Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Bảo vệ người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng-Thực trạng và giải pháp Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.33 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN ĐẶNG PHƢỚC TÂM





BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN ĐẶNG PHƢỚC TÂM





BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính

xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO
ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG 7
1.1. Khái niệm ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng
và bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng 7
1.1.1. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 7
1.1.2. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng . 14
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc nƣớc ngoài
theo hợp đồng 17
1.2.1. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
nhằm phát huy nhân tố con người, thể hiện tinh thần nhân đạo và đảm
bảo công bằng xã hội 17
1.2.2. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là lực
lượng có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của kinh tế - xã hội
chung của toàn cầu. 18

1.2.3. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã, đang
và sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro 19
1.3. Pháp luật về bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài
theo hợp đồng 20
1.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ người lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng 20
1.3.2. Nội dung và biện pháp bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng 21
1.4. Lƣợc sử pháp luật Việt Nam về bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc
ở nƣớc ngoài theo hợp đồng 26
1.4.1. Giai đoạn năm 1980 – 1994 26
1.4.2. Giai đoạn năm 1994-2006 28
1.4.3. Từ năm 2006 đến nay 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO
ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG 32
2.1. Nội dung bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
theo hợp đồng 32
2.1.1. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng 32
2.1.2. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam trong thời gian đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng 56
2.1.3. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam sau khi làm việc ở
nước ngoài 79
2.2. Biện pháp bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam trƣớc khi đi làm việc ở
nƣớc ngoài theo hợp đồng 81
2.2.1. Biện pháp bảo vệ người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở
nước ngoài 81
2.2.2. Biện pháp bảo vệ người lao động trong thời gian làm việc ở
nước ngoài 85
2.2.3. Biện pháp bảo vệ người lao động sau thời gian làm việc ở nước

ngoài 87
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG 89
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng 89
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ ngƣời
lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng 92
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 92
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 102
KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng và phân bố lao động theo nhu
cầu thị trường đã trở thành hiện tượng tự nhiên, mang tính toàn cầu và tuân
thủ quy luật kinh tế - dòng lao động sống sẽ chuyển dịch tới bất kỳ nơi nào mà
ở đó có mức thù lao cao hơn. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một
chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần phát triển
nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 500.000
lao động đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỗi năm người lao
động gửi về nước hơn 1,6 - 2 tỷ USD [40] và họ đang ngày càng thể hiện
được vai trò quan trọng của mình trong xã hội. Vấn đề bảo vệ người lao động

đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng vì đó mà được Đảng và nhà
nước ta quan tâm rất nhiều.
Công tác bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể tuy nhiên thực tế vẫn còn
vướng nhiều hạn chế, bất cập và tồn tại nhiều điểm nóng như tình trạng người
lao động bị lừa đảo xuất khẩu lao động, bị thu phí dịch vụ, tiền môi giới quá
cao so với quy định, không được giáo dục định hướng trước khi xuất khẩu hoặc
giáo dục định hướng không đến nơi đến chốn, công việc, thời gian, tiền lương
lao động không đúng như trong hợp đồng, tình trạng lao động không có việc
làm hay tình trạng người lao động bị chủ đánh đập, chửi bới, lăng mạ, bị xâm
hại tình dục… Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do hệ thống quy định
pháp luật hiện hành của nước ta còn nhiều sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn,
người lao động thiếu hiểu biết pháp luật, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, cá
nhân đưa người lao động đi làm việc nước ngoài cố tình làm trái quy định pháp
2

luật, việc quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của
các cơ quan quản lý nhà nước còn lỏng lẻo, chưa nghiêm minh.
Từ trước đến nay ít thấy có một tác phẩm nào nghiên cứu toàn diện vấn
đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,
bởi vậy có thể nói việc lựa chọn đề tài nghiên cứu về vấn đề này là điều rất
cần thiết không chỉ nhằm giúp đỡ những người lao động Việt Nam “yếu thế”
đang làm việc nước ngoài mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đảm bảo
mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
Từ những lý do đó mà tôi đã chọn đề tài: “Bảo vệ người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng- Thực trạng và giải pháp ”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu chung về vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài theo hợp đồng chúng ta không thể không tìm hiểu tác phẩm
Lao động di trú trong pháp luật quốc tế và Việt Nam của Khoa Luật,
ĐHQGHN Trung Tâm Nghiên Cứu Quyền Con Người & Quyền Công Dân,
NXB Lao Động - Xã Hội, Hà Nội 2011. Tác phẩm tập hợp các bài viết, công
trình nghiên cứu của các giảng viên Khoa Luật và một số chuyên gia bên
ngoài của về vấn đề bảo vệ lao động di trú nói chung và người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài nói riêng: TS. Lê Thị Hoài Thu , “Pháp luật
hiện hành về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng”; Đặng Nguyên Anh, “Xuất khẩu lao động, một số vấn đề chính
sách và thực tiễn”; Đặng Nguyên Anh, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Trần Thị Bích,
Đào Thế Sơn , “Nghiên cứu đánh giá tác động kinh tế - xã hội của di cư quốc
tế tại Việt Nam”; GS.TS Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao, “Khuân khổ
pháp lý quốc tế về bảo vệ người lao động di trú”, Vũ Công Giao - Lã Khánh
3

Tùng “Bảo vệ người lao động di trú ở Khu vực Đông Nam Á”, Phạm Hồng
Thái - Vũ Công Giao “Khuôn Khổ pháp lý quốc tế về bảo vệ người lao động
di trú”.
Với tính chất là cơ quan chủ quản và quản lý chuyên ngành về vấn đề
bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
khoa học cũng như tổ chức nhiều hội thảo về vấn đề này: Báo cáo tình hình
cho vay đi XKLĐ tại các quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông, 2011;
Báo cáo tình hình lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia, 2009; Hội Thảo
Đối thoại chính sách về bảo vệ quyền lợi của người lao động nữ đi làm việc ở
nước ngoài, Hà Nội
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhiều tác giả đã quan tâm, tìm
hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: Luận án tiến sĩ kinh tế:
“Phát triển Xuất khẩu lao động Việt Nam trong hội nhập kinh tế Quốc tế”,

2010 - Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
- Trường Đại học Kinh tế - Luật; Khoá luận tốt nghiệp: “Thực trạng và giải
pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam” , năm 2010 tác giả: Vũ Thị Vân;
Khóa luận tốt nghiệp: “Xuất khẩu lao động Việt Nam- thực trạng và triển
vọng 2010”, năm 2003 tác giả: Lê Văn Tùng, Các nghiên cứu này chủ yếu
nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam, phản ánh thực trạng
quy định pháp luật trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài và đưa ra được rất nhiều biện pháp hoàn thiện pháp luật về đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Như chúng ta đã biết thì xuất khẩu lao động là một đề tài nóng, trên
nhiều phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều bài viết, bài bình luận về
vấn đề này, tuy nhiên đến nay số lượng các công trình nghiên cứu toàn diện,
4

sâu sắc vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo
hợp đồng theo từng giai đoạn của tiến trình di cư rất ít. Vì vậy việc lựa chọn
đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn như
một sự bổ sung cần thiết và khoa học Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích:
Khái quát pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về
bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong từng giai đoạn người
lao động đi làm việc ở nước ngoài để từ đó tìm ra các vướng mắc, bất cập để
đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ người lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng đáp ứng các yêu cầu trong thời kỳ hội nhập.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc bảo vệ người lao động Việt Nam

đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Khái niệm người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng và bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng, Sự cần thiết phải bảo vệ người lao động đi làm việc
nước ngoài theo hợp đồng, pháp luật về bảo vệ người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, lược sử pháp luật Việt Nam về bảo vệ người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật quy định và thực tiễn áp
dụng pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng trong từng giai đoạn của tiến trình di cư, đã có những bước tiến
bộ gì và đang còn những tồn tại nào.
+ Đưa ra các biện pháp hoàn thiện các quy định pháp luật và các kiến
5

nghị về việc thực hiện pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng kết hợp những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta cũng như các quy định pháp luật về bảo
vệ người lao động nói chung và bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng nói riêng và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
nin. Phương pháp phân tích, hệ thống được tác giả sử dụng xuyên suốt trong
quá trình thực hiện đề tài để đánh giá, nhận xét các quy định pháp luật cũng
như thực tiễn pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so
sánh, thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển, tiến bộ cũng
như hạn chế còn tồn tại của các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng
nguyên tắc.
5. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận về bảo vệ
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thực trạng

quy định và thực hiện pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng trong từng giai đoạn của quá trình đi làm việc ở
nước ngoài; các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và các biện pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật bảo vệ quyền người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những đóng
góp nhất định vào việc nghiên cứu lập pháp và hành pháp về bảo vệ người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nhất là trong thời kỳ
hội nhập.
6

- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu
cho sinh viên, học sinh.
- Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm đến
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luật và Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐI

LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG

1.1. Khái niệm ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng và
bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, di cư lao động quốc
tế đã trở thành một trong những vấn đề lớn của thời đại. Theo ước tính của các
cơ quan Liên Hợp quốc, hiện trên thế giới có gần 200 triệu người lao động di
trú, chiếm khoảng 3% dân số toàn cầu, và con số này vẫn đang ngày càng tăng
lên cùng với sự phát triển của dân số và khả năng giải quyết việc làm của mỗi
quốc gia.
Tình trạng di trú vì việc làm góp phần làm năng động hóa các hoạt động
kinh tế của thế giới nói chung, nền kinh tế quốc gia nói riêng cũng như cho
nhiều người lao động, gia đình. Tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn nhiều khó khăn,
thách thức mà các Chính phủ và người lao động di trú khắp nơi phải đối mặt.
Đây là một bất công có tầm vóc toàn cầu, bởi lao động di trú là lực lượng đã
và đang có những đóng góp to lớn và không thể phủ nhận với nền kinh tế và
sự thịnh vượng xã hội của cả nước tiếp nhận và nước gốc [22, tr3]. Để có cái
nhìn khái quát nhất về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng trước hết chúng ta sẽ đi tìm hiểu thế nào là người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, cách phân loại và đặc điểm của người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ra sao.
1.1.1. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Có nhiều thuật ngữ để chỉ những người lao động ra nước ngoài làm việc
như “người lao động di trú”, “lao động di cư”, “người di trú vì việc làm”,
“người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” và theo thời gian,
8

các quan điểm của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia về người lao động đi
làm việc ở nước ngoài cũng có nhiều thay đổi, bổ sung. Mỗi một quốc gia
khác nhau thì việc công nhận một người là người lao động đi làm việc ở nước

ngoài cũng khác nhau.
Quan niệm về người lao động đi làm việc ở nước ngoài lần đầu tiên
được quy định tại Điều 11 Công ước 97 của ILO năm 1949, khi đó ILO đã sử
dụng thuật ngữ người di trú vì việc làm để hàm chỉ nhóm người này. Theo đó,
người di trú vì việc làm được hiểu là một người di cư từ một quốc gia này tới
quốc gia khác để tìm kiếm việc làm bao gồm bất kỳ người nào được tuyển
dụng một cách lâu dài như là một người di trú vì việc làm. Khái niệm này
không bao hàm: những lao động qua lại các vùng biên giới, những nghệ sĩ và
người có chuyên môn hành nghề tự do đến làm việc ở nước khác trong thời
gian ngắn và các thủy thủ. Với cách giải thích đó, ILO quan niệm người lao
động đi làm việc ở nước ngoài khá rộng, không đặt ra vấn đề người di trú có
quốc tịch hay không, sự di chuyển có cần xuất phát từ nước gốc hay không,
việc sinh sống và làm việc ở nước ngoài là có thời hạn hay không có thời hạn.
Chính vì quan niệm một cách khái quát và chung chung như vậy đã khiến cho
việc quản lý cũng như bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài thời kỳ
này gặp khó khăn hơn và trên thực thế khó được thực hiện vì vấn đề quốc tịch
không được đặt ra. Bởi quốc tịch là trạng thái pháp lý thể hiện mối quan hệ
giữa công dân một nhà nước xác định, quốc tịch cho phép người lao động đi
làm việc nước ngoài quyền được bảo vệ bởi nhà nước nơi họ có quốc tịch khi
tham gia quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài.
Kế thừa và phát huy quan niệm của ILO, năm 1990, Liên Hợp quốc đã
cụ thể hóa khái niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong Công ước
quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ
(Viết tắt: MWC). Liên Hợp quốc gọi những người lao động đi làm việc nước
9

ngoài là “lao động di trú”, “lao động di trú” được định nghĩa là một người
đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người
đó không phải là công dân (Khoản 1 Điều 2 MWC).
Khái niệm này khẳng định đi làm việc ở nước ngoài là cả một quá trình

từ chuẩn bị lên đường, trên đường sang nước ngoài, trong thời gian làm việc ở
nước ngoài và cả sau thời làm việc ở nước ngoài. Người lao động đi làm việc
ở nước ngoài không chỉ có những người đang làm việc ở nước ngoài mà còn
bao gồm cả những người chuẩn bị, trên đường sang nước ngoài, và những
người đã hồi hương, đây cũng chính là những đối tượng cần được bảo vệ.
Quan niệm này đã giúp các tổ chức quốc tế, các quốc gia liên quan dễ dàng đề
ra các biện pháp bảo vệ người lao động thích hợp cho giai đoạn.
Khái niệm của Liên Hợp quốc đã đề cập đến vấn đề quốc tịch của người
lao động. Người không quốc tịch, không chịu sự ràng buộc nghĩa vụ pháp lý
và được hưởng sự bảo vệ của một quốc gia thì không được coi là người lao
động đi làm việc nước ngoài, đi làm việc nước ngoài ở đây được hiểu là đi
làm việc tại nước mà người lao động không phải là công dân.
Liên Hợp quốc còn quan niệm mục đích di cư sang nước khác của
người lao động phải là vì tìm kiếm việc làm, hưởng lương ở một quốc gia
khác trong một khoảng thời gian nhất định. Quan điểm mục đích tìm kiếm
việc làm và hưởng lương tại quốc gia khác là để loại trừ những đối tượng di
cư ra nước ngoài vì những mục đích khác như học tập, nghiên cứu, du lịch,
tránh nạn, làm từ thiện, từ đó đưa ra biện pháp bảo vệ phù hợp nhất với
nhóm đối tượng này. Việc xác định thời hạn làm việc của người lao động ở
nước ngoài cũng là nhằm để loại trừ những đối tượng đi làm việc và định cư
luôn ở nước ngoài.
Dựa trên tình trạng pháp lý của việc cư trú và lao động, Liên Hợp quốc
đã chia người lao động đi làm việc ở nước ngoài thành hai loại là: người lao
10

động di trú có giấy tờ hợp pháp (hay lao động di trú hợp pháp) và người lao
động di trú không có giấy tờ (hay lao động di trú bất hợp pháp), trong đó
người lao động di trú hợp pháp là những người được một nước cho phép vào,
ở lại và được làm một công việc được trả lương tại quốc gia đó, còn người lao
động di trú bất hợp pháp thì không được trao các quyền tương tự. Để làm rõ

khái niệm người lao động di trú, Liên Hợp quốc còn liệt kê và định nghĩa
những đối tượng được coi là lao động di trú và những đối tượng không được
coi là lao động di trú dựa trên tính chất nghề nghiệp. Theo đó, những đối
tượng được coi là lao động di trú (Khoản 2 Điều 2 MWC) gồm 8 dạng: Nhân
công vùng biên, Nhân công theo mùa, Người đi biển (bao gồm cả ngư dân),
Nhân công làm việc tại một công trình trên biển, Nhân công lưu động, Nhân
công theo dự án, Nhân công lao động chuyên dụng, Nhân công tự chủ.
Những đối tượng không được coi là lao động di trú (Điều 3 MWC), bao
gồm 6 dạng chính: Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan và
tổ chức quốc tế, hoặc những người được cử hoặc được tuyển dụng bởi một
nước sang một nước khác để thực hiện các chức năng chính thức mà việc
tuyển dụng người đó và địa vị của người đó được điều chỉnh bởi pháp luật
quốc tế chung hoặc các hiệp định hay công ước quốc tế cụ thể; Những người
được cử hoặc tuyển dụng bởi một nước hoặc người thay mặt cho nước đó ở
nước ngoài tham gia các chương trình phát triển và các chương trình hợp tác
khác mà việc tiếp nhận và địa vị của người đó được điều chỉnh theo thỏa
thuận với quốc gia nơi có việc làm và theo thỏa thuận này, người đó không
được coi là người lao động di trú; Những người sống thường trú ở một nước
không phải quốc gia xuất xứ để làm việc như những nhà đầu tư; Những người
tị nạn và không có quốc tịch; Sinh viên và học viên; Những người đi biển hay
người làm việc trên các công trình trên biển không được nhận vào để cư trú và
tham gia vào một công việc có hưởng trả lương ở quốc gia nơi có việc làm.
11

Nếu so sánh với khái niệm trước đây về người lao động đi làm việc
nước ngoài thì khái niệm được nêu trong Công ước của Liên Hợp quốc mang
tính chất cụ thể hơn và giới hạn phạm vi các đối tượng được coi là người lao
động đi làm việc nước ngoài hơn.
Theo pháp luật Việt Nam, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo

quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động, đi
làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài (Khoản 1 Điều 3 Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng).
Quy định trên khẳng định người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải
là người có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, nghĩa là nếu một công
dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài và sau đó sang quốc gia thứ ba khác
để làm việc thì sẽ không được coi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Điều kiện “cư trú tại Việt Nam” cho thấy việc di cư ra nước ngoài của người
lao động phải xuất phát từ quốc gia mà người lao động mang quốc tịch. Đây là
cách định nghĩa theo quan điểm của một quốc gia gửi lao động, vì thế so với
khái niệm mà Liên Hợp quốc đưa ra thì những đối tượng được coi là người lao
động đi làm việc ở nước ngoài của Việt Nam có phạm vi hẹp hơn, vì Liên
Hợp quốc chỉ quy định “tại quốc gia mà người đó không phải là công dân” mà
không quan niệm người đó trước khi làm việc ở nước ngoài họ cư trú ở đâu
một cách bao quát dưới góc độ nhìn nhận của cả quốc gia gửi lao động và
quốc gia tiếp nhận lao động.
Việc di cư ra ngước ngoài của người lao động Việt Nam phải hợp pháp,
phải được sự công nhận của Việt Nam và quốc gia tiếp nhận. So với quan
điểm của Liên Hợp quốc thì nhóm đối tượng này thuộc dạng “lao động di trú
có giấy tờ” (lao động di trú hợp pháp). Quan niệm vậy nhằm quản lý tốt hơn
12

luồng di cư lao động của quốc gia mình nhưng lại bỏ sót và chưa đề cao trách
nhiệm quốc gia trong việc bảo vệ công dân thuộc nhóm lao động di trú bất
hợp pháp. Như vậy, xét về nội hàm, khái niệm người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng của Việt Nam hẹp hơn khái niệm “người lao động
di trú” mà Liên Hợp quốc đã nêu.
Khác với cách phân loại người lao động đi làm việc ở nước ngoài của
Liên Hợp quốc, các nhà luật gia Việt Nam đã phân loại người lao động đi làm

việc ở nước ngoài theo 4 hình thức hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài: Người
lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp
được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với doanh nghiệp trúng thầu,
nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng ký với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực
tập nâng cao tay nghề; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng cá nhân.
Việc phân loại người lao động đi làm việc ở nước ngoài dựa vào hình
thức và đối tượng ký kết hợp đồng trên chủ yếu nhằm mục đích quản lý các
đối tượng được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sàng lọc
tính hợp pháp của hợp đồng mà người lao động đã ký để có cơ chế bảo vệ họ
cho phù hợp. Tuy nhiên, vì quan niệm người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng là “lao động di trú hợp pháp” nên việc phân loại trên
không thể hiện được rõ sự khác nhau về bản chất của từng nhóm người lao
động đi làm việc ở nước ngoài đó, quyền và lợi ích họ được hưởng là như
nhau, cơ chế bảo vệ họ là giống nhau.
Nhằm tiến gần hơn với quan niệm Liên Hợp quốc và đạt được mục đích
13

quản lý và bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
chúng ta có thể định nghĩa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng như sau: Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau
đây gọi tắt là người lao động đi làm việc ở nước ngoài) là một người đã, đang
và sẽ làm một công việc trong một khoảng thời gian nhất định có hưởng lương
tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trước hết phải
đáp ứng các điều kiện chung của một người lao động khi tham gia quan hệ

pháp luật lao động, đó là có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi
lao động. Năng lực pháp luật của người lao động được đồng thời cả quốc gia
gửi lao động và quốc gia tiếp nhận lao động ghi nhận có quyền xuất cảnh,
nhập cảnh, quyền được làm việc ở nước ngoài, quyền được hưởng các lợi ích
và thực hiện các nghĩa vụ trong quan hệ lao động, Năng lực hành vi lao
động là khả năng bằng chính hành vi của bản thân, người lao động tham gia
trực tiếp vào quan hệ pháp luật lao động ở nước ngoài, tự hoàn thành mọi
nhiệm vụ để được hưởng quyền lợi. Năng lực hành vi lao động được thể hiện
trên hai yếu tố có tính chất điều kiện là thể lực và trí lực.
Thể lực chính là sức khỏe của người lao động để có thể thực hiện được
một công việc nhất định ở nước ngoài theo yêu cầu của chủ sử dụng. Thông
thường các quốc gia sẽ không tiếp nhận những lao động mắc các bệnh truyền
nhiễm như HIV, Viêm gan A, B, C, bệnh răng miệng, và các chủ sử dụng
nước ngoài ưa chọn những lao động có ngoại hình cao ráo, gương mặt sáng
sủa, tác phong nhanh nhẹn, chịu khó, có sức khỏe tốt, bền bỉ, trong khoảng
độ tuổi từ 18 đến 45. Trí lực là khả năng nhận thức của người lao động đối với
hành vi lao động mà họ thực hiện và với mục đích công việc mà họ làm, đó là
khả năng lựa chọn công việc phù hợp, khả năng lựa chọn thị trường lao động
muốn tham gia, khả năng tự chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình ở quốc
14

gia tiếp nhận, Muốn có năng lực hành vi lao động, người lao động đi làm
việc ở nước ngoài phải trải qua quá trình phát triển cơ thể và có quá trình tích
lũy kiến thức ngoại ngữ, trình độ tay nghề, trình độ hiểu biết về đất nước, con
người và môi trường lao động của quốc gia mà mình muốn đến làm việc.
Ngoài những điều kiện chung nêu trên, người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng còn có những điểm đặc thù khác, đó là:
- Tính chất quốc tế của việc làm và lao động
Khi đi làm việc nước ngoài, người lao động “bán” sức lao động của
mình cho chủ sử dụng nước ngoài theo hợp đồng lao động đã ký kết. Nên

quan hệ mua - bán sức lao động ở đây là quan hệ lao động có yếu tố nước
ngoài, ngoài sự điều chỉnh của pháp luật nước gửi lao động thì người lao động
còn chịu sự chi phối bởi pháp luật, các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội và
phong tục tập quán của nước sở tại và các điều ước quốc tế, thỏa thuận song
phương mà quốc gia tiếp nhận lao động và quốc gia gửi lao động tham gia.
- Đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Công việc mà người lao động làm ở nước ngoài là công việc có thời
hạn, thời hạn làm việc được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng. Thời hạn làm
việc ở nước ngoài cũng chính là thời hạn cư trú hợp pháp của người lao động
được quốc gia tiếp nhận lao động công nhận và bảo vệ. Đặc điểm này giúp
chúng ta phân biệt với những người sống thường trú và làm việc tại quốc gia
họ không mang quốc tịch để làm việc, những người được cử hoặc tuyển dụng
bởi các cơ quan và tổ chức quốc tế, … Vì vậy, cam kết về nước đúng thời hạn
là một trong những điều khoản quan trọng được đặc biệt lưu ý trong hợp đồng
nhằm tránh tình trạng hết hạn hợp đồng mà người lao động không về nước, ở
lại cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài.
1.1.2. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Theo đánh giá của các chuyên gia, người lao động đi làm việc ở nước
15

ngoài thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, dễ bị bóc lột và bị xâm phạm
nhất, công việc mà họ làm là “ở nước ngoài” nên nhiều khi họ bị cả quốc gia
mình và cả quốc gia tiếp nhận “lãng quên”, “từ chối”, vì vậy bảo vệ người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không chỉ là nhiệm vụ của riêng
một quốc gia, tổ chức, cá nhân nào cả mà đó còn là hành động tích cực của cả
cộng đồng quốc tế. Các quốc gia gửi lao động và quốc gia tiếp nhận lao động
luôn là những chủ thể tiên phong, có trách nhiệm chủ yếu nhất trong việc bảo
vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, vì tính chất phức tạp
của việc di trú quốc tế nên các chủ thể khác ít liên quan hoặc không liên quan
như: quốc gia trung chuyển mà người lao động đi qua để đến quốc gia làm

việc hoặc để về nước, quốc gia khác cũng đang có lao động làm việc tại quốc
gia tiếp nhận lao động, cá nhân, cộng đồng quốc tế, cũng là những chủ thể
có vai trò quan trọng trong việc gây sức ép đối với các quốc gia liên quan phải
thực hiện các biện pháp bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài không phải chỉ khi nào
người lao động bị xâm phạm, bị đối xử thậm tệ thì các quốc gia, cơ quan chức
năng mới lên tiếng mà ngay trong cả điều kiện làm việc bình thường, ổn định
họ cũng cần được bảo vệ, bảo vệ để duy trì trạng thái bình thường, ổn định đó,
để vừa phòng ngừa những nguy cơ có thể xảy ra, vừa phát huy hơn nữa những
nhân tố tích cực, thuận lợi hơn cho người lao động nhằm mục đích đẩy mạnh
hoạt động hợp tác lao động quốc tế lành mạnh nói riêng và quá trình toàn cầu
hóa nói chung. Bởi vậy, có thể khái niệm bảo vệ người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng như sau:
Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là việc
các quốc gia, tổ chức, cá nhân (trước hết là các quốc gia, tổ chức, cá nhân
liên quan) thực hiện các biện pháp cụ thể vừa để duy trì thực hiện, phát huy
những quyền và lợi ích chính đáng vừa hạn chế những bất lợi, rủi ro và nguy
16

cơ khác cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Tương tự như việc bảo vệ người lao động nói chung, bảo vệ người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải thực hiện một cách toàn
diện, trên mọi phương diện: việc làm, thu nhập, tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm danh dự, cuộc sống, Tuy nhiên, do xuất phát từ những nét đặc thù của
nhóm đối tượng này nên việc bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng còn phải đáp ứng những yêu cầu riêng, như:
- Việc bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
phải được thực hiện trong suốt quá trình di cư lao động.
Bất kể giai đoạn nào của tiến trình di cư, quyền lợi của người lao động
đều có thể bị xâm phạm. Trước khi đi làm việc ở nước ngoài, họ có thể bị kẻ

xấu lừa đảo, bị thu phí cao, bị ép buộc ra nước ngoài làm việc, ; trên đường
đi sang nước ngoài, họ có thể gặp tai nạn, rủi ro, bị bắt cóc, bỏ rơi giữa
đường ; khi làm việc ở nước ngoài họ bị chủ sử dụng lao động ngược đãi, vi
phạm hợp đồng lao động, khi hồi hương thì gặp khó khăn trong cuộc sống, bị
thất nghiệp, bị chính quyền và xã hội bỏ rơi, Mỗi giai đoạn di cư, người lao
động phải đối mặt với những nguy cơ và rủi ro khác nhau vậy nên mỗi một
giai đoạn của tiến trình di cư có những biện pháp bảo vệ khác nhau và trách
nhiệm bảo vệ người lao động của các chủ thể khác nhau.
- Việc bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
phải dựa trên cơ sở hợp tác, thiện chí của quốc gia gửi lao động, quốc gia
tiếp nhận lao động và hỗ trợ của cộng đồng, tổ chức quốc tế.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là một bên
trong quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quyền tài phán đối với quan hệ
lao động này nhiều trường hợp vượt ra ngoài phạm vi của quốc gia gửi lao
động nên việc bảo vệ họ không chỉ phụ thuộc riêng rẽ bất cứ một quốc gia nào
mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ hợp tác giữa quốc gia đó với
17

quốc gia tiếp nhận lao động, vào cộng đồng quốc tế.
Đây có thể nói là điểm đặc thù nhất của việc bảo vệ người lao động đi
làm việc ở nước ngoài so với việc bảo vệ người lao động làm việc trong nước.
Người lao động làm việc và hưởng lương trong nước, họ nhận được sự bảo vệ
một cách trực tiếp và nhanh chóng bởi nhà nước của mình. Nhà nước có thể
dễ dàng sử dụng tối đa quyền lực của mình để bảo vệ người lao động hễ mỗi
khi quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm, đồng thời, việc phản ánh thông
tin bị xâm phạm của người lao động đến các cơ quan có thẩm quyền trong
nước cũng sẽ diễn ra nhanh chóng hơn so với một người lao động đang làm
việc ở nước ngoài. Đa phần quốc gia gửi lao động chỉ thực hiện tốt công tác
bảo vệ người lao động của mình trong giai đoạn đầu chuẩn bị ra nước ngoài
làm việc và giai đoạn hồi hương còn giai đoạn người lao động đang làm việc ở

nước ngoài bị bỏ ngỏ, hoặc sự nỗ lực bảo vệ người lao động gặp thất bại do
vấn đề chủ quyền quốc gia. Thế nên có thể nói việc bảo vệ người lao động đi
làm việc ở nước ngoài khó khăn, phức tạp hơn nhiều so với việc bảo vệ các
nhóm đối tượng người lao động khác và cần sự hỗ trợ, hợp tác tích cực của cả
tổ chức, cộng đồng quốc tế.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc nƣớc ngoài theo
hợp đồng
1.2.1. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm
phát huy nhân tố con người, thể hiện tinh thần nhân đạo và đảm bảo công
bằng xã hội
Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không
nằm ngoài mục tiêu bảo vệ con người, phát huy nhân quyền và đảm bảo công
bằng xã hội. Trong quan hệ lao động, người lao động nói chung luôn đứng ở
vị trí yếu thế hơn, vì đồng lương vì cuộc sống người lao động khó có điều kiện
thỏa thuận bình đẳng thực sự với chủ sử dụng lao động mà buộc phải chấp
18

nhận những điều kiện lao động, môi trường làm việc không thuận lợi. Chính
sự lệ thuộc đó mà người lao động bị lạm dụng, bị xâm phạm nghiêm trọng.
Bảo vệ quyền được sống, được lao động và được hưởng thụ lành mạnh vừa là
nhiệm vụ và cũng chính là mục tiêu tối thượng của mọi xã hội để thu hẹp bớt
sự cách biệt này đến một mức có thể chấp nhận được. Thấm nhuần tư tưởng
này các quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế đã pháp điển hóa việc bảo
vệ người lao động thành nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật quốc gia và
các điều ước quốc tế.
1.2.2. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là lực lượng
có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của kinh tế - xã hội chung của
toàn cầu.
Lao động di cư đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế
- xã hội chung của toàn thế giới, thể hiện trực tiếp và rõ nhất đối với nền kinh

tế - xã hội của nước gửi lao động và nước tiếp nhận lao động. Cụ thể là:
* Đối với quốc gia gửi lao động:
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có những đóng góp sau:
- Đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội nhờ lượng
kiều hối chuyển về nước hàng năm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì hầu hết
người lao động khi trở về nước, mang theo tài chính và kỹ năng thu thập được
khi ở nước ngoài thường có xu hướng chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang
sản xuất thương mại.
- Giải quyết nạn thất nghiệp cho hàng triệu người lao động và tạo việc
làm cho cả các doanh nghiệp, trung tâm giới thiệu việc làm, các trường đào
tạo khi tham gia thực hiện chương trình đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài. Từ đó góp phần giải quyết ổn thỏa các hệ lụy của vấn nạn thất
nghiệp (mất trật tự xã hội, an ninh - quốc phòng).
- Góp phần phát triển nguồn nhân lực quốc gia thông qua hoạt động đào
19

tạo, đào tạo lại và quá trình tích lũy kinh nghiệm, trình độ khoa học kỹ thuật của
các quốc gia tiếp nhận lao động. Họ chính là lực lượng chuyển giao công nghệ,
khoa học kỹ thuật nhanh nhất và hiệu quả nhất của quốc gia gửi lao động.
- Thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại (tài chính, tín dụng, xuất khẩu
hàng hóa, ), và nâng cao năng lực cạnh tranh sức lao động trên trường quốc
tế. Họ còn là cầu nối giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc, nâng cao vị trí chính trị và uy tín của quốc gia gửi lao động trên
trường quốc tế.
* Đối với quốc gia tiếp nhận lao động:
- Giải quyết tình trạng khan hiếm, thiếu hụt lao động, giảm căng thẳng
cung - cầu trên thị trường lao động, nhất là trong những công việc mà người
lao động bản xứ không muốn làm như công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc
hại, công việc có thu nhập thấp,
- Tiết kiệm các chi phí đầu tư ban đầu (nuôi dưỡng, đào tạo công dân

nước mình đến độ tuổi lao động) cho người lao động.
- Góp phần phát triển kinh tế và tích lũy xã hội thông qua các khoản
đóng góp của lao động nước ngoài như: thuế thu nhập, phí bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và các loại phí khác
Vậy bảo vệ người lao động là rất cần thiết để đảm bảo công bằng đối
với những đóng góp to lớn của người lao động đi làm việc ở nước ngoài nhằm
hướng đến một xã hội công bằng và dân chủ thực sự.
1.2.3. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã, đang và
sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro
Đi làm việc ở nước ngoài có nghĩa là người lao động phải sống xa gia
đình, xa quê hương, tổ quốc, xa những người hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ
mình, chính vì vậy họ rất dễ bị bóc lột, bị phân biệt đối xử và xâm phạm các
quyền [29, tr13]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những nguy cơ phổ biến mà

×