Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 88 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






LÊ THỊ TUYẾT CHINH



“PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM”






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Hà Nội – 2014



2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ TUYẾT CHINH



PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung



Hà Nội - 2014


3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY
HÔN 6
1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất 6
1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn 11
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng 13
1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng 17
1.3.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng 26
1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn 29
1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn 34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 37
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn. 37
2.1.1. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất 38
2.1.2. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê đất 41
2.1.3. Đối với quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung,
nhận thế chấp trong thời kỳ hôn nhân. 45
2.1.4. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất 47
2.1.5. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất 48
2.2. Tình hình chung của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn ở Việt Nam 59

2.2.1. Những thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật 61

4
2.2.2. Những khó khăn phát sinh khi áp dụng pháp luật hiện hành 63
2.2.3. Nguyên nhân chủ yếu khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất 65
CHƢƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 71
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện quy phạm pháp luật 71
3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ chồng ly hôn. 73
3.3. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai 76
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80




















5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong tài liệu luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

















6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia. Sự gia tăng về dân số
cũng như sự phát triển về kinh tế đã làm cho những tranh chấp phát sinh về vấn đề
đất đai ngày càng nhiều, các quan hệ về đất đai ngày càng phong phú, đa dạng và
phức tạp.
Tranh chấp đất đai tiếp tục là vấn đề phức tạp và ngày càng phổ biến ở Việt
Nam. Vì thế mà các quan hệ về đất đai cần phải có những chế định pháp luật điều
chỉnh nhằm ổn định trật tự chung trong xã hội. Đặc biệt cần phải xem xét việc giải
quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai
trò trong đời sống xã hội.
Tranh chấp đất đai trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một loại tranh chấp
phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai trong lĩnh vực này
hiện nay đang khó khăn và cũng là khâu yếu trong công tác giải quyết các tranh
chấp về đất đai. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phân
chia đất đai trong vấn đề ly hôn; trên cơ sở đó đề ra đường lối giải quyết các tranh
chấp này một cách tương đối cụ thể để lành mạnh hoá quan hệ đất đai; mang lại
niềm tin cho xã hội là việc làm rất cần thiết.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng kéo theo đó là thực tế xã hội
ngày càng phức tạp khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn gặp nhiều biến động. Điều đó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
ích của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng.
Luật đất đai năm 2003 cùng các văn bản pháp luật khác như Luật nhà ở năm

2005, Luật hôn nhân gia đình năm 2000… ở nước ta là cơ sở cho công tác giải

7
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn được thuận lợi. Tuy nhiên
thực tế nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp về vấn đề này còn gặp nhiều khó
khăn, phức tạp.
Ở địa phương việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly
hôn gặp nhiều khó khăn. Mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân không nắm vững
pháp luật; hay do các cán bộ Nhà nước có trách nhiệm giải quyết tranh chấp không
thực hiện đúng thẩm quyền, trình độ chưa bắt kịp với thực tế cuộc sống, hệ thống
pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập
Theo thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2010, nước ta có gần
88.000 vụ ly hôn, tăng hơn 9.700 vụ so với năm 2009. Theo một kết quả nghiên cứu
được công bố năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và chiếm 31% - 40%,
nghĩa là cứ ba cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Nhưng dù cho ly hôn vì lý do gì
thì khi phân chia tài sản, đặc biệt là đất đai (tài sản có giá trị lớn) luôn được các bên
quan tâm. Vì thế đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh các mối quan hệ này sao cho phù
hợp với nhu cầu của xã hội.
Với mục đích nghiên cứu, làm rõ những quy định về giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn; tìm hiểu và đóng góp một phần hiểu biết
của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Tôi đã chọn đề tài: “Pháp
luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam”
làm luận văn thạc sỹ của mình.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành kinh tế, luận
văn này bao gồm những quy định về lý luận, thực tiễn có liên quan đến áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam
với tư cách là một hình thức cụ thể, chủ yếu và sinh động của hoạt động áp dụng

pháp luật. Luận văn khái quát những vấn đề chung trong việc áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam để thấy

8
được những khó khăn, bất cập đang tồn tại. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận
xét cũng như đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập ấy.
Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn trong khoảng thời gian từ năm 2008
đến năm 2012 tại Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh về
những vấn đề liên quan đến đề tài như: Tác giả Trần Hoàng Châu, “Tranh chấp đất
đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Luật
– Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Tác giả Phạm Đức Thắng, “các vấn đề về
giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân – Khoa Luật
– Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001 Những luận văn này tuy đã được nghiên
cứu từ cách đây khá lâu nhưng những vấn đề lý luận của luận văn vẫn mang ý nghĩa
sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai luôn là chủ đề được xã hội quan tâm,
đặc biệt những năm gần đây rất nhiều tác giả nghiên cứu và viết về vấn đề này như:
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”, luận văn thạc sỹ luật học - Khoa
Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; TS. Doãn Hồng Nhung (2009), “Pháp luật
đất đai và vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 23(160) tháng 12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), Bài viết
“quyền về đất đai của phụ nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép”, Phụ nữ Việt
Nam, 44 (3779), tr.14; Tác giả Hoàng Thị Thái Hoa (2005), vấn đề ly hôn – nhìn từ
sự tác động của yếu tố văn hóa truyền thống, thông tin khoa học phân viện nghiên
cứu văn hóa thông tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang 59-71; Tác giả Lê Thị Tuyết
Chinh (2010), “giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn”, luận

văn cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin: trong khóa luận này, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm thông tin qua các tài liệu được lưu trữ trong

9
thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia
Hà Nội với một số luật của các nước trên thế giới và các tài liệu trên mạng internet
và các phương tiện thông tin đại chúng …
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân chia cái toàn thể của đối tượng
nghiên cứu thành những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu
phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó và từ đó hiểu rõ hơn
về từng khía cạnh của vấn đề. Tổng hợp những kết quả nghiên cứu từng mặt, từng
khía cạnh để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung. Hai phương pháp này được
sử dụng song song để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu. Từ đó đưa ra
những nhận định đúng đắn để giúp cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả tốt.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: hai phương pháp nghiên cứu này tuy
trái ngược nhau nhưng lại là một phần không thể thiếu của nhau. Chúng hỗ trợ nhau
và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Phương pháp quy nạp và diễn dịch được sử dụng
chủ yếu trong chương I của luận văn để lý giải những nguyên tắc, nguyên lý, giả
thuyết, kết luận, định nghĩa, khái niệm …
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chung
nhất trong công tác nghiên cứu. Luận văn vận dụng phương pháp này trong việc xem
xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng
ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể và các mối quan hệ khác.
Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp thu thập số liệu, xử lý thông tin, thống kê, phân tích, so sánh… nhằm
đưa ra được những thông tin, số liệu chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho
công tác nghiên cứu bám sát với thực tiễn đời sống.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam. Qua đó thấy được
những nguyên nhân chủ yếu (chủ quan và khách quan) dẫn đến những tranh chấp
này, từ đó đưa ra những biện pháp ngăn chặn và phương pháp giải quyết khi
tranh chấp xảy ra.

10
Trên cơ sở đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm bảo việc áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly
hôn đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cũng như đáp
ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển hiện nay.
7. Bố cục luận văn bao gồm:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm
có 3 chương:
CHƢƠNG 1 – Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
CHƢƠNG 2 – Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn
CHƢƠNG 3 – Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu sót, vì
vậy tác giả rất mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá góp ý để có thêm kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ chồng ly hôn và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung.











11
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi nhiều mâu
thuẫn đan xen lẫn nhau. Để thấy rõ một cách toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản
về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ta phải xem xét nó nằm ở vị
trí nào trong các dạng tranh chấp đất đai phổ biến hiện nay và nó có vai trò như thế
nào trong các quan hệ pháp luật cũng như trong xã hội.
Tranh chấp đất đai có thể được chia thành hai loại lớn, đó là tranh chấp mà
trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp và
tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp
chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong
dạng tranh chấp này luôn luôn có sự tranh chấp giữa các bên về quyền quản lý,
quyền sử dụng một diện tích nào đó hoặc một phần trong diện tích đó. Việc xác
định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất tranh chấp đó là trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể chia thành các dạng như sau:
- Thứ nhất: Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về
địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xuyên xảy ra giữa người ở hai tỉnh,
hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có
địa giới hành chính không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở
những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý hiếm. Cùng với việc chia tách các đơn vị hành
chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương

đối nhiều.
- Thứ hai: Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất: thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có
nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do

12
nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sử dụng nữa. Bây giờ những
người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp. Trong dạng tranh
chấp này có những dạng sau:
+ Một là: Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác
nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách
ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc
biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập
thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập
trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung Ương 10/TW năm 1988,
đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất
đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như chia đất sản xuất cho
những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê,
trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp
tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện
chính sách nhường cơm xẻ áo của Nhà nước trong những năm 1981 – 1986 đã
nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại… Ở miền Nam, Nhà nước
thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư
liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho
người khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những
người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước
ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao
cho người khác quản lý, sử dụng.
+ Hai là: Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp
trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ

công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất
nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất
để sản xuất, để ở.
+ Ba là: Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền,
miếu, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn

13
cảnh lịch sử chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng
hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học… đến nay các cơ
sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của
các cơ sở đó.
Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ,
dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc
lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại
đất, nhà.
+ Bốn là: Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng
tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở
nhờ. Có vụ cho mượn, thuê trong thời gian gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây
vài chục năm (nhất là ở miền Nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng,
chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ đòi lại
hoặc là hết hạn hợp đồng, hoặc là bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố
thì việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp.
- Thứ ba: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn: đây là trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc tài
sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất
nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa
một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con
đất đến khi ly hôn thì cha mẹ đòi lại…
- Thứ tư: Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với quyền sử dụng đất: đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài

sản gắn liền với đất đã chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù
hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận
được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến
tranh chấp.
- Thứ năm: Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa
các vùng đất được phép sử dụng và quản lý: đây là tranh chấp về ranh giới. Loại

14
tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác
định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của
người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa
những người sử dụng đất liền kề không rõ, đất này thường sang nhượng nhiều lần
bàn giao không rõ ràng.
Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan
nhà nước, đó là khi cấp đất cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ
thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự.
Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các
hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác
định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.
- Thứ sáu: Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với
đồng bào dân tộc sở tại: đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên.
Việc di dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính
quyền sở tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá
rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến những tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại.
- Thứ bảy: Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử
dụng đất khác với nhân dân địa phương: do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng
các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai,
không sử dụng hết đất để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng theo hình thức

phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội
quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó
cũng dẫn đến những tranh chấp đất đai.
- Thứ tám: Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử
dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang sử dụng
đất đã sử dụng đất hợp pháp, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền

15
và nghĩa vụ sử dụng đất của mình như: thực hiện các giao dịch về dân sự hoặc do
chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do
người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của
mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các dạng như sau:
+ Một là: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất.
+ Hai là: Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và
nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.
+ Ba là: Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông
nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su
với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và
quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: do
mục đích sử dụng đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho
người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng khiếu kiện việc
chuyển mục đích sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người
được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất
chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho
mình theo quyết định giao đất.
+ Bốn là: Tranh chấp về giải tỏa mặt bằng phục vụ các công trình công cộng,
lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp dạng này

chủ yếu là khiếu kiện về giá đất bồi thường, diện tích đất được bồi thường, giá cả
đất tái định cư và bồi thường không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa
đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở mang
đường, đô thị quá lớn dẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp, có
nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
Hiện nay ngoài những tranh chấp như đã kể trên, còn có một loại tranh chấp
nữa, đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp
hành chính về đất đai. Các dạng tranh chấp thuộc loại này nảy sinh khi các đương

16
sự quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng đã ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, các quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai.
Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn là một dạng tranh chấp phổ biến mà hiện nay các cơ quan pháp luật
của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết. Cũng
thấy được rằng việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn có vai trò rất lớn đối với xã hội nói chung,
góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt
là các cặp vợ chồng.
1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có thể hiểu “Tranh chấp đất đai
là tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Sở dĩ Th.s Lưu Quốc Thái – Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận như vậy vì: thứ nhất, theo khoản 1 Điều 5
Luật Đất đai năm 2003 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu”; thứ hai, Điều 202 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Tranh
chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã,
phường, thị trấn nơi có tranh chấp. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối

hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ
chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai”; thứ ba, Điều 160 Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định:
“Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai thì các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan
hành chính để được giải quyết”; thứ tư, đến nay các thuật ngữ tranh chấp đất đai và
tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế cho
nhau kể từ Luật Đất đai năm 1986 đến nay mà không hề có sự phân biệt.

17
Luật Đất đai năm 2003 lần đầu tiên tại khoản 26 điều 4 và tiếp tục được quy
định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai”.
Qua đó ta có thể thấy được, khái niệm “tranh chấp đất đai” là tranh chấp một
tổng thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và
nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng đất có
liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm tranh
chấp đất đai trong mối quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên
quan, chứ không phải cô lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm
phát huy trí tưởng tượng một cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không phù hợp.
Có nghĩa là, không thể “trộn lẫn” tranh chấp đất đai với những tranh chấp dân sự
thuần túy có liên quan đến đất đai.
Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định
quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp
hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai.
Vậy từ đó ta có thể rút ra một định nghĩa như sau:
Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan
hệ đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất [18,7].


Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xét giải quyết tranh chấp đất đai là một
trong những biện pháp quản lý Nhà nước đối với đất đai. Đó là biện pháp vô
cùng quan trọng để pháp Luật đất đai phát huy được vai trò của mình trong đời
sống xã hội.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của
nhân dân.
Kết hôn là một hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly
hôn là một hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng đó lại là mặt
không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn là

18
sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng cho hai vợ chồng, các con cũng như thành
viên khác trong gia đình thoát khỏi mâu thuẫn, xung đột, bế tắc trong cuộc sống.
Vậy ly hôn là gì?
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
“Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Hay nói cách khác ly hôn là sự
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sau khi kết hôn vì những lý do nhất
định, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng mâu thuẫn, quan điểm sống
không thể dung hòa, đời sống chung không thể kéo dài làm ảnh hưởng đến các
thành viên khác trong gia đình và ảnh hưởng đến việc nuôi dạy giáo dục con cái. Vì
thế ly hôn là giải pháp cho cả hai bên để mỗi bên tự tìm hạnh phúc cho mình. Qua
đó đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
mỗi người theo quy định của pháp luật.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn như sau: “tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng và những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân của họ

chấm dứt và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tòa án công nhận
hoặc quyết định”.
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng
Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung
sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung,
vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn
tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy
chế được gọi là “chế độ tài sản của vợ chồng” (được quy định tại các Điều sau:
Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 32; Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình) [10].

Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật Hôn
nhân và gia đình, đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều luật gia và

19
các nhà áp dụng pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc
chặt chẽ vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chế độ tài sản của vợ
chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất nước ở các giai đoạn phát triển có thể
là khác nhau.
Thực tế có hai trường phái pháp luật mang hai quan điểm khác nhau về vấn
đề này. Phần lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt pháp luật dự liệu một chế độ
tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết hôn có quyền lập hôn ước
(Contrat de marriage – tiếng Pháp). Chế độ tài sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu
lực áp dụng trong trường hợp hai vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được
lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm những quy định của luật chung. Chỉ có một số
nước như Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Arhentina, Việt Nam và một số bang của
Mehico duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng.
Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã tổ chức một cách có hệ thống các chế độ
tài sản của vợ chồng. Điều đó được thể hiện qua việc thiết lập một hệ thống các quy

định chung nhằm bảo vệ cuộc sống gia đình – được gọi là chế độ cơ sở, theo đó các
chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ
chồng (chế độ ước định) phải triệt để tuân theo. Tại các Điều từ 212 đến 226 Bộ luật
dân sự Pháp năm 1804 đã quy định những quyền và nghĩa vụ riêng biệt của vợ
chồng với một tinh thần chung nhất là: vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia
đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dậy dỗ con cái và chuẩn bị cho tương lai
của chúng (Điều 213), đặc biệt các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định
pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ
chồng (Le resgime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các
quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia
đình. Đó là những vấn đề: đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình, bảo vệ chỗ ở của
gia đình … Theo quy định của Điều 226, các quy định trên có hiệu lực đối với tất cả
các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa
nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối

20
với chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn
định cuộc sống gia đình.
Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên
tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không thể tách rời nghĩa vụ của
họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể
thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang
lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ, chồng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam chỉ tập trung quy định về
một chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản – tài sản mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng), tức là pháp luật Việt Nam
không quy định một điều luật nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Nhà lập
pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước,
nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung
giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp

định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do vậy, mọi
thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị
tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra.
Nhìn chung có thể hiểu khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu của vợ
chồng, cụ thể là các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung và riêng của vợ,
chồng; phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các
trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng”.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nghiên cứu về vấn đề
quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân và việc xác định quyền sử dụng đất là tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.
Có thể nói quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất
đai. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân [24, Điều 5, Điều 17].

21
Khi phân tích quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách là chủ sở hữu
đại diện, Nhà nước có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai.
Trong các quyền năng đó quyền sử dụng là có nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp đem
lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng Nhà nước không phải là chủ thể trực tiếp sử dụng
đất mà gián tiếp sử dụng đất thông qua các tổ chức, cá nhân bằng cách giao đất, cho
thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất của những người sử dụng đất ổn định.
Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sử dụng là quyền
“khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” [29, Điều 192]. Người
không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được
chủ sở hữu chuyển quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định.
Quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai.
Thông qua giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất, Nhà nước trao
cho người nhận đất các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó có sự
phân biệt theo loại đất, theo đối tượng sử dụng, theo hình thức giao đất hoặc thuê

đất. Quyền sử dụng đất có sự khác nhau về mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng
đất. Quyền sử dụng đất nông nghiệp khác với quyền sử dụng đất ở; quyền sử dụng
đất của hộ gia đình, cá nhân khác với quyền sử dụng đất của tổ chức. Quyền sử
dụng đất là một quyền dân sự, theo đó người sử dụng được quyền khai thác công
dụng, các thuộc tính có lợi từ đất nhằm mang lại lợi ích cho mình.
Ở nước ta các tổ chức, cá nhân không phải là chủ sở hữu đất nhưng được
Nhà nước trao cho quyền sử dụng đất. Đây là một quyền năng đặc biệt không giống
với quyền sử dụng bất kỳ một tài sản nào khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
quyền sử dụng đất đai thuộc về người sử dụng đất. Hay nói cách khác quyền sử
dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai, được người sở hữu đất chuyển cho
người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền tài sản của người sử dụng
đất. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, xong quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân
hoặc tổ chức. Người sử dụng đất không chỉ được khai thác các lợi ích từ đất một
cách ổn định, lâu dài mà họ còn được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các giao
dịch dân sự và kinh tế có liên quan đến đất đai. Có thể nói, Nhà nước đã giao cho

22
người sử dụng đất quyền định đoạt số phận pháp lý của thửa đất mà mình được sử
dụng trong khuôn khổ pháp lý quy định, nhờ đó người sử dụng đất ngoài việc khai
thác, sử dụng đất còn có thể chủ động thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho
người khác khi không có nhu cầu hoặc điều kiện sử dụng.
Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013, Bộ
Luật Dân sự năm 1995 và Bộ Luật Dân sự năm 2005 đều khẳng định cá nhân, tổ
chức có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai
với quyền sử dụng đất bởi chúng có sự khác biệt cả về nội dung và ý nghĩa cụ thể.
Dựa trên những quy định của pháp luật đất đai hiện hành cùng với những
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, ta có thể nhận thấy rằng, vợ chồng có thể là một trong số những chủ thể được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất và song song với nó là việc thực hiện các nghĩa vụ
của người sử dụng đất. Chính vì vậy, quyền sử dụng đất với tư cách là một

quyền tài sản có thể là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của mỗi
bên vợ, chồng.
1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
Khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng
chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Điều 58 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 bảo
hộ quyền sở hữu công dân quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”.
Việc xác định khối tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào sự tồn tại của
quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng. Theo khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng
tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân bắt

23
đầu từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn – nơi thường
trú của vợ hoặc chồng công nhận, vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận
kết hôn cho hai vợ chồng. Quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết
hoặc vợ chồng ly hôn (từ khi phán quyết ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật).
Các tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trong đó có quyền sử dụng
đất) đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo
ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trên thực tế, người
chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình và thường đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có được
sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đảm bảo sự bình

đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc sau khi ly hôn là nhà ở, quyền sử dụng đất rất
phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một
người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để đảm bảo lợi
ích chính đáng của mỗi người là rất khó khăn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định một cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung, hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi
chia tài sản chung của vợ chồng.
Do quan hệ hôn nhân được xác lập, tính cộng đồng và mục đích của quan
hệ hôn nhân là nhu cầu khách quan để nhà làm luật dự liệu tài sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất [25, Điều 27]. Quy định này hoàn toàn phù
hợp với Điều 40, 214 của Bộ Luật Dân sự về quyền bình đẳng của vợ chồng,
quyền sở hữu chung và phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam. Chính sự
hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hòa và bền chặt
hơn trong quan hệ gia đình.

24
1.3.1.1. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán,
cho thuê sau khi kết hôn
Vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho thuê quyền sử dụng đất
sau khi kết hôn thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Nhưng
nếu sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho
thuê quyền sử dụng đất riêng thì đó là tài sản chung của mỗi bên vợ, chồng [3, Điều
24, Điều 25]. Nhà nước có thể giao đất cho vợ chồng theo hình thức có thu tiền sử
dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất tùy từng loại đất và mục đích sử dụng
chúng như thế nào theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013: Nhà
nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp “Hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được
giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật này” và Khoản

1,4,5 Điều 34 Luật Đất đai năm 2003: Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
trong trường hợp sau: “1.Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở;…4.Hộ gia đình, cá
nhân được giao đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; 5.Hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất để xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh
doanh;…”, nhưng quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013 thu hẹp lại chỉ còn
4 đối tượng giao đất có thu tiền sử dụng đất: “1. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất
ở ; 4 Tổ chức kinh tế được giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang,
nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng”. Việc giao đất
cho các chủ thể thông qua hình thức cho thuê đất được Nhà nước thực hiện thông
qua các cơ quan có thẩm quyền. Nhà nước cho thuê đất dưới hai hình thức chính
đó là: thu tiền thuê đất hàng năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 thì việc
Nhà nước cho thuê đất chỉ gồm có 2 hình thức như trên, còn Luật đất đai năm
1993 thì bao gồm có ba hình thức đó là: thu tiền thuê đất hàng năm, thu tiền thuê
đất nhiều năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Nhìn chung,
Luật Đất đai năm 2013, Luật đất đai năm 2003 đã có những đổi mới khá tiên tiến
so với Luật đất đai năm 1993 về vấn đề này.

25
Theo khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013 quy định thì có 7 trường hợp
Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm và các đối tượng chủ yếu là hộ
gia đình và cá nhân, còn trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê thì đối tượng chủ yếu là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
1.3.1.2. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được từ thu nhập hợp pháp trong
thời kỳ hôn nhân
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng nhau chung sức tạo lập của cải vật
chất để phục vụ cho nhu cầu sống chung của gia đình. Thông thường tài sản do vợ,
chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động, hoặc do một

trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, sản phẩm đó để dùng trong gia
đình, còn dư ra, đem bán để có sự tích lũy, cũng có thể toàn bộ sản phẩm do vợ
chồng làm ra đều đem bán, tạo ra thu nhập cho gia đình; tài sản chung cũng có thể
hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm, do tổ chức sản
xuất, kinh doanh mà có v.v…
Có thể thấy rằng thông qua sức lao động của vợ, chồng được thể hiện dưới
các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập, tạo ra tài sản trong gia đình, dù các
tài sản đó được hình thành dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả quyền sử dụng
đất), nhưng nếu đó là kết quả của lao động chân chính, đều được công nhận là tài
sản chung vợ chồng.
Ngoài những thu nhập đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 27, thì những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền
trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng
được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, Điều 248, Điều 249,
Điều 250, Điều 251, Điều 252 Bộ luật Dân sự năm 2005 … trong thời kỳ hôn nhân.
Do đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng tạo dựng, có được từ nguồn thu nhập
hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

×