Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Những vấn đề pháp lý đặt ra từ việc tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THU GIANG


NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý §ÆT RA Tõ VIÖC
T¸I C¥ CÊU DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng


HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Phạm Thu Giang



1
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 3
MỞ ĐẦU 4
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài 4
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 5
3. Tình hình nghiên cứu đề tài 6
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 6
5. Dự kiến kết quả 7
6. Bố cục của luận văn 7
CHƢƠNG 1 – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNNN, VỀ TÁI CƠ CẤU
DNNN 8
1.1. Khái luận về DNNN 8
1.1.1.Khái niệm Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 8
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 10
1.1.3. Vai trò của DNNN 12
1.1.4. Tóm tắt quá trình xây dựng và cải cách DNNN ở việt Nam 13
1.1.5. Pháp luật về DNNN ở một số nước trên thế giới 23
1.2. Những vấn đề cơ bản về tái cơ cấu DNNN 29
1.2.1. Khái quát về tái cơ cấu DNNN 29

1.2.2. Mục tiêu và phạm vi tái cơ cấu DNNN 30
1.2.3. Vai trò của tái cơ cấu DNNN 35
1.2.4. Sự cần thiết của tái cơ cấu DNNN ở Việt Nam 36
CHƢƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DNNN, THỰC TRẠNG
CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VÀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐẶT RA KHI
DNNN TÁI CƠ CẤU 38
2.1. Thực trạng hoạt động của các DNNN ở Việt Nam 38
2.1.1. Những thành tựu chủ yếu của DNNN 39
2.1.2. Những hạn chế yếu kém của DNNN 42


2
2.2. Thực trạng các quy định hiện hành và các vấn đề đề pháp lý đặt ra khi
DNNN tái cơ cấu 45
2.2.1.Tái cơ cấu trong lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm, hàng hóa của DNNN 45
2.2.2. Tái cơ cấu trong quản trị DNNN 50
2.2.3. Tái cơ cấu về mô hình doanh nghiệp 55
2.2.4. Tái cơ cấu DNNN liên quan đến hoạt động quản lý của nhà nước với
DNNN 64
CHƢƠNG 3 - MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ KHI DNNN THỰC HIỆN TÁI
CƠ CẤU 80
3.1. Đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp
khác, loại bỏ các hình thức ưu đãi và bao cấp đối với DNNN còn tồn tại trên
thực tế. 80
3.2. Nâng cao hiệu quả quản trị DNNN 81
3.3. Đẩy nhanh hoạt động cổ phần hóa DNNN 85
3.4. phân tách giữa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng
QLNN 89
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97



3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
TW: Trung ương
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
CTCP: Công ty cổ phần
UBND: Ủy Ban nhân dân
CHLB: Cộng hoà liên bang




4
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phát triển từng ngày, đặc biệt khi
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày một sâu rộng, yêu cầu đặt ra
đối với việc tái cơ cấu nền kinh tế càng trở nên bức thiết hơn. Trong đó, việc tái
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm cấp
bách của quá trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế nước ta.
Được hình thành trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, DNNN cho
đến nay về cơ bản đã đáp ứng được những nhu cầu trong xã hội, giữ một vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các DNNN mà
trọng tâm là các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty đã bảo đảm sản xuất, cung ứng
các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Đặc biệt, trong thời
kỳ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua, các Tập đoàn
kinh tế, Tổng công ty nhà nước vẫn duy trì được hoạt động và có đóng góp quan

trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của nhà nước trong nhiều
lĩnh vực nhằm ổn định kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực mà các DNNN mang lại, hoạt động của các DNNN hiện nay
vẫn còn bộc lộ rất nhiều yếu kém như: hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của
DNNN còn hạn chế; thực trạng tài chính tại một số DNNN rất yếu kém, thua lỗ
kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính. Nhằm khắc phục những
hạn chế và yếu kém đó, yêu cầu đặt ra cần phải tái cơ cấu DNNN là cần thiết.
Đây chính là biện pháp giúp cho DNNN ngày càng mạnh hơn, thực sự trở thành
nòng cốt của kinh tế nhà nước, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt được hoạt động này, bên cạnh những chuẩn bị về phía
bản thân doanh nghiệp thì còn cần đến một sự chỉ đạo xuyên suốt, đường lối, chủ
trương đúng đắn cùng những chính sách pháp luật hợp lý, có thể tạo được hành
lang thông thoáng cho các DNNN tái cơ cấu nhưng cũng vừa đảm bảo sự tuân


5
thủ pháp luật, đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước. Do vậy, thông qua
việc chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý đặt ra từ việc tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nƣớc”, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu, xem xét những vấn đề pháp lý đặt ra
trong việc tái cơ cấu DNNN, trên cơ sở đó phân tích những mặt tích cực, hạn chế của
từng vấn đề và đề xuất những phương hướng hoàn thiện pháp luật trong việc tái cơ
cấu DNNN.
Khi nghiên cứu vấn đề này, luận văn chú trọng vào các nội dung sau:
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản về DNNN ở Việt Nam, tham khảo mô
hình DNNN ở một số nước trên Thế giới.
- Tìm hiểu về tái cơ cấu DNNN ở Việt Nam.
- Thực trạng hoạt động của DNNN ở Việt Nam hiện nay.
- Thực trạng các quy định hiện hành và các vấn đề pháp lý đặt ra khi
DNNN tái cơ cấu liên quan đến thay đổi hoạt động kinh doanh, sản phẩm hàng

hóa, quản trị doanh nghiệp, mô hình doanh nghiệp, quản lý nhà nước,
- Đưa ra một số đề xuất pháp lý khi DNNN thực hiện tái cơ cấu.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu, xem xét những vấn đề lý luận, thực
trạng pháp luật đặt ra trong việc tái cơ cấu DNNN. Trong nội dung trình bày, tác
giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về các khía cạnh pháp lý và thực tiễn cũng
như tham khảo kinh nghiệm tại một số nước trên thế giới. Qua đó, đề xuất những
phương hướng hoàn thiện pháp luật trong việc tái cơ cấu DNNN.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài phân tích khái niệm, làm rõ vai trò trách nhiệm của DNNN qua các
giai đoạn cũng như sự cần thiết phải tái cơ cấu DNNN. Trên cơ sở phân tích trực
trạng hoạt động của DNNN, thực trạng các quy định hiện hành, tác gia đã rút ra
một số vấn đề pháp lý đặt ra khi DNNN tái cấu trúc, tập trung vào bốn khía cạnh
sau: hoạt động kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, mô hình doanh nghiệp và


6
quản lý nhà nước đối với DNNN. Cuối cùng, tác giả đưa ra định hướng và những
kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
trong việc tái cơ cấu DNNN giai đoạn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu các công trình khoa học, luận văn từ trước đến
nay, tác giả nhận thấy, vấn đề tái cơ cấu DNNN đã được nhiều người quan tâm
nhưng đa phần chỉ dưới góc độ kinh tế hoặc đi sâu vào từng vấn đề riêng lẻ của
quá trình tái cơ cấu DNNN mà chưa có luận văn hay công trình nào phân tích
những vấn đề pháp lý tổng thế của quá trình tái cơ cấu DNNN. Có thể dẫn chứng
một số bài viết, công trình khoa học đã thực hiện như sau:
- OECD (2010), Hướng dẫn của OECD về Quản trị Công ty trong Doanh
nghiệp nhà nước ,Tổ chức Tài chính Quốc tế tại Việt Nam.

- TS. Trần Tiến Cường (2012), “Tái cấu trúc DNNN và giải quyết vấn đề
phân tách giữa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng quản lý
nhà nước đối với cá DNNN”, Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012, Hà Nội
- TS. Vũ Thành Tự Anh , “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt
nam”, Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012, Hà Nội.
- PGS.TS Nguyễn Đình Tài (2013), “Về định hướng và tiêu chí tái cấu
trúc Tập đoàn kinh tế nhà nước”, Kỷ yếu Hội thảo “Đổi mới cơ chế quản lý tổ
chức và hoạt động của Tập đoàn kinh tế nhà nước – Những vấn đề pháp lý cần
hoàn thiện”, Hà Nội.
Do vậy, lựa chọn nghiên cứu đề tài này đáp ứng được tính mới của
khoa học pháp lý.
4. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Tái cơ cấu DNNN là một hoạt động đã được thực hiện tại rất nhiều quốc
gia trên Thế giới. Nó được coi như một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy kinh tế
phát triển. Tuy nhiên, dựa trên những nghiên cứu, hiểu biết của mình, tác giả


7
muốn tập trung phân tích và làm rõ những vấn đề pháp lý phát sinh từ việc tái cơ
cấu DNNN tại Việt Nam, có tham khảo một số kinh nghiệm của các nước khác.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, căn cứ theo quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp khoa
học để tiếp cận vấn đề như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, logic và một số phương pháp khác.
5. Dự kiến kết quả
Đề tài mang đến cho người đọc cái nhìn bao quát về DNNN, hoạt động
thực tiễn của DNNN trên thị trường hiện nay cũng như những vấn đề đặt ra khi

tái cơ cấu DNNN. Bên cạnh đó, đề tài sẽ đưa ra những đánh giá khách quan về
hành lang pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này và phương hướng hoàn thiện pháp
luật.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về DNNN, về tái cơ cấu DNNN.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động của DNNN, thực trạng các quy định
hiện hành và các vấn đề pháp lý đặt ra khi DNNN tái cơ cấu.
- Chương 3: Một số đề xuất pháp lý khi DNNN thực hiện tái cơ cấu.


8
CHƢƠNG 1 – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNNN, VỀ TÁI
CƠ CẤU DNNN

1.1. Khái luận về DNNN
1.1.1.Khái niệm Doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam
Doanh nghiệp nhà nước có lịch sử tồn tại khá lâu đời và hiện đang giữ vai
trò chu
̉
đa
̣
o trong điều kiê
̣
n kinh tế thi
̣
trươ
̀
ng ở Việt Nam hiê

̣
n nay . Trong từng
giai đoạn khác nhau, quan điểm pháp lý về DNNN cũng có những đặc thù va
̀

thay đô
̉
i nhất định phù hợp với thực tiễn kinh doanh.
Theo Sắc lệnh số 104/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày
01/1/1948, DNNN lúc bấy giờ được gọi là doanh nghiệp quốc gia. Điều 2 Sắc
lệnh ghi nhận “Doanh nghiệp quốc gia là một doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
của quốc gia và do quốc gia điều khiển”. Sau đó, những đơn vị kinh tế của nhà
nước được gọi là xí nghiệp quốc doanh, lâm trường quốc doanh, cửa hàng quốc
doanh,
Thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức trong Nghị định 388/HĐBT
ngày 20 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế về thành
lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, DNNN được định nghĩa là tổ
chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở
hữu. DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng
trước pháp luật (Điều 1 Nghị định 388/HĐBT).
Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 ra đời đã định nghĩa cụ thể hơn về
DNNN như sau:
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành
lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao.


9
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số

vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính
trên lãnh thổ Việt Nam.
DNNN theo cách hiểu này đã được tiếp cận điều chỉnh bởi pháp luật có sự
khác biệt rõ rệt với các loại hình doanh nghiệp khác về vấn đề chủ sở hữu cũng
như tổ chức và quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Cũng theo luật này, DNNN
nước tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, doanh
nghiệp thành viên của tổng công ty.
Từ những thay đổi về tư duy quản lý kinh tế và điều chỉnh pháp luật đối
với các doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 đã có định nghĩa mới
về DNNN. Theo Luật này, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
So sánh khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” trong Luật Doanh nghiệp
nhà nước 1995, khái niệm DNNN nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003
có một số thay đổi như sau:
- Nội dung rộng hơn, bao gồm không chỉ doanh nghiệp 100% sở hữu nhà
nước, mà cả DNNN nắm cổ phần hay có phần góp vốn chi phối;
- Loại hình doanh nghiệp cũng đa dạng hơn, bao gồm cả công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần;
- Không xác định mục tiêu cụ thể của DNNN là thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội do nhà nước giao;
- Không còn khái niệm doanh nghiệp công ích.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời đã chính thức chấm dứt hiệu lực của Luật
Doanh nghiệp nhà nước 2003, mở ra một thời kỳ mới cho DNNN khi đứng trong
môi trường bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, khái niệm về


10
DNNN thì gần như không thay đổi, DNNN vẫn là những doanh nghiệp trong đó

nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Tại văn bản gần đây nhất là Nghị định
99/2012/NĐ-CP của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền,
trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp, DNNN cũng được chia ra làm các loại như:
- DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên;
- Doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ là công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam
Từ khái niệm về DNNN ở trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của
DNNN đó là:
- Thứ nhất, về sở hữu, nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ
phần, vốn góp chi phối.
Kể từ khi Luật Doanh nghiệp nhà nuớc 2003 ra đời, đặc điểm này đã được
nhấn mạnh. Theo đó, không chỉ những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100%
vốn mới được coi là DNNN, mà những doanh nghiệp có vốn góp chi phối của
nhà nước (trên 50%) cũng được gọi DNNN. Tỷ lệ này là hợp lý để nhà nước
đảm bảo được quyền hạn chi phối nhất định của mình trong quản lý, điều hành
DNNN; đảm bảo các DNNN vận hành và hoạt động theo đúng đường lối, chủ
trương, kế hoạch của nhà nước; thực hiện được những nhiệm vụ, trách nhiệm mà
nhà nước giao cho trong việc thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
Các công ty mà nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn góp được gọi là doanh
nghiệp có vốn góp nhà nước chứ không phải DNNN.
- Thứ hai, về quyền quyết định hoặc quyền chi phối:
Tương ứng với tỷ lệ vốn góp của nhà nước trong doanh nghiệp là quyền
quyết định hoặc quyền chi phối của nhà nước đối với doanh nghiệp đó.


11
+ Trong trường hợp nhà nước nằm giữ 100% vốn góp, nhà nước sẽ có

toàn quyền quyết định những vấn đề lớn của doanh nghiệp như: kế hoạch sản
xuất kinh doanh, chính sách phát triển, điều lệ, quy chế hoạt động, nhân sự, chia
tách, sát nhập…. Quyền hạn này sẽ được nhà nước thực hiện thông qua các cơ
quan, tổ chức đại diện cho chủ sở hữu nhà nước như các Bộ quản lý ngành, Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng thành viên tại
doanh nghiệp,….
+ Nhà nước có quyền chi phối khi nhà nước có cổ phần, vốn góp trên
50%. Phạm vi quyền hạn của nhà nước sẽ được thể hiện cụ thể trong các văn bản
quy phạm pháp luật (dành cho cổ đông có vốn góp chi phối), trong Điều lệ tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp. Đây là một tỷ lệ phù hợp để nhà nước thể
hiện được ý chí của mình trong những quyết định quan trọng của doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện quyền chi phối này của mình thông qua việc cử người tham
gia vào ban lãnh đạo của doanh nghiệp, giữ những vị trí chủ chốt trong Hội đồng
thành viên, Tổng giám đốc/ Giám đốc doanh nghiệp.
- Thứ ba, về hình thức pháp lý
Theo quy định, tất cả các DNNN trước đây sẽ phải chuyển sang mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005.
Quy định này nhằm tạo sự bình đẳng, sự đồng nhất về mô hình tổ chức giữa
DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác. Theo đó, các doanh nghiệp có vốn
góp 100% của nhà nước được chuyển đổi sang hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu; còn doanh nghiệp có vốn
góp chi phối của nhà nước thì được thành lập dưới hình thức công ty TNHH hai
thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần.
Ngoài ra, hiện nay còn một hình thức nữa đó là Tập đoàn kinh tế. Đây là
một tập hợp nhiều công ty hay doanh nghiệp, trong đó có một công ty đầu đàn
gọi là công ty mẹ, các công ty khác trong tập đoàn thì có vai trò là công ty con
hay công ty liên kết.


12

- Thứ tư, về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản
Doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn đều có tư cách pháp nhân: được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó (nhà nước
chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của nhà nước) , nhân danh mình tham
gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Riêng mô hình Tập đoàn kinh tế lại không có tư cách pháp nhân. Điều 38
Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp cũng đã quy
định rõ: “Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của Tập đoàn
do các công ty thành lập tập đoàn tự thoả thuận quyết định”.
1.1.3. Vai trò của DNNN
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, toàn bộ các DNNN đều giữ vai
trò là lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế, chi phối toàn bộ các ngành
nghề. Đến cuối thập niên 80 của Thế kỷ 20, Việt Nam tiến hành cải cách, đổi
mới nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường nhưng vẫn nhấn mạnh sự kiểm
soát hay điều tiết mạnh mẽ của nhà nước thông qua DNNN. Hiến pháp 1992 ra
đời, mặc dù công nhận nền kinh tế thị trường với đa phần sở hữu, tuy nhiên vẫn
nhấn mạnh nguyên lý kinh tế nhà nước hay DNNN đóng “vai trò chủ đạo” (Điều
19 Hiến pháp Việt Nam 1992).
Có thể thấy rằng bản thân khái niệm “vai trò chủ đạo” chưa thể hiện được
ý nghĩa rõ ràng và còn gây tranh cãi, xét trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
khi các doanh nghiệp là các chủ thể độc lập, tự do kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về các hoạt động của mình. Tuy nhiên, bởi Hiến pháp trước hết là một văn
kiện chính trị trọng yếu và công cụ pháp lý chủ chốt của Đảng cộng sản Việt
Nam, do đó, việc tuyên bố về vai trò quan trọng nói trên của DNNN đương
nhiên có hàm ý thực tế về mặt nội dung.


13

- Trước hết, các quy định đó của Hiến pháp bảo đảm cho Chính phủ có
các quyền hiến định trong việc đầu tư không giới hạn về tài chính và các nguồn
lực khác (mà không bị ràng buộc bởi sự cho phép của Quốc hội như thực tế ở
một số nước) vào thành lập và mở rộng hoạt động của DNNN;
- Bên cạnh đó, cùng với việc đầu tư là sự giao nhiệm vụ và can thiệp vào
hoạt động (cũng ở mức hầu như không bị hạn chế) đối với doanh nghiệp này.
Thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ được giao, các DNNN sẽ đảm
bảo vai trò của mình trong hai vấn đề quan trọng đó là : kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận và thực thi các yêu cầu, mệnh lệnh của Chính phủ như một cơ quan
nhà nước; góp phần điều tiết, ổn định kinh tế xã hội phát triển, thúc đẩy cạnh
tranh với các doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.4. Tóm tắt quá trình xây dựng và cải cách DNNN ở việt Nam
DNNN của Việt Nam được hình thành trong thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác, hệ thống DNNN vừa được phát triển, mở rộng, vừa được sắp xếp, cơ cấu
lại và từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Việt Nam sau khi giải phóng đến năm 1990, DNNN được tổ chức dưới
hình thức các tổng công ty, các liên hiệp các xí nghiệp và các DNNN độc lập. Từ
đầu thập niên 1990 và qua nhiều giai đoạn, gắn liền với quá trình đổi mới thể chế
kinh tế, DNNN đã từng bước được đổi mới, sắp xếp, trong đó nổi bật là chủ
trương xây dựng các tổng công ty (90 và 91) năm 1994; ban hành Luật DNNN
năm 1995; tiến hành cổ phần hóa một bộ phận lực lượng DNNN từ năm 1996 (
thí điểm từ năm 1993); thí điểm tổ chức Tập đoàn kinh tế nhà nước năm 2005 vv
Quá trình trên có thể chia làm 4 giai đoạn :
(1) Giai đoạn 1991-1994
Ở nước ta, sau khi giải phóng và thống nhất đất nước, do nhận thức đơn
giản và phiến diện nên đã đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu xã hội chủ


14

nghĩa. Xí nghiệp quốc doanh được thành lập ở mọi lĩnh vực. Đặc biệt trong vấn
đề quản lý vẫn theo kiểu tập trung quan liêu, theo kế hoạch định trước: lỗ thì
được bù, lãi thì nộp ngân sách. Điều này đã làm thui chột đi tính năng động, sáng
tạo của các xí nghiệp, đặc biệt là thiếu một môi trường kinh doanh. Số lượng
doanh nghiệp quốc doanh quá nhiều, chồng chéo về cơ chế quản lý, ngành nghề,
kỹ thuật lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp
thua lỗ triền miên, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ đặt ra là cần phải chấn chỉnh và tổ chức lại
sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế quốc doanh; khắc phục hiện tượng
thành lập xí nghiệp quốc doanh tràn lan ở các ngành và các địa phương. Hai văn
bản pháp lý quan trọng để điều chỉnh nhiệm vụ tổ chức và sắp xếp lại DNNN là:
Quyết định số 315/HĐBT và Nghị định 388/HĐBT.
Với chủ trương cổ phần hoá, giải thể và sát nhập các DNNN nhỏ và hoạt
động kém hiệu quả, Chính phủ đã thiết lập cơ sở pháp lý cho việc thành lập các
DNNN lớn bằng việc ban hành hai văn bản pháp luật quan trọng vào năm 1994,
đó là Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 về việc sắp xếp lại DNNN, tạo căn cứ
cho việc thành lập các “Tổng công ty 90” và Quyết định số 91/TTg ngày
7/3/1994 về thí điểm thành lập Tập đoàn kinh doanh, tạo căn cứ cho việc thành
lập các “Tổng công ty 91”. Có thể tóm tắt mô hình hai loại Tổng công ty nhà
nước này như sau:
- Tổng công ty 90 là các DNNN lớn, có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan
hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về
cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; phải có vốn pháp định trên
500 tỷ đồng (đối với một số tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn
pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng). Các Bộ và Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ uỷ quyền ra quyết định thành lập tổng
công ty 90.


15

- Mặc dù tinh thần của Quyết định số 91/TTg là hướng tới thành lập các
Tập đoàn kinh doanh, song vào thời điểm năm 1994, Tập đoàn kinh doanh là
hình thức tổ chức doanh nghiệp còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, các nhóm
doanh nghiệp được thành lập theo quyết định nói trên không không được gọi là
Tập đoàn ngay mà được gọi chung là các Tổng công ty 91. Cho tới tận năm
2006, các Tổng công ty 91 mới được từng bước chuyển thành các tập đoàn thực
sự. Việc thành lập bất cứ Tổng công ty 91 nào cũng đều thuộc thẩm quyền quyết
định của Chính phủ. Hội đồng quản trị của Tổng công ty 91 gồm từ 7 đến 9
thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Tổng công ty 91 phải có ít nhất 7
thành viên, phải có vốn pháp định tối thiểu 1000 tỷ đồng.
Khác với một Tổng công ty 90. một Tổng công ty 91 có thể hoạt động đa
ngành tuy vẫn được yêu cầu theo đuổi một ngành kinh doanh chủ đạo. Mục đích
thành lập các Tổng công ty 91 là để phát huy vai trò của nhà nước trong nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
(2) Giai đoạn 1995 - 2006
Năm 1995, tại Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội IX, Luật Doanh nghiệp nhà
nước đầu tiên được thông qua (có hiệu lực vào ngày 30/4/1995), ghi nhận các
DNNN là các pháp nhân kinh tế độc lập với địa vị pháp lý đầy đủ để tham gia
vào các quan hệ kinh tế một cách bình đẳng trên thị trường với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và doanh nghiệp tư nhân. Nội dung chủ yếu của Luật DNNN năm 1995 tập trung
chủ yếu vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, Luật DNNN đã cơ bản tách biệt hai mặt quản lý của chủ sở hữu
nhà nước với quản lý Nhà nước đối với DNNN. Quyền của chủ sở hữu nhà nước
tập trung vào việc kiểm soát các mục tiêu chiến lược, các quyết định quan trọng
liên quan đến tài sản, vốn và nhân sự chủ chốt của doanh nghiệp.
Thứ hai, DNNN được chia thành hai loại theo mục tiêu hoạt động là
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt dộng công ích. Từ đó, nhà nước có



16
cơ chế quản lý và chính sách phù hợp với từng loại doanh nghiệp. DNNN hoạt
động kinh doanh được mở rộng quyền và trách nhiệm để thực hiện hoạt động
trên cùng mặt bằng pháp lý và bình đẳng với các doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế khác, từng bước nâng cao tính cạnh tranh của loại doanh nghiệp
này. Đây cũng là những động thái bước đầu rất quan trọng để từng bước xoá bỏ
sự bao cấp đối với DNNN, tiến dần đến việc đưa loại doanh nghiệp này vào hoạt
động cùng một đạo luật doanh nghiệp thống nhất của nền kinh tế.
-Thứ ba, theo mô hình hoạt động, DNNN chia thành doanh nghiệp độc lập
và các Tổng công ty (90 và 91). Với mô hình Tổng công ty, Luật DNNN 1995 đã
bước đầu đưa ra chủ trương xây dựng các doanh nghiệp quy mô lớn dưới hình
thức các Tập đoàn kinh tế mạnh. Với việc quy định điều kiện để thành lập tổ
chức lại, giải thể DNNN, xác định lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực hạn chế thành lập
mới DNNN, Luật DNNN 1995 cũng đã hạn chế hoá định hướng đổi mới và sắp
xếp lại các DNNN. Đồng thời sự xuất hiện của Hội đồng quản trị trong mô hình
quản lý tại các Tổng công ty và DNNN độc lập có quy mô lớn là một bảo đảm
hơn cho việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp có
nhiều vốn và tài sản quan trọng.
Thứ tư, cơ chế quản lý tài chính của DNNN được quy định khá toàn diện,
thể hiện sự cải cách phù hợp với cơ chế thị trường nên đã bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất trong quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp nhưng vẫn mở
rộng hơn quyền tự chủ của doanh nghiệp tạo sự chủ động, linh hoạt trong hoạt
động của DNNN.
Luật DNNN năm 1995 là một bước tiến lớn trong việc xây dựng khung
pháp luật về DNNN. Để tiếp tục triển khai và hoàn thiện khung pháp lý này, năm
1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày
21/4/1998 về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN và đến năm 1999, Thủ tướng
Chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị số 15/1999/CT-TTg ngày 16/5/1999 về việc
hoàn thiện tổ chức hoạt động của tổng công ty nhà nước.



17
Tuy nhiên, tới đầu những năm 2000, với sự vận động và phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài và kinh
tế tư nhân trong nước, Luật DNNN đã bộc lộ các hạn chế từ cả góc độ đổi mới
cơ chế quản lý và sở hữu DNNN, lẫn góc độ tương tác của chế định DNNN với
các chế định về doanh nghiệp khác trong tổng thể khung pháp luật về kinh tế và
doanh nghiệp. Một điểm mốc quan trọng trong sự phát triển của khung pháp luật
về kinh tế tư nhân là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999 (có hiệu lực thay thế
Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990) thực hiện chế độ đăng ký
kinh doanh thay cho cấp phép thành lập doanh nghiệp nhằm xác lập nguyên lý
“mọi công dân có quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề trừ những gì
pháp luật nghiêm cấm”. Luật doanh nghiệp 1999 cũng đồng thời xác lập các chế
định pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ về các loại hình doanh nghiệp và
công ty như doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty
hợp danh, theo định hướng tuân thủ các thực tiễn và tiêu chuẩn chung của thế
giới.
Đồng thời với quá trình phát triển nói trên, trong quá trình cổ phần hoá và
tái cấu trúc quản lý, bản thân các DNNN cũng tiếp tục được chuyển đổi về sở
hữu và loại hình tổ chức. Do đó, vào ngày 26/11/2003, tại kỳ họp thứ 10 Quốc
hội khoá XI, Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 đã được ban hành. So với Luật
doanh nghiệp nhà nước 1995, Luật DNNN 2003 đã chứa đựng các nội dung cơ
bản mới và đáng lưu ý như sau:
Thứ nhất, khái niệm DNNN đã mở rộng hơn, bao gồm các doanh nghiệp
do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ và các doanh nghiệp mà nhà nước có cổ
phần, vốn góp chi phối.
Thứ hai, DNNN được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng và phù hợp
với các mô hình doanh nghiệp cơ bản thường có trong nền kinh tế thị trường như
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Phạm vi điều
chỉnh của Luật DNNN 2003 chủ yếu đối cới các công ty nhà nước và quan hệ



18
giữa chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước. Như vậy, việc
thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các DNNN không phải là công ty
nhà nước sẽ tuân theo Luật doanh nghiệp 1999.
Công ty nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ,
được tổ chức dưới hai hình thức công ty nhà nước độc lập và tổng công ty nhà
nước. Trong đó, Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự
đầu tư, góp vốn với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ
chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích
kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong
một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả
năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn công ty.
Có ba loại hình tổng công ty nhà nước là: tổng công ty do nhà nước quyết
định đầu tư và thành lập; tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập; tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (vào năm 2005 đã thành lập Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước đầu tiên –SCIC trực thuộc Bộ Tài
chính).
Hai loại hình tổng công ty thứ nhất và thứ hai nêu trên chính là cơ sở của
các tập đoàn kinh tế mạnh mà nhà nước đang hướng tới xây dựng.
Thứ ba, bỏ loại DNNN hoạt động công ích, chuyển từ quản lý DNNN độc
quyền hoạt động công ích sang quản lý hoạt động công ích trên cơ sở mở rộng
cơ chế đấu thầu hoạt động công ích. Xác định rõ mục tiêu hoạt động chủ yếu của
DNNN là hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước nói chung
và do Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh thực hiện đối
với công ty nhà nuớc. Tại công ty nhà nước có hội đồng quản trị, hội đồng quản
trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước và có quyền tuyển chọn ký

hợp đồng hoặc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và quyết định mức lương đối
với tổng giám đốc.


19
Thứ năm, Luật DNNN 2003 dành một chương trong Luật để quy định các
hình thức chuyển đổi sở hữu đối với công ty nhà nước. Lần đầu tiên những vấn
đề liên quan đến thay đổi quyền sở hữu tài sản nhà nước đã được luật hoá với
những quy định có tính nguyên tắc về hình thức, mục tiêu và thẩm quyền quyết
định khi thực hiện.
Trên cơ sở Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003, Chính phủ ban hành Nghị
định 153/2004/NĐ-CP về tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty,
công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; Nghị
định 132/2005/NĐ-CP về thiết lập các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước
đối với công ty nhà nước. Như vậy, các tổng công ty nhà nuớc, các tập đoàn kinh
tế nhà nước được xếp vào danh sách các công ty nhà nước đặc biệt quan trọng.
(3)Giai đoạn từ 2006 đến nay
Trong bối cảnh các hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước ngày càng
thể hiện tính đan xen và liên kết giữa các khu vực kinh tế khác nhau ở trong
nước và quá trình đàm phán của Việt Nam để gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) đang đi đến giai đoạn kết thúc, nhằm bảo đảm cạnh tranh bình đẳng,
lành mạnh giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác,
Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 ngày 29/11/2005. Luật
Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu một sự thay đổi lớn trong pháp luật về
doanh nghiệp ở Việt Nam, hình thành một khung pháp lý chung, bình đẳng áp
dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp. Đây là lần đầu tiên nước ta ban
hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình
doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế và loại hình sở hữu.
Với việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 2005, kể từ ngày 1/7/2010,
Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 hết hiệu lực, toàn bộ các công ty nhà

nước sẽ phải chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ để phù hợp với quy
định của luật doanh nghiệp. Về thực chất, việc chuyển đổi này thể hiện ở những
điểm sau:


20
- Thứ nhất, đó là việc thay đổi mô hình tổ chức pháp lý doanh nghiệp gắn
với việc thay tên đổi họ. Từ các DNNN với tên gọi là tổng công ty hay công ty
độc lập nào đó thành các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH (tuy nhiên, trên
thực tế, về hình thức, hầu hết các tổng công ty, tập đoàn sau khi chuyển đổi vẫn
giữ tên tổng công ty, tập đoàn như trước đây, chỉ xác định rõ thêm mô hình tổ
chức doanh nghiệp là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH).
- Thứ hai, thay đổi cơ cấu sở hữu (chủ sở hữu) công ty, từ một chủ sở hữu
duy nhất – nhà nước sang nhiều chủ sở hữu, trong đó có các ông chủ tư nhân đối
với công ty cổ phần và công ty TNHH hai thành viên trở lên (trừ công ty cổ phần
hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên mà các cổ đông hoặc thành viên đều
là nhà nước và công ty TNHH một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ).
- Thứ ba, thay đổi về mô hình tổ chức, quản trị công ty. Cụ thể như: về tổ
chức quản lý, DNNN có hoặc không có hội đồng quản trị do người quyết định
thành lập doanh nghiệp quyết định bổ nhiệm; còn công ty cổ phần thì có đại hội
đồng cổ đông, có hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ đông bầu ra; công ty
TNHH thì có hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty; về kiểm soát, đối với
những DNNN có hội đồng quản trị thì có ban kiểm soát do hội đồng quản trị
thành lập; còn công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là
tổ chức chiếm trên 50% tổng số cổ phần của công ty thì bắt buộc phải có ban
kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bầu; công ty TNHH có từ 11 thành viên trở
lên thì phải thành lập ban kiểm soát, các trường hợp khác thì có kiểm soát viên.
- Thứ tư, về Điều lệ công ty: Các DNNN đã chuyển đổi thành công ty cổ

phần hoặc công ty TNHH đương nhiên phải xây dựng lại Điều lệ công ty theo
mô hình công ty mới theo quy định của luật doanh nghiệp 2005.
- Thứ năm, về mối quan hệ và quyền của chủ sở hữu đối với công ty:
Đối với DNNN: nhà nước là chủ sở hữu đối với DNNN. Các cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu DNNN gồm: Chính phủ;


21
Thủ tướng Chính phủ (đối với DNNN đặc biệt do Thủ tướng quyết định thành
lập); Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh (đối với DNNN không có hội đồng quản
trị); hội đồng quản trị của công ty (đối với công ty có hội đồng quản trị); Bộ Tài
chính (trong xây dựng chính sách, cơ chế tài chính, cấp vốn đầu tư, giám sát,
đánh giá hiệu quả); Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)
(đối với công ty do mình đầu tư toàn bộ vốn điều lệ và phần vốn do mình đầu tư
ở doanh nghiệp khác). Ngoài ra còn có trường hợp DNNN là đại diện chủ sở hữu
đối với phần vốn của công ty đầu tư ở doanh nghiệp khác. Về quyền của chủ sở
hữu, đối với các DNNN thì đại diện chủ sở hữu nhà nước có các quyền sau: (i)
quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi công ty và các vấn đề về tổ
chức, nhân sự của công ty; (ii) quyết định mục tiêu, chiến lược, kế hoạch phát
triển công ty, quyết định các dự án đầu tư có giá trị lớn; (iii) Quyết định mức vốn
đầu tư, mức vốn điều lệ và điều chỉnh mức vốn điều lệ của công ty, quyết định
các dự án vay, cho vay có giá trị lớn; (iv) kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả
hoạt động kinh doanh của công ty.
Đối với DNNN đã chuyển đổi: chủ sở hữu gồm nhà nước và bất kỳ tổ
chức, cá nhân nào là thành viên góp vốn hoặc cổ đông của công ty, và quyền của
chủ sở hữu nhà nước cũng giống như các chủ sở hữu tư nhân khác tùy theo mô
hình công ty là công ty cổ phần hay công ty TNHH. Ví dụ như quyền của đại hội
đồng cổ đông, quyền của cổ đông sáng lập, quyền của cổ đông phổ thông trong
công ty cổ phần; hoặc quyền của thành viên, hội đồng thành viên, chủ tịch hội
đồng thành viên trong công ty TNHH hai thành viên trở lên; hoặc chủ sở hữu

công ty hay hội đồng thành viên, chủ tịch công ty trong công ty TNHH một
thành viên.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời, quy định một thời hạn bốn năm tính từ
1/7/2006 để Luật DNNN hoàn toàn chấm dứt hiệu lực và các DNNN chuyển đổi
sang các loại hình công ty hoạt động theo luật này. Riêng đối với các Tổng công
ty 91, mặc dù Quyết dịnh 91/TTg chưa tạo nên chế định pháp lý đầy đủ và hoàn


22
chỉnh cho việc tổ chức và hoạt động của các “Tập đoàn công ty” nhưng trên thực
tế, từ năm 2005, Chính phủ đã cho phép thành lập thí điểm một số tập đoàn kinh
tế. Các tập đoàn này hoạt động chủ yếu trên cơ sở các quyết định hành chính về
thành lập và điều lệ hoặc quy chế nội bộ, do đó, làm phát sinh các vấn đề gây
tranh cãi về tư cách, địa vị pháp lý cũng như luật điều chỉnh cho hoạt động của
các tập đoàn.
Trong bối cảnh đó, ngày 5/11/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định
101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức và quản lý tập đoàn kinh tế nhà
nước, có hiệu lực kể từ ngày 20/12/2009. Tiếp theo đó, ngày 19/3/2010. Chính
phủ lại ban hành tiếp Nghị định 25/2010/NĐ-CP về chuyển đổi DNNN thành
công ty TNHH một thành viên và tổ chức, quản lý công ty TNHH một thành
viên do nhà nước làm chủ sở hữu.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm 1/7/2010, khi Luật doanh nghiệp nhà nước
hết hiệu lực, mục tiêu tổ chức sắp xếp lại DNNN đề ra đã không đạt được : tiến
trình cổ phần hóa bị trì trệ; nhiều DNNN độc lập hoặc tổng công ty nhà nước cổ
phần hóa, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp mang tính hình thức từ công ty nhà
nước thành công ty TNHH một thành viên (mà bản chất vẫn như cũ); hiệu quả sử
dụng các yếu tố sản xuất (đất đại, tiền vốn, nguyên vật liệu ) kém hơn các loại
hình doanh nghiệp khác; lực lượng DNNN đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn
của nền kinh tế, nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế hoàn toàn không tương
xứng. Bên cạnh đó cơ chế quản lý vẫn còn nhiều bất cập như: quyền quản lý nhà

nước đối với DNNN; vai trò của chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu;
quyền chủ động điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; vai trò và cơ
chế trách nhiệm, quyền lợi của hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên;
chuyển cơ chế giao vốn sang cơ chế đầu tư vốn; cơ chế tài chính và cơ chế phân
phối lợi nhuận của doanh nghiệp; gắn lợi ích vật chất với trách nhiệm của người
quản lý và đội ngũ lao động v.v…chưa được chế định rõ ràng bằng một đạo
luật.


23
Để khắc phục những hạn chế trên, một trong những biện pháp trọng điểm
được đưa ra đó là thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 phê
duyệt Đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế,
Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 – 2015”. Văn bản này đã tạo hành lang
pháp lý, cơ sở vững chắc cho các DNNN đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu, khắc
phục những hạn chế còn tổn tại và từng bước phát triển nhanh, mạnh hơn nữa.
1.1.5. Pháp luật về DNNN ở một số nƣớc trên thế giới
1.1.5.1.DNNN ở Nga
Mặc dù quá trình tư nhân hóa ở Nga diễn ra rất mạnh mẽ và triệt để từ đầu
những năm 90 thế kỷ trước, nhưng sự ảnh hưởng của các DNNN vẫn còn khá
sâu sắc, đặc biệt khi Chính phủ Nga thể hiện ý đồ chính sách rõ ràng coi trọng sự
khẳng định quyền lực của chính quyền trung ương thông qua DNNN. Theo đó,
sự tồn tại của DNNN nhằm đáp ứng hai mục tiêu cơ bản sau:
- Mục tiêu chính trị, nhằm bảo đảm an ninh và thực thi các nhiệm vụ
chiến lược của quốc gia như an ninh quốc phòng, an ninh năng luợng, thực hiện
chính sách bao cấp của nhà nước trong việc cung ứng các sản phẩm và dịch vụ
thiết yếu của đời sống dân sự.
- Mục tiêu kinh tế và công nghiệp, nhằm huy động các nguồn lực của nhà
nước và xã hội để đầu tư pháp triển cơ sở hạ tầng, nghiên cứu cơ bản và bảo hộ

doanh nghiệp bản địa nhằm đối phó với quá trình cạnh tranh quốc tế đang diễn ra
gay gắt ở bên ngoài cũng như trong nước [23]
Các DNNN ở Nga được hiểu là tất cả các doanh nghiệp có cổ phần sở hữu
của nhà nước từ ít nhất 10% trở lên và bao gồm ba hình thức sau:
- Công ty cổ phần, điển hình là các tập đoàn công nghiệp và dịch vụ lớn
như Gazprom, Sberbank, Russian Railways, Transneft. Tại các tập đoàn này, cổ
phần nhà nước đều chiếm đa số hoặc ngay từ ban đầu thành lập hoặc mua sau đó.
Vấn đề đáng lưu ý đối với loại doanh nghiệp này là tính linh hoạt về quan hệ sở

×