy có những yếu tố không thể thiếu mà tất cả các hệ
thống pháp luật đều thừa nhận đối với đề nghị giao kết hợp đồng – đó là:
Một, phải có một bên đưa ra đề nghị. Bên này phải là một chủ thể xác
định. Yếu tố xác định này có thể thể hiện ở việc: khi đưa ra lời đề nghị, bên
đề nghị nêu rõ hoặc thể hiện rõ trong phần người gửi hoặc trong nội dung đề
nghị về trụ sở kinh doanh (nếu là pháp nhân), địa chỉ thường trú (nếu là thể

12
nhân) hoặc làm cách khác để người được đề nghị có thể hoặc chắc chắn sẽ
xác định chính xác được yếu tố này.
Hai, phải có một bên được đề nghị và đã nhận được đề nghị. Bên
được đề nghị là một hay nhiều người, có thể xác định hay không thể xác
định. Chẳng hạn: mua bán tại sở giao dịch hàng hóa hay sở giao dịch chứng
khoán- nơi được xem là diễn ra các hoạt động chào bán, chào mua liên tục,
khó có thể có bên được đề nghị xác định. Cũng như vậy trong việc hứa
thưởng, thi có giải.
Ba, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được ý chí hay ý định
giao kết hợp đồng hay mong muốn bị ràng buộc của bên đưa ra đề nghị vào
quan hệ hợp đồng với bên được đề nghị, có nghĩa là nếu đề nghị đó được
bên được đề nghị chấp nhận thì hai bên bị ràng buộc vào quan hệ hợp đồng.
Trong tất cả các hệ thống pháp luật đều không công nhận sự đàm phán lại
của đề nghị giao kết hợp đồng. Khi một đề nghị giao kết được đưa ra mà có
sự tồn tại của đàm phán hay thay đổi cơ bản thì đề nghị ban đầu thường
chấm dứt sự tồn tại và đơn giản chỉ là một sự thể hiện ý chí của một bên chủ
thể. Sự thể hiện ý chí của các bên chỉ được xem là một bước thể hiện ý chí
của một giai đoạn đàm phán. Chỉ đến chừng nào tồn tại một sự thể hiện ý chí
rõ ràng của một bên và bên còn lại chấp nhận một cách vô điều kiện, thì sự
thể hiện ý chí đó mới được xem xét là một đề nghị giao kết hợp đồng. Bên
thể hiện ý chí đó được xem là bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Bên còn

lại là bên được đề nghị. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên được đề
nghị gửi chấp nhận hoặc vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận tuỳ
thuộc vào từng hệ thống pháp luật.
Bốn, có sự ràng buộc pháp lý giữa các bên khi có sự thống nhất ý chí.
Sự thống nhất ý chí được thể hiện chắc chắn ở việc người được đề nghị chấp
nhận trùng khít với đề nghị, có nghĩa là bên được đề nghị đồng ý với bên đề

13
nghị bản chất pháp lý của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng và các điều
kiện khác của hợp đồng mà được bên đề nghị đưa ra trong đề nghị.
Hầu hết các hệ thống pháp luật đều đề cập tới khái niệm “đề nghị
ngược trở lại” (counter offer). Sự thay đổi vị trí lẫn nhau của hai bên chủ thể
gây ảnh hưởng rất lớn đến giá trị của các cam kết của hai bên. Một chấp
nhận trở thành đề nghị ngược trở lại hay còn gọi là “đề nghị mới” khi chấp
nhận không trùng khít với đề nghị. Trong trường hợp này bên được đề nghị
bị hoán đổi vị trí cho bên đề nghị ban đầu, có nghĩa là lại trở thành bên đưa
ra đề nghị mới. Và như vậy hợp đồng chỉ được xem là giao kết khi lời đề
nghị mới này được chấp nhận trùng khít. Có thể hiểu từ việc chấp nhận của
mình, bên được đề nghị ban đầu lại trở thành bên đề nghị ngược trở lại bởi
sự chấp nhận không trùng khít. Chỉ trở thành hợp đồng ràng buộc các bên
khi người đề nghị ban đầu (original offeror) chấp nhận đề nghị ngược trở lại.
Khi một đề nghị giao kết hợp đồng được khởi xướng bởi người đưa ra đề
nghị ban đầu và gửi tới người được đề nghị. Nếu người được đề nghị chấp
nhận lời đề nghị vô điều kiện và như ảnh phản chiếu trong gương (the mirror
image rule) [2, tr. 114], không có sự thay đổi nào về bản chất thì hợp đồng
được giao kết với những điều kiện được đưa ra trong đề nghị. Nhưng nếu
người được đề nghị chấp nhận lời đề nghị với thay đổi căn bản điều kiện
trong đề nghị đó (ví dụ như thay đổi về giá cả, số lượng, chất lượng hay đối
tượng của hợp đồng…) thì sự chấp nhận đó được xem như đưa ra một lời đề
nghị ngược trở lại hay đề nghị mới. Sự ràng buộc của đề nghị mới này đối

với người được đề nghị ban đầu hoàn toàn giống với là sự ràng buộc của đề
nghị ban đầu đối với người đưa ra đề nghị ban đầu. Đề nghị lại (counter
offer) có thể thể hiện bằng một chấp nhận hoặc có thể không thể hiện như
một chấp nhận. Công ước Viên 1980 qui định: “Một sự phúc đáp có khuynh
hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng những điểm bổ sung, bớt

14
đi hay các sửa đổi khác thì ược coi là từ chối chào hàng và cấu thành một
hoàn giá” (Điều 19). Với tư tưởng đó, Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp
dồng thương mại quốc tế 2004 có qui định như sau: “Câu trả lời với mong
muốn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng kèm theo những bổ sung,
hạn chế hoặc những sửa đổi khác phải được coi là sự từ chối đề nghị và hình
thành một đề nghị mới”. (Điều 2.1.11).
Tuy nhiên, không phải mọi sự thay đổi, mọi sự bổ sung hay bớt đi
điều khoản của đề nghị giao kết hợp đồng đều được coi là đề nghị ngược trở
lại. Thông thường các hệ thống pháp luật đều nhìn nhận có tồn tại một sự
thay đổi và được coi là đề nghị ngược trở lại khi mà việc thể hiện ý chí của
người nhận đề nghị đã làm thay đổi căn bản ý chí của người đa ra đề nghị
giao kết hợp đồng. Có thể hiểu đây là trường hợp thiếu sự thống nhất ý chí.
Chẳng hạn người đề nghị mong muốn bán xe ô tô với giá 500.000.000 đồng.
Người được đề nghị thể hiện sự mong muốn mua nhưng mặc cả rằng giá đó
cần giảm xuống đôi chút để lấy chi phí sửa chữa xe. Rõ ràng các bên chưa
có sự thống nhất ý chí trong việc mua bán chiếc xe này bởi giá bán là một
điều kiện quan trọng và chủ yếu của hợp đồng này, có nghĩa là người đề
nghị muốn đổi xe lấy một khoản tiền mà anh ta dự kiến, trong khi đó người
được đề nghị một mặt rất muốn mua xe, song lại không đồng ý với giá mà
người đề nghị đưa ra. Như vậy người đề nghị ban đầu có thể đồng ý bán
hoặc có thể không đồng ý bán. Vì vậy việc trông chờ sự thể hiện ý chí này
của người đề nghị ban đầu là cần thiết. Bởi thế sự hoán đổi vị trí giữa hai
người này là cần thiết và hợp lý. Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng

thương mại quốc tế 2004 còn qui định: “Tuy nhiên, nếu câu trả lời với mong
muốn chấp nhận kèm theo những chi tiết bổ sung hoặc khác biệt mà không
làm thay đổi cơ bản các điều khoản của đề nghị được coi là một chấp nhận
giao kết hợp đồng, trừ khi bên đề nghị ngay lập tức bác bỏ những chi tiết bổ

15
sung hay sửa đổi này. Nếu bên đề nghị không phản đối, các điều khoản của
hợp đồng sẽ bao gồm các điều khoản của đề nghị giao kết hợp đồng và
những sửa đổi bổ sung đưa ra chấp nhận” (Điều 2.1.11). Với điều khoản
này, Bộ nguyên tắc này vẫn tôn trọng quyền định đoạt của người đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng nếu anh ta muốn hay không muốn tiếp tục giao kết
với một lời chấp nhận có chứa đựng những yếu tố bổ sung, thay đổi nhưng
không căn bản các yếu tố của lời đề nghị ban đầu. Luôn coi trọng sự thoả
thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng, khi một đề nghị giao kết bị thay
đổi những yếu tố ban đầu mà không làm ảnh hưởng đến mong muốn ban đầu
của người đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng thì sẽ tồn tại một thoả thuận khi
mà người đưa ra đề nghị chấp nhận sự tồn tại đó [2, tr. 114]. Quan niệm này
khác với quan niệm của pháp luật Việt Nam được biểu đạt cụ thể tại Bộ
luâtyj Dân sự 2005 rằng: “Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp
đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã
đưa ra đề nghị mới” (Điều 395). Có thể hiểu pháp luật Việt Nam áp dụng
tuyệt đối nguyên tắc trùng khít trong chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Tóm lại, đề nghị giao kết hợp đồng là gì phải được trả lời trong sự
hiểu biết tường tận về đề nghị ngược trở lại bởi chúng có mối quan hệ tác
động qua lại đối với nhau. Việc xác định được các thành tố của một đề nghị
giao kết hợp đồng là nền tảng của việc xác định sự thay đổi dẫn đến sự hình
thành một đề nghị ngược trở lại. Việc xác định được đề nghị ngược trở lại là
căn cứ để xác định sự hoán đổi vị trí giữa hai bên chủ thể và xác định sự
ràng buộc đối với mỗi bên chủ thể.



16
1.1.2. Bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng
PGS. TS. Ngô Huy Cương khẳng định đề nghị giao kết hợp đồng có
bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương trong các bài giảng của mình về
hợp đồng [5] bởi khi đề nghị này được gửi tới bên được đề nghị thì người đề
nghị bị ràng buộc pháp lý ít nhất như: (1) không thể rút lại, sửa đổi hay hủy
bỏ đề nghị đó nếu như không được bên được đề nghị đồng ý; và (2) trong
thời gian có hiệu lực của đề nghị, nếu bên được đề nghị chấp nhận, thì bên
đề nghị bị ràng buộc bởi hợp đồng với bên được đề nghị [4, tr. 240 - 256].
Diễn đạt khác hơn nhưng không nói thẳng vào bản chất pháp lý của đề
nghị giao kết hợp đồng, có quan niệm rằng: “Đề nghị giao kết hợp đồng là
quyết định đơn phương có chủ ý của một ngời bày tỏ ý định giao kết hợp
đồng theo những điều kiện xác định, cụ thể và rõ ràng với một hay nhiều
người khác” [8, tr. 47].
Đề nghị giao kết hợp đồng thực ra là sự biểu lộ ý chí đơn phương của
bên đề nghị và đề nghị đó ràng buộc chính người này. Ý chí này của một bên
chủ thể đề xuất truyền đạt đến bên chủ thể còn lại. Nó xuất phát từ chính
mong muốn của họ và được thể hiện bằng một lời đề nghị giao kết hợp
đồng. Chính vì vậy, không thể nhận định khác đi, đề nghị giao kết hợp đồng
bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương. Hành vi pháp lý đơn phương
hay còn gọi là hành vi độc phương theo Vũ Văn Mẫu là “một hành vi do ý
chí của một người mà có, thí dụ như sự làm di chúc” [11, tr. 72]. Trường Đại
học Luật Hà Nội lý giải là “hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm
qua đó làm phát sinh, thay đổi họăc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đây
là một loại giao dịch dân sự trong đó là sự biểu hiện ý chí đơn phương của
một bên” [13, tr. 18 – 19]. Ẩn chứa trong loại hành vi này là một tính chất
đơn phương của ý chí thể hiện bởi một bên chủ thể. Nó chỉ là một sự thể

17

hiện của một người, một chủ thể “cả trong sự kết lập lẫn trong sự thi hành”
[13, tr. 18 – 19].
Hành vi pháp lý đơn phương cần có sự phân biệt với hợp đồng đơn
vụ. Hợp đồng phải có sự tồn tại của ít nhất hai chủ thể. Có một số trường
hợp chỉ tồn tại một người giao kết hợp đồng, ví dụ: một người giao kết hợp
đồng với chính bản thân mình như trường hợp người giám hộ mua hoặc thuê
tài sản của người được giám hộ [6, tr. 177]. Sự khác nhau đầu tiên khi phân
biệt hành vi pháp lý đơn phương hay độc phương và hợp đồng đơn vụ hay
khế ước độc phương chính là ở yếu tố có sự tồn tại hai bên chủ thể và đồng
thời tồn tại sự thoả hiệp giữa hai chủ thể này tạo nên một hợp đồng đơn vụ/
khế ước độc phương [11, tr. 72]. Tuy nhiên, điều rất dễ nhầm lẫn hay là sự
thể hiện điểm chung khá tương đồng giữa hợp đồng đơn vụ hay khế ước độc
phương và hành vi pháp lý đơn phương chính là ở việc chịu trách nhiệm của
một bên chủ thể. Hợp đồng đơn vụ là một loại hợp đồng mà trong đó một
bên chủ thể chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên
kia là người có quyền nhưng không phải thực hiện một nghĩa vụ nào [13, tr.
102]. Nó thể hiện tính chịu trách nhiệm của chỉ một bên chủ thể. Hành vi
pháp lý đơn phương cũng vậy, khi một hành vi pháp lý đơn phương được
khởi phát từ một chủ thể thì “giao dịch này có làm phát sinh một quan hệ
nghĩa vụ dân sự hay không còn phụ thuộc vào ý chí của những người khác
(những người sẽ là chủ thể bên kia của giao dịch) và họ phải đáp ứng yêu
cầu của bên đã thể hiện ý chí” [13, tr. 18 – 19]. Đặc tính này vừa tạo nên sự
tương đồng, vừa là điểm khác biệt giữa hai khái niệm cần phải xác định này.
Sự giống nhau đó là việc chỉ có một bên có nghĩa vụ. Còn sự khác nhau lại
thể hiện ở chỗ: đối với hợp đồng đơn vụ, nghĩa vụ của một bên được xây
dựng dựa trên sự thoả thuận của hai bên còn đối với hành vi pháp lý đơn
phương thì nghĩa vụ của một bên là do tự bên đó tự nguyện, đề xuất và họ sẽ

18
chỉ phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đó khi hợp đồng được xác lập,

tức là sau khi có sự thể hiện ý chí đồng ý thực hiện giao dịch do hành vi
pháp lý đơn phương khởi phát.
Có thể minh chứng cho sự phân biệt này ở hai hình thức là: di chúc và
hợp đồng tặng cho vô điều kiện.
“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản cuả
mình cho người khác sau khi chết” (Điều 646, Bộ luật Dân sự 2005). Còn
“hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng
cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho
mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận” (Điều 465,
Bộ luật Dân sự 2005). Sự giống nhau của hai hình thức này là sự tự nguyện
của một bên mong muốn chuyển giao tài sản của mình cho một bên khác và
không yêu cầu đền bù (tức là trả tiền hoặc thực hiện một công việc có tính
chất ngang giá).Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản của hai hình thức này đó lại
là hình thức di chúc thì không tồn tại sự thoả thuận còn hợp đồng tặng cho
thì cơ bản tồn tại dựa trên sự thoả thuận của các bên. Một người khi để lại di
sản của mình cho một người khác thì chỉ là sự thể hiện mong muốn đơn
phương thể hiện ý chí của người đó. Người thừa kế có thể nhận hoặc không
nhận di sản. Giữa họ không tồn tại một sự thoả thuận. Hơn nữa, di chúc hay
rộng hơn là hành vi pháp lý đơn phương có thể có hoặc không phát sinh một
giao dịch chuyển giao tài sản phụ thuộc vào việc người thừa kế/người tiếp
nhận hành vi pháp lý đơn phương đó có chấp nhận thừa hưởng di sản hay
không. Đối với hợp đồng tặng cho tài sản thì bản thân nó đã là một bản thoả
thuận mà một người/một bên thì cam kết cho và một người/một bên thì đồng
ý nhận. Việc ưng thuận đã được đến từ hai phiá và hình thành một giao dịch
dân sự xác định .

19
Trong hệ thống Common Law cũng tồn tại hai khái niệm: “unilateral
contract” và “bilateral contract” có nghĩa gần tương đồng với hợp đồng đơn
vụ và hợp đồng song vụ của hệ thống Civil Law nói chung và hệ thống pháp

luật Việt Nam nói riêng. Để hiểu rõ được đề nghị giao kết hợp đồng cũng
như bản chất của nó, ngoài việc phải nắm được thế nào là hành vi pháp lý
đơn phương, hợp đồng đơn vụ cũng như song vụ, còn phải nắm được khái
niệm hợp đồng đơn phương “unilateral contract” và hợp đồng song phương
“bilateral contract”. Hai khái niệm này trong hệ thống Common Law mà
không có các khái niệm tương ứng hoàn toàn trong hệ thống Civil Law. Việc
đi sâu vào tìm hiểu hai khái niệm này nhằm để dễ dàng hơn trong việc hiểu
rõ sự khác cũng như giống nhau về đề nghị giao kết hợp đồng ở hai hệ thống
pháp luật cơ bản lớn nhất thế giới này.
Sự phân biệt giữa “unilateral contract” và “bilateral contract” thể hiện
ở vấn đề xác định chủ thể có nghĩa vụ trong hợp đồng. Đối với “bilateral
contract” là tất cả các bên (parties) và đối với “unilateral contract” thì chỉ có
một bên là có nghĩa vụ theo hợp đồng [3, tr. 10]. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì
có thể coi các khái niệm là trùng lắp khi so sánh với các định nghĩa về hợp
đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ như ở trên hay các định nghĩa tại Điều
406, Bộ luật Dân sự 2005 về các loại hợp đồng dân sự chủ yếu. Tuy nhiên,
việc chỉ một bên có nghĩa vụ ở “unilateral contract” phải được hiểu theo
nghĩa: một bên sẽ có nghĩa vụ khi mà người đó đã nhận được một hành động
đáp lại của bên kia theo như lời hứa (promise) mà người đó đã đưa ra. Hình
thức tóm lược của “unilateral contract” là một lời hứa đổi lấy một hành
động. Ví dụ cho trường hợp này mà có thể coi là ví dụ điển hình của
“unilateral contract” đó là mối quan hệ giữa người môi giới bất động sản và
người có nhà muốn bán. Người có nhà hứa hay cam kết sẽ trả cho người môi
giới bất động sản một khoản tiền hoa hồng tính theo phần trăm giá bán nếu

20
ngôi nhà bán được. Tuy nhiên, người chủ ngôi nhà sẽ chỉ phải trả khoản tiền
này cho người môi giới bất động sản khi mà ngôi nhà đã được bán chứ
không phải là việc người môi giới nói là tôi sẽ thực hiện công việc môi giới
và sẽ có người mua ngôi nhà của anh [3, tr. 9]. Đó chính là một lời hứa đổi

lấy một hành động. Bản chất của “unilateral contract” thể hiện chính là ở
điểm này. Ngoài ra, “ Unilateral contract” thường không yêu cầu một sự
chấp nhận phải thể hiện qua lời nói hay văn bản. Điều quan trọng là việc thể
hiện bằng một hành động [2, tr.111]. Đây chính là bản chất của “ unilateral
contract”. “Bilateral contrract” có bản chất là một lời hứa đổi lấy một lời hứa
[2, tr.112]. Có một yêu cầu bắt buộc đối với loại hợp đồng này là lời chấp
nhận phải được chuyển tới người đề nghị giao kết hợp đồng.
Có thể thấy, ngoài việc phân biệt có bao nhiêu bên có nghĩa vụ trong
hợp đồng, trong hệ thống thông luật (Common Law) còn nêu ra hình thức
thể hiện chung đối với hai loại hình hợp đồng cơ bản này. Đối với
“unilateral contract”, việc không cần có sự thể hiện bằng lời nói, mà quan
trọng chính là một hành động được thực hiện. Các bên chỉ hướng vào hành
động, kết quả của hành động làm trọng tâm. Còn lời nói hay cam kết bằng
lời không phải là điều thiết yếu. Đối với “bilateral contract”, ngược lại.
“Bilateral contract” coi trọng hơn về mặt hình thức, coi trọng việc thể hiện ý
chí của hai bên. Họ đều trông mong vào một lời hứa hay chỉ là một lời cam
kết của bên kia. Do vậy, việc thể hiện này yêu cầu đặc biệt là phải có sự giao
tiếp (communication) hay yếu tố “gửi đến” của sự thể hiện ý chí. Từ những
qui định về hai hình thức của lời chấp nhận đối với hai loại hợp đồng này mà
có những quan điểm của thông luật (Common Law) và dân luật (Civil Law)
có sự khác nhau đối với lời đề nghị giao kết hợp đồng.
Bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng, như đã khẳng định, đề nghị là
một hành vi pháp lý đơn phơng. Đề nghị giao kết hợp đồng chỉ luôn là một

21
sự biểu hiện ý chí đơn phương của bên đưa ra đề nghị giao kết. Việc nó có
được chấp nhận hay không, hay đề nghị đó có thể trở thành một hợp đồng
hay không phụ thuộc vào việc hành xử của bên nhận đề nghị. Đề nghị giao
kết hợp đồng, bản thân nó, cũng là một sự thể hiện ý chí của một bên chủ
thể, thể hiện mong muốn của chính bản thân mình đối với một bên chủ thể

khác nhằm có thể tiến tới một hợp đồng. Đối với hệ thống thông luật, việc
phân định bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng không thực sự quan trọng
mà mục tiêu của nó đặt ra đó là việc xác định được như thế nào là một đề
nghị giao kết hợp đồng và điều kiện để nó thoả mãn là một lời đề nghị. Có
thể nhận thấy trong hệ thống thông luật khi đặt ra hai khái niệm “unilateral
contract” và “bilateral contract”, nhà làm luật muốn xác định rõ hơn việc đã
hình thành nên một hợp đồng dựa trên lời đề nghị hay chưa chứ không phải
nhận định bản chất của một đề nghị giao kết hợp đồng.
1.1.3. Phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với lời mời đàm phán.
Việc khó khăn hay tầm quan trọng của việc xác định một lời đề nghị
giao kết hợp đồng là sự phân biệt với một lời mời đàm phán. Việc xác định
về tính ràng buộc hay hiệu lực của chúng đối với các bên giao kết là điểm
mấu chốt của sự phân biệt. Nếu đề nghị giao kết hợp đồng là sự ràng buộc
pháp lý đối với bên đề nghị giao kết hợp đồng thì một lời mời đàm phán hay
một đề nghị đàm phán hợp đồng sẽ chẳng có sự ràng buộc pháp lý nào cả.
“Pháp luật hiện hành không có qui định trách nhiệm dân sự đối với việc
không thực hiện cam kết trong đàm phán (thất hứa)” [9]. Lời mời đàm phán
thường không mang tính pháp lý bởi đàm phán không tồn tại trách nhiệm
pháp lý giữa các bên. Đề nghị giao kết hợp đồng yêu cầu phải có những yếu
tố, những điều kiện thì mới được pháp luật bảo vệ, công nhận. Còn đàm

22
phán không nhất thiết phải tuân thủ các qui định bắt buộc như đối với đề
nghị giao kết hợp đồng.
Có một vài định nghĩa liên quan đến lời mời đàm phán như sau: “Đàm
phán là một cuộc đối thoại nhằm giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn để đa
ra một sự thoả thuận dựa trên những ý định của sự hành động, để thương
lượng cho tập hợp lợi ích mang tính cá nhân, hoặc nhằm thể hiện những
mưu mẹo, mánh khoé để thoả mãn những mục đích, những sự quan tâm
khác. Đây là một phương pháp cơ bản để giải quyết các xung đột của các

bên”; “Lời mời để đàm phán là một cách thể hiện ý chí để tranh luận, đàm
phán. Một người khi lập ra lời mời đàm phán thì không có ý định giao kết
hợp đồng kể cả khi nó được chấp nhận bởi người mà được người này gửi
đến lời đề nghị” [14].
Có ý kiến cho rằng, lời mời đàm phán hợp đồng bao gồm sự biểu hiện
của hàng hóa, lời quảng cáo về giá hoặc những dự định về hợp
đồng…Nhưng lời mời đàm phán không phải là một lời đề nghị giao kết hợp
đồng. Người đưa ra lời mời đàm phán (inviter) thì có thể thay đổi ý định của
mình một cách dễ dàng còn người đưa ra đề nghị không thể thay đổi ý định
một cách tự do và phải chịu những sự ràng buộc, hạn chế nhất định.
Học Viện Tư pháp cho rằng lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu được
bên nhận đề nghị chấp nhận sẽ được coi là một hợp đồng . Do đó, lời đề nghị
giao kết hợp đồng phải đảm bảo những tiêu chí cơ bản để được coi là một
hợp đồng và có thể trở thành một cơ sở để ràng buộc trách nhiệm pháp lý
giữa các bên. Phân biệt giữa đề nghị giao kết hợp đồng và lời mời đàm phán
của Học viện Tư pháp như sau:



23
Đề nghị giao kết hợp đồng
(Điều 390, BLDS 2005)
- Thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng với một bên đã được xác
định cụ thể;
- Thể hiện việc chịu sự ràng
buộc về đề nghị giao kết hợp đồng
đối với bên đã được xác định cụ
thể;
- Chịu sự ràng buộc về trách

nhiệm pháp lý;
Đề nghị đàm phán

- Chỉ gồm những thông tin
chung, chưa cụ thể;
- Chưa thể hiện rõ việc chịu
sự ràng buộc về đề nghị đối với bên
đã được xác định cụ thể;
- Các dạng thường gặp:
quảng cáo, tờ rơi, bản giới thiệu,…
[9]
Lời mời đàm phán hoặc lời mời để đưa ra lời đề nghị còn được hiểu là
một tuyên bố rộng rãi mong muốn chuyển tới nhiều người với mục đích kích
thích sở thích của họ và thu hút những sự phản đáp lại theo ý muốn của
người đưa ra lời mời, chẳng hạn như quảng cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trưng bày hàng hoá tại các cửa hàng…Nếu là một lời mời đàm
phán thì sẽ không có thoả thuận nào được xác lập cho đến khi mà người
nhận được lời mời đàm phán đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng rằng tôi
đồng ý với lời quảng cáo, lời mời đàm phán đó và tất nhiên phải được đáp
lại bởi một sự chấp nhận. Trong một vài truờng hợp, quảng cáo vẫn có thể
được xem như là một lời đề nghị giao kết hợp đồng nếu quảng cáo đó chứa
đựng những lời hứa và thể hiện ý định rõ ràng của người quảng cáo đó, đặc
biệt khi nó giới hạn được số lượng người có thể mua sản phẩm hoặc hàng
hoá đó thì quảng cáo được xem như một lời đề nghị giao kết hợp đồng [2, tr.
110].

24
Vấn đề đàm phán đôi khi có phương thức đặc biệt, ví dụ như: để tiết
kiệm thời gian, mỗi bên đều muốn giao kết hợp đồng với những điều khoản
được dựng sẵn. Một bên gửi văn bản có những điều khoản hợp đồng theo

tiêu chuẩn của họ; và bên kia cũng làm như vậy với những tiêu chuẩn khác
hơn của mình. Vậy đâu là sự thể hiện ý chí được xem là đề nghị giao kết hợp
đồng để có thể phân biệt được đâu là lời chấp nhận đề nghị nhằm xác định
sự ràng buộc hợp đồng giữa các bên? Đây là một vấn đề rất đáng được quan
tâm trong thời đại ngày nay bởi không phải chỉ có một hình thái đơn giản để
có thể đi đến một hợp đồng là đề nghị được chấp nhận trở thành hợp đồng,
mà để có được hợp đồng các bên phải trải qua rất nhiều những công đoạn
khác nhau như: đề nghị giao kết hợp đồng, rồi đề nghị lại giao kết hợp đồng,
tiếp đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, và hình thành hợp đồng; hay
lời mời đàm phán rồi có được đề nghị giao kết hợp đồng, tiếp đến chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng để hình thành hợp đồng… [3, tr. 25].
Theo một số luật gia, để giải quyết được các vấn đề phức tạp nêu
trên, nguyên tắc chung cần được sử dụng là cách thức xác định “phát súng
cuối cùng” (last shot), có nghĩa là mỗi văn bản dự thảo hợp đồng mới được
đưa ra phải được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng mới, bởi vậy, khi một
bên thực hiện hay nhận lấy nghĩa vụ của mình được qui định trong hợp
đồng, thì hành động ấy được coi là chấp nhận đề nghị cuối cùng [3, tr. 25].
Như vậy có thể hiểu rằng: khi quá khó xác định đâu là đề nghị giao kết hợp
đồng bởi có một chuỗi của tiến trình đàm phán như trên thì việc xác định
được dựa vào hành động cuối cùng của các bên.
Qua các phân tích trên, có thể phân biệt lời mời đàm phán với đề nghị
giao kết hợp đồng như sau:
Thứ nhất, mục đích của một lời mời đàm phán là thể hiện một ý chí
không rõ ràng về việc sẽ bị ràng buộc nếu có sự chấp nhận của người nhận

25
được lời mời đàm phán. Đề nghị giao kết hợp đồng thì ngợc lại, sự thể hiện
ý chí này là rõ ràng, và đó chính là sự thể hiện không có yếu tố nào biểu hiện
sự băn khoăn hay không rõ ràng về mong muốn chịu sự ràng buộc này.
Thứ hai, mục đích chính/chủ yếu của lời mời đàm phán đó là tạo nên

một nhu cầu, một sự cuốn hút, lôi cuốn sự chú ý của số đông nhưng nó
không có một giới hạn về số lượng người hay thể hiện một ý định rõ ràng và
chắc chắn của người đưa ra lời mời đàm phán. Mục đích hay mong muốn
của người đưa ra lời mời đàm phán là một cuộc thương lượng rõ ràng, kỹ
càng về một sự thoả thuận mà hai bên có thể sẽ bị ràng buộc. Ví dụ trường
hợp trưng bày sản phẩm ở cửa hàng trong vụ Fisher and Bell (1960) đặt ra
câu hỏi: khi trưng bày một con dao nhíp thì có bị truy cứu trách nhiệm hình
sự hay không vì đó có thể là một vũ khí giết người? Tòa án đã đưa ra phán
quyết là “không” bởi việc trưng bày hàng hoá tại cửa hàng là một lời mời
đàm phán chứ không phải là một lời giao kết hợp đồng [3, tr. 56]. Nhưng
nếu trong quảng cáo bao hàm một ý định rõ ràng, cụ thể thì đó sẽ là một lời
để nghị giao kết hợp đồng. Ví dụ: Vụ Steve Jennings kiện Radio Station
KSCS như sau: “Đài phát thanh quảng cáo rằng, bất kỳ ai nghe được chương
trình mà không phát sóng liền ba bài hát một lúc thì được thưởng 25.000 đô
la Mỹ. Steve Jennings nghe đài và nhận thấy có một chương trình chỉ phát
hai bài hát. Jennings đòi trả số tiền 25.000 đô la Mỹ, nhưng đài phát thanh từ
chối yêu cầu này của Jennings. Toà án đã ra phán quyết Jennings thắng kiện
với lý do mục đích lời hứa của đài phát thanh là làm tăng số lượng thính giả
nghe đài, trong đó có Jennings” [8, tr. 39].
Để có thể hiểu rõ ràng hơn về vấn đề nêu trên, cần phải tìm hiểu học
thuyết “Consideraion” của truyền thống Common Law. Theo truyền thống
pháp luật này, một trong những yếu tố cấu thành nên hợp đồng chính là yếu
tố “ consideration” mà nó được hiểu là một sự biểu hiện một giá trị của một

×