Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thủ tục tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THANH GIANG

THỦ TỤC TỐ TỤNG
CỦA TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THANH GIANG

THỦ TỤC TỐ TỤNG
CỦA TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý


HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Hoàng Thanh Giang

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG

5

MẠI VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.1.

Khái quát về trọng tài thương mại ở Việt Nam

5

1.1.1. Trọng tài thương mại - hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại

5

1.1.2. Trọng tài thương mại - cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại

8

1.2.

10

Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế - một loại hình trọng
tài thương mại ở Việt Mam

1.2.1. Bản chất của Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế


10

1.2.2. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài thương mại
quốc tế

13

1.3.

19

Khái quát về tố tụng trọng tài thương mại

1.3.1. Khái niệm tố tụng trọng tài thương mại

19

1.3.2. Nội dung của pháp luật về tố tụng trọng tài thương mại

22

1.3.3. Nguồn của pháp luật tố tụng trọng tài thương mại

32

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

36


CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIAC

2.1.

Những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại tại VIAC

2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của VIAC

4

36
36


2.1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại tại VIAC

40

2.1.3. Trình tự giải quyết tranh chấp tại VIAC

45

2.1.4. Thi hành quyết định của trọng tài VIAC

55

2.2.


Thực tiễn áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại
tại VIAC

60

2.2.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp thương
mại tại VIAC

60

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong giải quyết tranh chấp thương
mại tại VIAC

67

2.2.3. Những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong giải quyết
tranh chấp thương mại tại VIAC

72

Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

77

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TẠI VIAC

3.1.


Hoàn thiện các quy định pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam

77

3.2.

Hoàn thiện các quy định về tố tụng của viac

81

3.3.

Nâng cao năng lực, chất lượng viac và trọng tài viên

85

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

98

5



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá quen
thuộc và phổ biến trong hoạt động kinh doanh. Việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài có nhiều ưu điểm thuận lợi như đáp ứng tối đa quyền tự do thỏa
thuận của các bên, thủ tục giải quyết đơn giản, linh hoạt, bảo đảm bí mật kinh
doanh, đặc biệt là phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Ở Việt Nam,
mặc dù trọng tài thương mại đã tồn tại khá lâu trong nền kinh tế nhưng các
tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài còn khá khiêm tốn. Số lượng các
Trung tâm trọng tài chưa nhiều và khá ít trong đó khẳng định được uy tín và
vị thế ở trong nước và quốc tế.
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phịng Thương mại
và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC) được thành lập theo Quyết định số
204/TTg ngày 28 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hịa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài Ngoại
thương (thành lập năm 1963) và Hội đồng trọng tài Hàng hải (thành lập năm
1964). VIAC có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
thương mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối đại
diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn;
kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dị, khai thác;
vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng khơng, đường biển,
đường sắt, đường bộ... VIAC được đánh giá là một tổ chức trọng tài có uy tín
của Việt Nam, được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài tín
nhiệm và lựa chọn để giải quyết tranh chấp. VIAC có đội ngũ Trọng tài viên
là các chuyên gia có uy tín cao trong các lĩnh vực chun mơn. Cơ chế giải
quyết tranh chấp tại VIAC nhanh chóng, linh hoạt, thân thiện giúp các bên
tranh chấp tiết kiệm thời gian và chi phí phát sinh.


6


Tuy nhiên, chất lượng giải quyết tranh chấp của VIAC cịn nhiều hạn
chế, một số phán quyết khơng có hiệu lực thi hành do bị Tòa án các cấp hủy
quyết định, các tranh chấp chủ yếu là tranh chấp kinh doanh thương mại trong
nước, chất lượng trọng tài viên chưa theo kịp được yêu cầu của thực tiễn; thời
hạn giải quyết tranh chấp cịn chậm; uy tín của Trung tâm chưa đạt đến tầm
quốc tế… Những hạn chế này có nguyên nhân từ sự thiếu hoàn chỉnh trong
các quy định pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam và đặc biệt là sự
thiếu hoàn thiện, chưa khoa học, hợp lý trong các quy định của thủ tục tố tụng
tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.
Về mặt lý luận, chưa có cơng trình khoa học nghiên cứu một cách toàn
diện cả về lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài
quốc tế Việt Nam. Các cơng trình, sách bình luận, bài báo mới chỉ dừng ở
phân tích một số khía cạnh liên quan đến trình tự giải quyết tranh chấp tại
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, hoặc chỉ đề cập phân tích chung về
giải quyết tranh chấp thương mại tại trung tâm trọng tài trong các chương
giáo trình, sách tham khảo, luận văn thạc sĩ... Các kết quả nghiên cứu mới chỉ
dừng ở một khía cạnh pháp lý hoặc vụ việc cụ thể.
Do đó, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về trọng tài thương
mại, thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại và thực tiễn áp
dụng tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, phát hiện ra những bất cập, hạn
chế, từ đó đề xuất những giải pháp hồn thiện pháp luật trọng tài, hoàn thiện
Quy tắc tố tụng, nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp của Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam là một đòi hỏi khách quan, mang tính cấp thiết về
lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do này, tác giả lựa chọn vấn đề: "Thủ tục
tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay chưa có cơng trình nào dưới dạng luận văn thạc sĩ

hay luận án tiến sĩ nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về
thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.

7


Tình hình nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài không nhiều.
Các kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng ở một khía cạnh pháp lý hoặc vụ việc
cụ thể mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ
các quy định pháp luật về thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam, nghiên cứu so sánh thủ tục tố tụng của một số trung tâm trọng tài,
Luật mẫu về trọng tài, cũng như tổng kết thực tiễn giải quyết tranh chấp tại
Trung tâm trong một giai đoạn nhất định để đưa ra những nguyên nhân, giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc
tế Việt Nam. Do đó, đề tài có tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nghiên cứu
thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, phân tích thực tiễn
áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam, đánh giá những kết quả, hạn chế và chỉ ra các nguyên nhân của những
hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng của Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam, từ đó, đề xuất những giải pháp có cơ sở lý luận
và phù hợp với thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng trọng
tài, Quy tắc tố tụng trọng tài, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương
mại tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và các văn
bản pháp luật liên quan; thực tiễn áp dụng; kinh nghiệm của một số nước;
quan điểm của các nhà khoa học, các học giả về vấn đề mà đề tài nghiên cứu.

Đề tài nghiên cứu thủ tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam dưới góc độ Luật kinh tế, nghiên cứu có hệ thống các vấn đề thuộc về cơ
sở lý luận về trọng tài thương mại và thủ tục tố tụng trọng tài thương mại,
phân tích những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại

8


tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Trung tâm từ khi thành lập đến nay, từ đó kiến nghị các giải pháp
nâng cấp hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại tại Trung tâm Trọng tài
quốc tế Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh
đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn
giải, suy diễn logic… Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống
kê hàng năm của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và các vụ việc trong
thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên mạng Internet để tổng hợp và làm
sáng tỏ các tri thức khoa học luật kinh tế và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Trọng tài thương mại và thủ tục
tố tụng trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
và thực tiễn áp dụng tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp thương mại tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1.1.1. Trọng tài thƣơng mại - hình thức giải quyết tranh chấp
thƣơng mại
Xét về mặt ngữ nghĩa, trọng tài được hiểu là sự tài phán trung lập, là
người thứ ba (không phải hai bên tranh chấp) được các bên tranh chấp thỏa
thuận lựa chọn để phân xử sự bất đồng giữa các bên. Với ý nghĩa này, Trọng
tài có lịch sử hình thành từ rất lâu đời, là hình thức giải quyết tranh chấp xuất
hiện trước khi xuất hiện Tòa án, "là hình thức tư pháp đầu tiên được con
người sử dụng nhằm mục đích xác lập chân lý và hịa bình" [8, tr. 17].
Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là không thể tránh
khỏi và các thương gia thường cố gắng tìm ra phương pháp thích hợp để giải
quyết những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được
với nhau, vụ việc sẽ được đưa ra một bên thứ ba trung lập, thường là người có
kinh nghiệm để giải quyết. Trong giai đoạn đầu, việc giải quyết của người thứ
ba chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích những vấn đề các
bên đang quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo (mang tính chất tham
vấn). Về sau, xuất phát từ nhu cầu giải quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh
chóng, các bên đều thỏa thuận rằng quyết định của bên thứ ba giải quyết tranh
chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân của phương thức giải quyết

tranh chấp bằng trọng tài ngày nay [20, tr. 3-4].
Cùng với sự phát triển của kinh tế, trọng tài thương mại ngày nay
mang tính tồn cầu và đã trở thành hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến
và được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Hình thức giải quyết tranh chấp này

10


ngày càng khẳng định vị trí, vai trị của mình trên thương trường quốc tế. Ưu
điểm giải quyết bằng phương thức trọng tài thương mại là đảm bảo sự khách
quan của phương thức giải quyết tranh chấp, tính bí mật của hoạt động sản
xuất kinh doanh và sự giải quyết nhanh chóng, dứt điểm linh hoạt và tự chủ.
Định nghĩa về trọng tài, Từ điển Kinh tế thị trường giải thích trọng tài
với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp:
Trọng tài là một phương pháp giải quyết hịa bình các vụ
tranh chấp, là chỉ đơi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc,
những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách cơng
bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu
lực ràng buộc với cả hai bên. Người thứ ba này là người trọng tài
do hai bên chọn hoặc là cơ quan trọng tài [58, tr. 34].
Theo Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ: "Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách
quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt
buộc các bên tranh chấp phải thi hành" [Dẫn theo: 38, tr. 34].
Theo Giáo sư Philipe Fouchar: "Trọng tài là một phương thức giải
quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài
viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau" [26, tr. 23].
Cùng quan điểm coi trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp,
cuốn "Đạo đức và kỹ năng hành nghề của luật sư trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa" đã định nghĩa về trọng tài như sau: "Trọng tài là

phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh
chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết
tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của q trình đó" [12, tr. 183]. Giáo
trình Luật kinh tế (dùng cho hệ trung cấp) của Trường Đại học Luật Hà Nội
đưa ra định nghĩa: "Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thơng qua
hoạt động của Trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm

11


dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của
các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên" [52, tr. 343].
Điều 2 Luật Mẫu UNCITRAL quy định: "Trọng tài nghĩa là mọi hình
thức trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của một tổ chức thường trực" [44].
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định tại Điều 3: "Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này" [33].
Như vậy, các quan điểm khoa học và luật thực định coi trọng tài thương
mại là một phương thức để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thiên
về bản chất của trọng tài thương mại, thống nhất xác định phương thức tài
phán tư này được hình thành trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng của
các bên tranh chấp, được tiến hành theo thủ tục tố tụng đặc trưng, phán quyết
trọng tài có hiệu lực ràng buộc với các bên tranh chấp.
Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như
quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh… thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các
hoạt động kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu
được sử dụng trong giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này,
trọng tài tỏ ra phù hợp và có ưu thế hơn các hình thức giải quyết tranh chấp
khác. Phạm vi các vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương
mại rộng hay hẹp tùy thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó

quan niệm về "thương mại" có ảnh hưởng rất quan trọng.
Trên thế giới, pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm "thương
mại" theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan
đến các mối quan hệ có bản chất thương mại. Luật Thương mại năm 2005 của
Việt Nam quy định khái niệm hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Khái niệm "hoạt
động thương mại" được quy định trong Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp

12


cận được với pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho
phép mở rộng phạm vi các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài thương mại ở nước ta.
Qua phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa Trọng tài thương mại như
sau: Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó
các bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập (Trọng tài
viên hoặc Hội đồng trọng tài) để xem xét và ra phán quyết. Phán quyết của
bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
1.1.2. Trọng tài thƣơng mại - cơ quan giải quyết tranh chấp thƣơng mại
Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, một số
quan điểm khoa học đã đưa ra định nghĩa về trọng tài thương mại:
1. Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn
để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ;
2. Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên
đương sự giao tranh chấp cho để xét xử [51, tr. 348].
Ngoài ra, Từ điển Luật học Anh - Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm
về trọng tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một
q trình: "Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện

lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên
trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh
chấp ấy" [61, tr. 105].
Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng, quan điểm
coi trọng tài là một cơ quan để giải quyết tranh chấp thiên về mặt hình thức
nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các
Trung tâm trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn,
chỉ khác ở góc độ xem xét và mức độ khái quát vấn đề. Tuy nhiên, Tất cả đều

13


có một điểm chung rằng trọng tài là một cơng cụ mà người ta sử dụng để giải
quyết các tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do các bên thỏa thuận, vai
trò trung lập, đưa ra quyết định có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành…
Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một hình thức tài phán
tư, kết hợp được hai mặt: thỏa thuận và tài phán [35].
Với bản chất của một cơ quan giải quyết tranh chấp, một thực thể
pháp lý, cơ quan giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại có những đặc
trưng riêng khác với thiết chế Tịa án. Trọng tài là tổ chức xã hội - nghề
nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan
xét xử của Nhà nước, không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Các trọng
tài viên không phải là các viên chức Nhà nước. Khi xét xử, trọng tài không
nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết. Quyền lực của trọng tài khơng tự
nhiên mà có mà xuất phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp với
trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các
chủ thể tranh chấp mà không nhân danh quyền lực nhà nước. Phán quyết
trọng tài khơng mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết trọng tài vừa là sự

kết hợp giữa ý chí, sự thỏa thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ
quan có thẩm quyền xét xử.
Cơ quan tài phán trọng tài được tổ chức dưới các dạng khác nhau, chủ
yếu tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.
Trọng tài vụ việc tồn tại có tính chất lâm thời, khơng có trụ sở và bộ
máy cố định, trọng tài viên do các đương sự thỏa thuận lựa chọn. Do việc
thành lập dễ dàng, quy chế hoạt động đơn giản nên trọng tài vụ việc có khả
năng giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém các tranh chấp.
Trọng tài thường trực là trung tâm trọng tài, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ
riêng. Trọng tài thường trực tồn tại dưới hình thức các trung tâm trọng tài, có

14


trước khi giải quyết tranh chấp xảy ra, tồn tại độc lập, hoạt động một cách
thường xuyên, sắn sàng giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
thương mại khi các đương sự yêu cầu. Trọng tài thường trực được tổ chức với
mơ hình đa dạng, có thể là các trung tâm trọng tài đặt bên cạnh một cơ quan,
tổ chức khác hoặc có thể là các trung tâm trọng tài độc lập, thành lập dưới
hình thức cơng ty hoặc hiệp hội có đăng ký. Mỗi trung tâm trọng tài đều xây
dựng một bản điều lệ hoạt động và quy tắc tố tụng riêng trên cơ sở những quy
định của pháp luật trọng tài.
Tóm lại, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập,
song song với Tịa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được
các bên đương sự lựa chọn.
1.2. TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ - MỘT LOẠI
HÌNH TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1.2.1. Bản chất của Trung tâm Trọng tài thƣơng mại quốc tế

Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế là một loại hình trọng tài
thương mại, vì vậy, Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế mang đầy đủ bản
chất của trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại là sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trường và sự
phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp này chịu sự tác động lớn từ
trình độ phát triển của nền kinh tế. Khác với tòa án, trọng tài thương mại là tổ
chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân. Trọng tài không phải là một cơ
quan nhà nước, quyền lực của nó được hình thành trên cơ sở ý chí của các bên
tranh chấp. Quyền lực của trọng tài là "quyền lực hợp đồng" hay "quyền lực
đại diện", do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm; phán quyết của trọng tài
khơng mang tính quyền lực nhà nước mà mang tính đại diện cho ý chí của các
bên tranh chấp. Bản chất của trọng tài đã thể hiện sự độc lập của nó trong hệ
thống các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Bản chất của trọng
tài được thể hiện qua những yếu tố chủ yếu sau:

15


Trước hết, trọng tài có đặc trưng là bắt nguồn từ sự thỏa thuận. Căn cứ
quyền năng của trọng tài được bắt nguồn từ sự đồng thuận ý chí của hai bên
tranh chấp thông qua một thỏa thuận được quy định ở đa số pháp luật trọng tài
quốc gia, tổ chức trọng tài quốc tế. Thỏa thuận trọng tài phải bằng hình thức
văn bản để xác nhận chắc chắn ý muốn của cả hai bên trao cho trọng tài
quyền phán quyết đối với vụ việc. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở cho mọi hoạt
động tố tụng trọng tài, thông qua nó các bên đặt niềm tin vào sự cơng bằng,
cơng lý và khách quan của trọng tài. Vì vậy, trọng tài chỉ được giải quyết vụ
tranh chấp trên cơ sở có thỏa thuận trọng tài và do các bên đưa ra yêu cầu
đích xác tới một trọng tài hoặc là trọng tài vụ việc hoặc là trọng tài thường
trực. Thỏa thuận trở thành nguyên tắc quan trọng của trọng tài thể hiện sự
đảm bảo đối với các bên về quyền tự quyết của họ trong quá trình giải quyết

tranh chấp.
Tính thỏa thuận của trọng tài là điểm thể hiện sự khác biệt đối với Tòa
án bởi Tòa án là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại nếu tranh chấp đó khơng bị ràng buộc bởi một
thỏa thuận trọng tài. Tòa án xét xử nhân danh quyền lực nhà nước nhưng
trước một vụ việc tranh chấp thương mại có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
thì thẩm quyền của tịa án bị loại trừ. Điều này khẳng định sự công nhận của
Nhà nước trước sự tự do lựa chọn cơ quan tài phán của các bên tranh chấp.
Thứ hai, tính tài phán của trọng tài là một yếu tố quan trọng trong bản
chất trọng tài thương mại. Đưa ra phán quyết và buộc các bên thi hành thể
hiện tính tài phán của trọng tài. Trọng tài không chỉ là người thứ ba trung lập
hòa giải và đưa ra khuyến nghị với các bên mà trọng tài được quyền quyết
định vụ việc theo lẽ công bằng. Phán quyết được đưa ra nhân danh quyền lực
đại diện của các bên trao cho trọng tài. Điều này làm cho trọng tài khác với các
hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hịa giải. Trong thương
lượng hay hòa giải, các bên tự bàn bạc, thỏa thuận để thống nhất phương án
giải quyết tranh chấp và tự nguyện thực hiện phương án đã đạt được, không

16


có bất cứ một phán quyết nào được đưa ra, kể cả trong trường hợp hòa giải
với sự tham gia của hòa giải viên. Ở một số nước, phán quyết của trọng tài
nếu khơng được tự nguyện thi hành thì một bên có quyền u cầu Tịa án
cơng nhận phán quyết và sau đó được thi hành như bản án của Tòa án. Luật
Trọng tài thương mại của Việt Nam quy định phán quyết trọng tài được thi
hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, khơng phải qua thủ
tục cơng nhận của Tịa án (Điều 67)
Có thể thấy sự hồn thiện của các thuộc tính của trọng tài trong lịch sử
hình thành và phát triển của nó. Khi có tranh chấp các bên khơng thể tự giải

quyết được phải đưa vụ việc ra bên thứ ba trung lập. Trong giai đoạn đầu,
việc giải quyết của người thứ ba chỉ dừng lại ở việc xem xét nội dung tranh
chấp hướng các bên tới cách hiểu chung nhất và đưa ra ý kiến tham khảo cho
các bên. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu của giải quyết tranh chấp là dứt
điểm, nhanh chóng nên các bên đã chấp nhận lựa chọn quyết định của bên thứ
ba là phán quyết cuối cùng nhằm kết thúc vụ tranh chấp. Phán quyết này phải
không trái với quy định pháp luật song quan trọng hơn nó phải đảm bảo sự
cơng bằng cho các bên dưới khía cạnh thương mại. Một phán quyết mang tính
thương mại sẽ có giá trị tự nguyện thi hành cao hơn phán quyết đơn thuần
tuân theo quy định của pháp luật vì các bên tranh chấp là những nhà kinh
doanh dễ dàng chấp nhận nó hơn.
Như vậy, bản chất của trọng tài thương mại, cũng như Trung tâm
trọng tài quốc tế, có sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa
thuận làm tiền đề cho phán quyết và phán quyết phải được đưa ra trên cơ sở
những vấn đề đã được thỏa thuận. Với bản chất "là sự thỏa thuận" và mang
tính "tài phán", trọng tài còn được coi là một "Tòa án tư". Tính "tịa án" thể
hiện ở chỗ trọng tài là cơ quan xét xử, có quyền đưa ra quyết định cuối cùng
có giá trị bắt buộc các bên phải thực hiện. Cịn tính "tư" thể hiện ở chỗ trọng
tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước; quyền lực mà trọng
tài có được là do các bên tranh chấp nhất trí trao cho. Thẩm quyền của trọng

17


tài không bị giới hạn bởi yếu tố địa lý, hệ thống pháp luật hay chế độ chính
trị. Tuy vậy, Nhà nước vẫn giành cho mình quyền năng xét xử trong những
lĩnh vực nhất định nhằm bảo vệ không chỉ quyền lợi của các bên trong tranh
chấp mà còn bảo vệ trật tự công cộng, quyền lợi của những người liên quan,
đa số các quốc gia trên thế giới chỉ quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài trong lĩnh vực luật tư.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam thể hiện khá đầy
đủ bản chất phi nhà nước và tính tài phán của trọng tài, phù hợp với những
nguyên tắc chung trong thông lệ quốc tế. Khoản 1 Điều 3 của Luật Trọng tài
thương mại quy định "Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này" [33]. Khoản 5
Điều 4 khẳng định: "Phán quyết trọng tài là chung thẩm" [33].
1.2.2. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài thƣơng mại
quốc tế
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (tên tiếng Anh: Vietnam
International Arbitration Centre, viết tắt là VIAC) là một tổ chức trọng tài bên
cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được thành lập trên cơ sở
sáp nhập Hội đồng trọng tài Ngoại thương (thành lập năm 1963) và Hội đồng
trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964). Tổ chức và hoạt động của Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam trước đây được quy định trong Điều lệ tổ chức
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số
204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ và Bản quy tắc tố tụng
của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam do Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam ban hành. Ngày 11.11.2011, Bộ Tư pháp ban hành Quyết
định số 4256/QĐ-BTP về việc phê chuẩn Điều lệ Sửa đổi, bổ sung của Trung
tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam có tư cách pháp nhân, có con dấu
và tài khoản riêng, hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận. Trung tâm Trọng

18


tài quốc tế Việt Nam không phải là doanh nghiệp. Trung tâm có tài sản, ngân
sách riêng và hoạt động theo chế độ tự chủ về tài chính. Nguồn hình thành ngân
sách của Trung tâm bao gồm: Phí trọng tài; Phí hịa giải; Phí chỉ định Trọng tài
viên; Các khoản thu từ hoạt động hội thảo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nghiên cứu,

các dịch vụ hành chính, văn phịng; Các khoản tài trợ, đóng góp của các tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước và các khoản thu khác từ các hoạt động của
Trung tâm. Phí trọng tài quy định tại Luật khơng phải là phí được điều chỉnh
bởi Pháp lệnh phí và lệ phí. Thực chất phí Trọng tài là khoản thu từ việc cung
cấp dịch vụ phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm. Hoạt động
của Trung tâm Trọng tài khơng vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, thông qua
những hoạt động cung cấp dịch vụ Trọng tài nên Trung tâm Trọng tài có một
khoản thu nhất định từ phí Trọng tài nhưng khoản thu này rất nhỏ bên cạnh
khoản thu khác là thù lao cho các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài,
khơng có tính chất lợi nhuận như đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Khi mới thành lập, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam chỉ có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như
các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và
bảo hiểm quốc tế, chuyển giao cơng nghệ, tín dụng và thanh tốn quốc tế v.v...
khi một trong các bên đương sự là thể nhân hay pháp nhân nước ngồi và các
bên có thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra trước Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam hoặc có một điều ước quốc tế ràng buộc các bên phải đưa vụ tranh
chấp ra trước Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (Điều 2, Điều 3 Điều lệ
tổ chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam).
Với đội ngũ Trọng tài viên là những người có kiến thức và kinh
nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật, ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân
hàng, vận tải, bảo hiểm... các doanh nghiệp trong nước cũng có nhu cầu muốn
đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam. Đáp
ứng nhu cầu đó, ngày 16/12/1994, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 114/TTg mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế của Trung

19


tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, bao gồm: các tranh chấp phát sinh từ các

quan hệ kinh tế quốc tế và các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh
trong nước.
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam hoạt động nhằm mục tiêu thúc
đẩy sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác theo quy định của
pháp luật một cách công bằng, thuận lợi và nhanh chóng (Điều 6 Điều lệ
Trung tâm trọng tài).
Về cơ cấu tổ chức, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam gồm có Ban
điều hành, Ban thư ký, Hội đồng khoa học pháp lý; Viện nghiên cứu trọng tài;
Trung tâm hòa giải và các đơn vị trực thuộc khác. Ban Điều hành gồm các
thành viên do Ban Thường trực Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
chỉ định. Ban điều hành có ít nhất là ba thành viên và không quá năm thành
viên. Số lượng thành viên trong Ban điều hành do Ban Thường trực Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam quyết định trên cơ sở tham khảo ý
kiến của Ban điều hành nhiệm kỳ trước đó. Ban điều hành trực tiếp điều hành
Trung tâm và các đơn vị trực thuộc. Ban điều hành bầu Chủ tịch, Phó Chủ
tịch thường trực và các Phó Chủ tịch khác của Trung tâm. Nhiệm kỳ của Ban
điều hành là năm năm. Chủ tịch không làm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Chủ tịch là người đại diện theo pháp luật của Trung tâm, chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động của Trung tâm; thực hiện các nhiệm vụ được quy
định tại Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm. Các Phó Chủ tịch là người
giúp Chủ tịch điều hành cơng việc theo sự phân cơng của Chủ tịch. Phó Chủ
tịch thường trực là người thay mặt Chủ tịch điều hành và quyết định các vấn
đề thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch khi Chủ tịch chết hoặc vắng
mặt. Trong trường hợp cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch thường trực đều vắng mặt
thì một Phó Chủ tịch có thời gian làm Trọng tài viên lâu năm nhất tại Trung
tâm, thay mặt Chủ tịch điều hành và quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch.

20



Tổng thư ký là người được Chủ tịch cử, giúp Ban điều hành điều phối
hoạt động của Ban thư ký. Khi cần thiết, Chủ tịch Trung tâm có thể quyết
định thành lập các đơn vị trực thuộc và quy định chức năng, tổ chức của các
đơn vị.
Hội đồng khoa học pháp lý là đơn vị trực thuộc Trung tâm Trọng tài
quốc tế Việt Nam, có nhiệm vụ giúp Ban điều hành tổ chức nghiên cứu, tổng
kết, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Trung tâm; góp ý kiến xây
dựng chính sách, pháp luật khi được đề nghị hoặc có yêu cầu; cung cấp ý kiến
pháp lý khi có yêu cầu.
Viện nghiên cứu trọng tài là đơn vị trực thuộc của Trung tâm Trọng
tài quốc tế Việt Nam, có nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu, bồi dưỡng nghiệp vụ
về trọng tài, hòa giải và các phương thức giải quyết tranh chấp khác; tham gia
các đề tài nghiên cứu khoa học; biên dịch tài liệu; tổ chức hội nghị; hội thảo,
diễn đàn khoa học.
Trung tâm hòa giải cũng là đơn vị trực thuộc của Trung tâm Trọng tài
quốc tế Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
hòa giải theo quy định pháp luật.
Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam là những cá
nhân được Ban điều hành của Trung tâm xem xét, quyết định kết nạp Trọng
tài viên, khi có đủ điều kiện sau đây:
- Điều kiện chung: a) Tuổi từ 30 đến 70; b) Tốt nghiệp đại học và đã
qua thực tế công tác theo ngành đã học từ tám năm trở lên, trừ trường hợp
chun gia có trình độ chun mơn cao, có nhiều kinh nghiệm; c) Cam kết
giải quyết vụ kiện một cách độc lập, khách quan, cơng bằng và nhanh chóng;
d) sẵn sàng tham gia vào các hoạt động của Trung tâm; nỗ lực cống hiến vì sự
phát triển của Trung tâm.
- Điều kiện bổ sung: a) đã là Trọng tài viên trong ba vụ tranh chấp
được giải quyết bằng trọng tài trước đó, hoặc; b) có tên trong danh sách Trọng


21


tài viên của một tổ chức trọng tài được công nhận trên thế giới và đã tham gia
giải quyết ít nhất là một tranh chấp tại tổ chức này, hoặc; c) Có giới thiệu của
hiệp hội nghề nghiệp trong phạm vi toàn quốc, hoặc trường đại học hoặc viện
nghiên cứu, hoặc; d) được ít nhất một thành viên trong Ban điều hành Trung
tâm giới thiệu.
Việc cá nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện chung và bổ sung không
đảm bảo rằng cá nhân đó sẽ đương nhiên được Trung tâm kết nạp làm trọng
tài viên. Việc xem xét kết nạp một cá nhân làm Trọng tài viên thuộc thẩm
quyền của Ban điều hành Trung tâm.
Cần phân biệt giữa Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam là tổ chức
thường chỉ cung cấp các dịch vụ hành chính mang tính văn phịng, cịn Hội
đồng trọng tài mới đóng vai trị chủ chốt trong tố tụng trọng tài. Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam có quyền xây dựng Điều lệ và Quy tắc tố tụng,
tiêu chuẩn Trọng tài viên và quy trình xét chọn, lập danh sách Trọng tài viên,
xóa tên Trọng tài viên trong danh sách Trọng tài viên của tổ chức mình, có
chức năng tổ chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
quy chế và hỗ trợ Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phịng và các trợ
giúp khác trong q trình tố tụng trọng tài. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam cịn có thể cung cấp dịch vụ hành chính, văn phòng và các dịch vụ khác
hỗ trợ giải quyết tranh chấp, tham gia hoạt động hòa giải và các phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại khác như một kênh giải quyết tranh chấp lựa
chọn bên cạnh tố tụng trọng tài, tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ
năng giải quyết tranh chấp cho Trọng tài viên… Trung tâm cũng có quyền thu
phí Trọng tài và các khoản hợp pháp khác có liên quan đến hoạt động Trọng tài...
Về thủ tục tố tụng trọng tài, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
ban đầu có hai bản Quy tắc tố tụng: Quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế dùng để

giải quyết các tranh chấp quốc tế và Quy tắc tố tụng trọng tài trong nước dùng
để giải quyết các tranh chấp nội địa. Về cơ bản, hai bản quy tắc này giống
nhau. Sau khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại ra đời, Trung tâm đã xây dựng

22


một Quy tắc tố tụng thống nhất và bắt đầu áp dụng từ ngày 1/7/2004. Thực
hiện Luật Trọng tài thương mại 2010, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
ban hành Quy tắc tố tụng trọng tài mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2012.
Với việc Pháp lệnh Trọng tài thương mại được ban hành vào năm
2003, Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam cũng như các Trung tâm Trọng tài linh tế thành lập theo Nghị định số
116/CP đều hoạt động theo quy định của Pháp lệnh và Luật này. Đến nay, cả
nước có 08 Trung tâm trọng tài đang hoạt động, trong đó có 05 Trung tâm
được thành lập từ trước khi Pháp lệnh được ban hành gồm: Trung tâm Trọng
tài quốc tế Việt Nam, Trung tâm Trọng tài thương mại Hà Nội, Trung tâm
Trọng tài thương mại Á Châu, Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố
Hồ Chí Minh, Trung tâm Trọng tài thương mại Cần Thơ và 01 Trung tâm
trọng tài mới được thành lập trong tháng 8 năm 2006 là Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Thái Bình Dương, có trụ sở đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đối
với Trung tâm Trọng tài linh tế Bắc Giang, được thành lập theo Nghị định
116/CP nhưng sau khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại có hiệu lực thì Trung
tâm này đã chấm dứt hoạt động. Sau khi Luật Trọng tài thương mại có hiệu
lực, có thêm 02 Trung tâm trọng tài được thành lập là Trung tâm trọng tài
thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam và Trung tâm trọng tài thương
mại Tài chính đều có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, kể từ khi Pháp lệnh Trọngtài thương mại có hiệu lực từ
1/7/2003 được ban hành và sau này là Luật Trọng tài thương mại năm 2010
thì chỉ có 03 Trung tâm trọng tài mới được thành lập. Trong khi đó, ngồi

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam hoạt động ngày càng khẳng định được
uy tín và đã thật sự gây dựng được thương hiệu với số lượng thụ lý giải quyết
trung bình khoảng 20 vụ/năm, thì các Trung tâm trọng tài cịn lại hoạt động
cịn rất hạn chế. Theo Lan Ngọc viết trong Báo Kinh tế Việt Nam thì: Tại Việt
Nam, VIAC là tổ chức được đánh giá có uy tín nhất Việt Nam, có đủ năng lực
để giải quyết các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;

23


tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất có một bên có hoạt động
thương mại.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.3.1. Khái niệm tố tụng trọng tài thƣơng mại
Thuật ngữ "tố tụng" được sử dụng phổ biến và được định nghĩa như
là: cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải
quyết một vụ án đã được thụ lý theo các quy định pháp luật.
Theo đó, tố tụng trọng tài thương mại được hiểu là trình tự, thủ tục
xem xét, giải quyết vụ việc tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài.
Tố tụng trọng tài là chế định pháp luật hình thức, bao gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và các quy định về trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp của mỗi thiết chế trọng tài (không trái quy định pháp
luật), điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp
thương mại giữa trọng tài với những bên tham gia giải quyết tranh chấp và
giữa các bên tham gia giải quyết tranh chấp với nhau.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương thức mềm
dẻo và linh hoạt nhờ các quy định về tố tụng. Chính ở phương thức giải quyết
này, ý chí của các bên được tôn trọng, cho nên đại bộ phận các quy phạm về
tố tụng trọng tài đều là những quy phạm tùy nghi và tính tùy nghi này là ở

chỗ: cho phép có thỏa thuận khác và nếu khơng có thỏa thuận khác thì phải
theo quy định của pháp luật. Sự linh hoạt còn thể hiện ở việc các trung tâm
trọng tài khá tự do trong việc ban hành quy tắc tố tụng. Các trung tâm trọng
tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với đặc thù của mỗi Trung
tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên. Chỉ khi nào các bên khơng có
thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài khơng có quy
định khác, lúc đó mới áp dụng Luật. Như vậy, đối với tố tụng trọng tài, pháp
luật cho phép các bên tranh chấp được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong các quy
tắc tố tụng của mỗi cơ quan trọng tài, thậm chí trong các thỏa thuận giữa các

24


bên để giải quyết tranh chấp. Nếu các thỏa thuận này được các bên ưng thuận
thì cũng có giá trị ràng buộc và là "luật" đối với các bên tranh chấp.
Đây cũng là điểm khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng dân sự
trong việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Quy
định trình tự, thủ tục trong pháp luật tố tụng dân sự là những quy định có tính
chất bắt buộc, mệnh lệnh, yêu cầu các chủ thể tham gia phải nghiêm túc thực
hiện và không cho phép thỏa thuận mở rộng hay thu hẹp các bước trong quá
trình tố tụng. Những quy định này chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật do Nhà nước ban hành.
Tố tụng trọng tài thương mại cũng giống như các loại hình tố tụng
khác, đều có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thủ tục tố tụng.
Điều 31 Luật Trọng tài thương mại quy định thời điểm bắt đầu tố tụng
trọng tài. Trường hợp tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, nếu
các bên khơng có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được
tính từ khi trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Trong trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc, nếu các
bên khơng có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được

tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn. Luật Trọng tài
thương mại không nêu rõ thời điểm bị đơn được coi là nhận được đơn khởi
kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp các bên có tranh chấp về thời điểm
nhận đơn khởi kiện thì trách nhiệm chứng minh thuộc về nguyên đơn. Thời
điểm bắt đầu tố tụng trọng tài có ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhất là để xác
định xem vụ tranh chấp có cịn thời hiệu giải quyết hay khơng.
Với quy định trên thì ngày bắt đầu tố tụng trọng tài trong pháp luật
Việt Nam khác so với Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài vì Luật mẫu lấy
mốc là ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện. Theo Điều 21 của Luật mẫu,
"Nếu các bên khơng có thỏa thuận nào khác, tố tụng của Hội đồng trọng tài
liên quan đến tranh chấp cụ thể bắt đầu từ ngày đơn kiện gửi tới trọng tài

25


×